Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

Chương 9: Giã từ vũ khí (3)



Một cuộc chiến tranh dài
Tập III
Chương 9: Giã từ vũ khí
(3)

- Thầy Tân ơi, dậy đi, Việt cộng tấn công tới rồi. Chuẩn bị một ít đồ đạc mà chạy.
Tiếp theo tiếng la là tiếng đập cửa ầm ầm. Tân vội bước xuống giường phóng ra mở cửa. Trời đã sáng hẳn, nắng đang lên. Tân nhìn sang bên cạnh. Bác Sáu Rô ở nhà kế cận, vừa qua đập cửa gọi Tân và đang trở về nhà mình. Bác đứng dưới mái hiên nói sang:
- Việt cộng đánh vào tới thành phố rồi. Thầy có nghe tiếng súng không?
- Có, lúc gần sáng cháu có nghe nhiều loạt súng nổ xa xa và cháu cứ nghĩ lính mình bắn chơi để mừng Tết. Nhưng sao bác biết Việt cộng tấn công?
- Tôi bắt đài phát thanh nghe. Việt cộng vào thủ đô bằng nhiều mặt lắm. Các tỉnh khác cũng bị tấn công. Nguy rồi thầy ôi. Thầy lo thu xếp đồ đạc đi. Đồ gì quí giá cho vào một bao cho gọn. Chắc chắn Việt cộng đến đâu cũng đốt nhà để gây hỗn loạn. Hễ họ tới thì mình vác bao chạy, ở lại nếu không bị họ giết thì máy bay mình bỏ bom cũng tiêu đời.
Đúng lúc đó, có tiếng xe gắn máy từ đầu hẻm tiến vào. Một người rú máy phóng nhanh đến và thắng gấp ngay trước cửa nhà. Tân la to:
- Anh Thế.
Thiếu tá Thế ngồi trên xe, nói vội vàng:
- Anh Tân, Việt cộng tràn vào thành phố rồi. Tiên sư cái bọn lật lọng. Tuyên bố ngưng chiến để dân ăn Tết rồi lợi dụng tiếng pháo, lén đem quân vào các thành phố đông dân. Thiệt là một bọn dối trá, giết người.
- Anh ở đâu đến đây?
- Ở nhà. Tôi vào tổng tham mưu từ chiều hôm qua, theo dõi tin tức ở một số thành phố đang đánh nhau với Việt cộng. Đến khuya tôi về nhà với vợ con vì thấy tình hình có vẻ khả quan và vì khối chiến tranh chính trị của tôi không có việc gì phải làm. Gần sáng, mở máy thu thanh mới biết đêm rồi chúng nó tiếp tục xâm nhập vô Sài gòn và nhiều thành phố nữa. Thực là bọn đầu trâu mặt ngựa, lựa lúc đồng bào vui Tết mà gây cảnh chém giết trong các khu đông dân. Chán quá, mình phải đánh nhau với bọn vô liêm sỉ, không có chút nào tinh thần thượng võ.
- Anh có nghe Việt cộng tuyên bố gì trên đài Hà nội và đài Giải phóng không?
- Ông ngoại cháu Thảo có nghe. Hình như tụi nó bảo chiếm hết miền Nam rồi. Tôi không dám nghe vì mình có thể nổi tức không dằn được, đập vỡ cái radio thì phí của mình đi.
- Anh đi đâu sớm vậy? Vào đây một chút.
- Không, tôi phải vào tổng tham mưu ngay bây giờ. Nhật lệnh của Đại tướng lặp đi lặp lại kêu gọi tất cả quân nhân trở về đơn vị tức khắc.
- Việt cộng vào có đông lắm không?
- Chưa biết rõ, đài phát thanh chỉ nói đại khái thôi. Có một cánh quân của chúng băng sông Sài gòn vào vùng Gia định; một cánh từ Bình chánh tràn vào Phú lâm và Chợ lớn; một cánh từ rừng sác qua ngã Nhà bè và vài tên không rõ từ hướng nào vào đến tận tòa đại sứ Mỹ để tấn công.
- Tình hình có nguy ngập lắm không?
- Không đến đổi nào. Bên mình không ngờ chúng lật lọng và vô liêm sỉ đến cỡ nầy nên cho lính đi phép quá nhiều. Vì vậy, chúng có ưu thế trong một hai ngày đầu thôi. Rồi các lực lượng mình sẽ tập trung trở lại thì chúng sẽ bị tiêu diệt.
- Bây giờ tụi em phải làm gì đây hả anh?
Tân giật mình quay lui, Thùy Liên đang đứng tựa cửa, vẻ mặt đầy lo lắng. Thiếu tá Thế đáp một cách ôn tồn:
- Trước hết là bình tĩnh. Việt cộng đã xâm nhập vào nơi nào rồi thì chưa rõ lắm. Mọi người nên ở trong nhà. Chính phủ đã ban lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ rồi. Ngoài đường bây giờ, chỉ có xe tuần tiểu thôi. Nên gói ghém đồ đạc lại, tiền bạc nữ trang cho vào một bọc nhỏ. Nhớ là Việt cộng sẵn sàng dùng biện pháp khủng bố, nghĩa là đến đâu thì đốt nhà đến đó. Chúng sẽ tìm cách chui vào các khu lao động như ở đây chẳng hạn vì các khu nầy đường sá chật hẹp, dân cư đông đúc, rất khó cho chúng ta hành quân tiêu diệt. Tôi qua đây nhờ anh Tân theo dõi tình hình. Nếu phải bỏ chạy thì cố gắng qua giúp đỡ gia đình tôi. Tội nghiệp, chỉ có ông già, phụ nữ và trẻ nhỏ thôi.
Thùy Liên lo lắng:
- Bây giờ anh đi đâu?
Thế cười:
- Đi đánh Việt cộng. Tôi vào trình diện nhiệm sở ngay bây giờ. Tôi qua thông báo tình hình cho anh Tân rõ để đối phó rồi đi ngay.
- Anh chưa mặc quân phục mà.
Thế chỉ một gói cột ở sau xe:
- Quân phục trong nầy, vào tổng tham mưu mới thay. Tình hình trên các con đường chưa biết thế nào, mặc thường phục đi thì yên tâm hơn.
- Nhưng gặp lính tuần tiểu ngoài phố thì sao?
- Không sao, tôi có mang theo giấy tờ tùy thân đây. Gặp phe ta thì không lo, chỉ sợ gặp Việt cộng thôi. Bị mấy ảnh vớ được thì khốn nạn cái cuộc đời.
Thiếu tá Thế quay lại nhìn Thùy Liên:
- Liên hãy bình tĩnh nhé, đừng quá hoảng hốt, gây ảnh hưởng xấu đến em bé trong bụng. Cô nên nhớ rằng anh Tân cũng đã là sĩ quan và đã từng lăn lóc ngoài chiến trường. Cứ tựa vào đó thì yên tâm.
Thùy Liên nói với giọng nhỏ nhẹ:
- Cám ơn anh. Theo anh thì em có nên vào trình diện tổng y viện Cộng hòa ngay hôm nay không?
- Không cần. Quân đội chỉ triệu tập quân nhân mà thôi. Cô đâu phải là quân nhân.
- Nhưng em là nhân viên ở một cơ quan của quân đội.
- Tôi vào tổng tham mưu rồi sẽ liên lạc qua tổng y viện. Nếu cần thì tôi sẽ cho xe về đưa cô đi trình diện.
Thiếu tá Thế nói xong quay xe lại, đạp máy và tiến nhanh ra đường cái. Hai vợ chồng vào nhà, khép cửa lại.
Thùy Liên lo lắng hỏi chồng:
- Bây giờ làm gì đây anh?
Tân nhún vai:
- Chẳng làm gì cả. Ngồi yên mà chờ đợi tình hình biến chuyển. Anh phải đi gói ghém tiền bạc, nữ trang và vài món đồ dùng cần thiết trước đã.
Thùy Liên vẫn giữ nguyên vẻ lo lắng:
- Anh Tân, không biết ở Cần thơ, tình hình ra sao. Việt cộng có tràn vào chiếm làng xóm em dưới đó hay chưa? Em lo quá. Anh Tân, kỳ nầy đất nước mình có thể mất vào tay cộng sản hay không?
Tân kéo vợ ngồi xuống bên mình, âu yếm vỗ về:
- Thôi đừng lo nữa vì lo cũng vô ích. Miền Nam còn mạnh lắm, chưa mất được đâu. Em không nghe anh Thế vừa nói khi nãy sao? Chúng ta chỉ thất thế lúc đầu vì không lường được sự tráo trở của cộng sản, nhưng rồi mình cũng sẽ tập họp được các đơn vị lại để đuổi họ ra khỏi các đô thị.
- Không thể tránh khỏi thương vong phải không anh?
- Chắc chắn, cuộc chiến Tết Mậu thân này sẽ có rất nhiều người chết, trước hết là thường dân vô tội. Anh đã từng đánh nhau với Việt cộng trong các làng xóm xa xôi và đã chứng kiến nhiều thường dân chết oan vì bom đạn của cả hai bên, dù ở các nơi đó, dân cư thưa thớt, có ý thức về nguy cơ nên đã đào hầm trú ẩn. Nay Việt cộng đưa chiến tranh đến tận các thành phố đông đúc, dân chúng phơi lưng ra trước súng đạn thì thương vong sẽ vô cùng khủng khiếp. Dù với chiến thuật nào đi nữa thì đó là một tội ác khó biện minh được.
Tân dừng lại một chút, thở ra rồi nói tiếp:
- Ngoài dân chúng ra, bộ đội của họ cũng phải chết nhiều lắm. Từ đầu cuộc chiến đến nay, chiến thuật của Việt cộng là vừa đánh, vừa né tránh. Anh thấy điều nầy rất rõ lúc còn đi hành quân. Quân đội chính qui mình đi đến đâu thì họ bỏ trốn đến đó, rồi thừa dịp mình không đề phòng, phục kích đánh một trận rồi bỏ chạy. Khôn lanh như thế mà còn bị phi cơ và pháo binh tàn sát một cách rùng rợn. Bây giờ, chường mặt ra ở đô thị với địa thế chưa quen biết thì chịu sao nổi với hỏa lực của quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Thùy Liên nhìn chồng với vẻ ngây thơ:
- Có lẽ Việt cộng điên rồi. Hay là trong đợt oanh kích vừa qua vào miền Bắc, Mỹ đã sử dụng loại vũ khí nào đó làm cho các lãnh tụ cộng sản hóa điên hết rồi. Nếu quả thực như thế thì đáng sợ anh nhỉ?
- Em khéo tưởng tượng, làm gì có loại vũ khí đó. Họ còn ranh ma lắm chưa hóa điên đâu. Miền Nam còn khốn đốn với họ dài dài.
Tân thôi nói, ngồi gật gù một chốc rồi lẩm bẩm:
- Kể ra thì đó cũng là lẽ công bình.
Thùy Liên ngạc nhiên;
- Anh Tân, anh nói công bình cái gì vậy?
- Anh đã từng hành quân vào các làng mạc ở đồng quê và đã biết rõ nỗi cơ cực mà chiến tranh gây ra cho đồng bào mình dưới đó. Về Sài gòn, anh thấy thiên hạ phây phây như không hề biết cuộc chiến tranh đang ác liệt ở cả hai miền Nam Bắc. Thiên hạ vẫn cứ ăn chơi, vũ trường đêm đêm vẫn xập xình tiếng nhạc, từng cặp trai gái vẫn lả lướt trên sàn nhảy.
Tân ngừng lại, móc thuốc ra hút rồi tiếp:
- Lúc còn nằm ở quân y viện Cần thơ, có một thương binh là thiếu úy Hiển bảo rằng phải tỏ ra khoan dung với những kẻ ăn chơi hưởng thụ đó. Anh chịu thua, không thể nào cao thượng như thiếu úy Hiển nên không thể nào dẹp đi được nỗi buồn phiền. Tại sao trên cùng một đất nước đang bị nguy cơ của cộng sản mà thân phận của dân quê và dân thành thị khác nhau đến thế. Việt cộng đưa chiến tranh vào thành phố vì mục tiêu chiến thuật chiến lược gì thì anh chưa rõ, nhưng điều đó giúp cho dân thành phố nếm mùi chiến tranh để chia sẻ phần nào thân phận con người với dân quê. Đó không phải là lẽ công bình sao?
- Anh trách người dân thành thị không biết chia sẻ nỗi cơ cực vì chiến tranh với người dân quê phải không?
Tân gật đầu. Thùy Liên nói như muốn khóc:
- Em cũng là người thành thị. Quê em là Bình thủy cũng thuộc thành phố Cần thơ. Em lớn lên, đi học rồi ra làm việc luôn tại đô thị, em chưa bao giờ về sống tại đồng quê để chia sẻ thân phận đồng bào mình dưới đó. Em là một trong những người thành phố đáng ghét mà anh vừa mới nói, phải không anh?
Tân chưng hửng nhìn Thùy Liên một chốc rồi ôm đầu nàng áp vào ngực mình:
- Thùy Liên em, anh không bao giờ trách em đâu. Anh trách những người chỉ biết ăn chơi ở thành phố. Em là cô gái của đô thị nhưng em đã đau khổ quá nhiều do cuộc chiến tranh của cộng sản gây ra. Em đã mất mối tình đầu đời vì chiến tranh. Hàng ngày, em đã đổ biết bao nước mắt vì những vết thương mà chiến trường để lại trên cơ thể của thương binh. Tình nghĩa vợ chồng của mình không phải xuất phát từ nỗi bất hạnh mà chiến tranh đã gây cho anh hay sao? Không, Thùy Liên ạ, kể về thân phận con người trong chiến tranh, không ai có thể trách móc em được. Trái lại, em là người con gái biết đau khổ, đáng yêu, đáng quí vô ngần!
Thùy Liên khóc thút thít:
- Em cảm ơn anh. Em nói thế chứ dù anh có trách em, có ghét em đi nữa thì em vẫn yêu anh mãi mãi.
- Nhưng tại sao em khóc?
- Em lo cho ba má, gia đình anh chị Hai và hai thằng em trai dưới đó. Theo anh thì Việt cộng có thể tràn vào Cần thơ theo ngã Bình thủy không?
- Phải đợi anh Thế về mình hỏi thì mới biết, nhưng theo sự suy luận của anh, Việt cộng không chọn ngã đó để tấn công Cần thơ.
- Tại sao vậy?
- Vì khó qua được phi trường Trà nóc. Em cũng biết Việt cộng lợi dụng dịp Tết, Việt Nam Cộng hòa không phòng thủ vì hưu chiến theo thỏa thuận ngầm giữa đôi bên. Lính Mỹ thì đâu có ăn Tết, đâu có gia đình ở đây mà về phép. Họ vẫn túc trực một trăm phần trăm tại nơi đồn trú. Việt cộng đụng vào họ thì tan xương. Anh biết phi trường Trà nóc là do Mỹ xây dựng với một phi đạo dùng cho phi cơ phản lực lên xuống. Nếu có cánh quân nào tiến vào Bình thủy thì ắt phải đụng với lực lượng hỗn hợp Việt Mỹ tại đó thì không tài nào vượt qua được. Có lẽ Việt cộng chọn đường Cái răng hay một đường khác để xâm nhập trung tâm thành phố. Em đừng quá lo.
Tân ngưng nói, cúi đầu thở dài. Vài phút sau, cậu ngẩng lên, đôi mắt thực buồn bã:
- Thùy Liên em, anh ngao ngán chiến tranh quá rồi. Gần hai năm nay anh nghĩ rằng mình đã từ giã vũ khí về lo dạy học và xây dựng gia đình với em. Trời hỡi, bây giờ chiến tranh lại theo vào đây! Sẽ có những thây người co quắp trên đường phố! Đó là thân xác của đồng bào vô tội, thân xác của những đồng đội đáng thương, cả thân xác của những người một thời từng là đồng chí của anh.
Cậu đứng dậy, nện mạnh gót chân trên suốt bề dọc của gian nhà rồi kéo chiếc ghế đến bên cửa sổ, ngồi xuống thẩn thờ nhìn ra bên ngoài, lòng ngổn ngang bao nỗi buồn phiền.
Bỗng cậu giật mình vì một bàn tay vuốt nhẹ trên tóc, mũi cậu sực nức hương thơm ngào ngạt. Cậu từ từ quay lại, nắm lấy tay Thùy Liên và áp nhẹ mặt mình vào cái bụng no tròn, bên trong chứa sản phẩm của một tình yêu tuyệt vời. Thùy Liên cúi xuống mỉm cười:
- Anh Tân, mặc kệ thiên hạ, mình đừng thèm quan tâm đến chiến tranh nữa anh nhé.
Tân đứng dậy:
- Đúng rồi, mặc kệ thiên hạ. Vợ chồng mình hãy tiếp tục ăn Tết với nhau. Em dọn thức ăn ra đi. Anh có chai rượu mà anh có ý để dành cho một dịp lớn, bây giờ khui ra đi, anh sẽ uống với em.
- Nhưng anh Tân, em đang mang thai đâu có uống được. Người ta bảo, mẹ có bầu mà uống rượu thì sau nầy đứa con dễ bị động kinh.
- Được rồi, em cứ dọn ra đi. Anh uống thay cho em và cả cho con nữa. Một ly cho anh, một ly cho em rồi một ly cho con, cứ vòng vòng như thế cho đến khi chúng mình say, xem chuyện thiên hạ như cỏ rác mới thôi.
Thùy Liên tuân lời, vội vã dọn thức ăn ra.
Quả thực, sau bữa ăn, Tân say mèm, đến độ Thùy Liên phải dìu cậu vào giường. Được một điều hay là khi say, Tân tốt tính nghĩa là không có cử chỉ hay lời nói xằng bậy mà nằm yên ngủ vùi.
Dọn dẹp xong, Thùy Liên đứng dậy, cảm thấy khá mệt mỏi. Gian nhà bỗng trở nên vắng lặng. Bên ngoài có tiếng người í ới, thỉnh thoảng có tiếng xe chạy xa xa. Thùy Liên cảm thấy lo lắng. Nỗi lo một lúc một lớn dần. Nàng nghĩ thầm: “Nếu giờ nầy, giặc đến đây mà anh Tân còn say thế nầy thì làm sao đây?”. Nàng hối hận đã để cho chồng quá chén. Lúc đó nàng muốn cho chồng đừng nghĩ đến chiến tranh nữa. Nhưng làm sao đừng nghĩ đến được khi chiến tranh đã bò đến thành phố, nằm lơ lửng đâu đó và có thể đổ ập xuống đầu lúc nào không biết.
Nàng bước ra phía trước nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ. Cảnh vật có vẻ bình yên và vắng lặng hơn ngày thường. Nàng quay vào, mở cái bao ra, nhét thêm hai bộ quần áo, một của nàng và một của chồng. Xong, nàng cột bao lại cẩn thận và vào buồng, nhìn chồng vẫn ngủ say. Nàng định leo lên nằm cạnh nhưng lòng bồn chồn quá nên thôi.
Nàng mở cửa bước ra ngoài gọi to:
- Bác Sáu ơi, bác Sáu.
Nàng gọi đến lần thứ hai thì ông già láng giềng bước ra, hỏi:
- Gì đó cô?
- Bác có nghe tin gì thêm không?
- Chẳng có gì lạ. Vẫn đánh nhau nhưng tiếng súng mỗi lúc một xa hơn. Có lẽ Việt cộng đang bị đuổi ra khỏi thành phố. May quá, nhờ Trời Phật độ trì nên chúng mình được yên ổn, không bị bọn quỉ đến quấy phá.
- Thành phố còn giới nghiêm không bác?
- Vẫn còn, nhưng ai có việc đi lại cũng không bị làm khó dễ gì, miễn là đừng đến gần những vùng mà quân đội đang hành quân để truy kích Việt cộng, Nghe nói trong đồng Ông Cộ bên Gia định, trong Chợ lớn, Phú lâm và bên Chánh hưng đang đánh to lắm. Nhiều chỗ họ đốt nhà trước khi rút đi như thời Bình xuyên vậy.
- Sao bác biết rõ vậy?
- Thằng Tí nhà tôi mới chạy đi coi về.
- Có tin gì khẩn cấp hay tình hình trở nên nguy hiểm thì bác gọi cháu với nghe bác Sáu.
- Ừ được rồi, cô cứ yên tâm. Mà thầy Tân đi đâu rồi?
- Ảnh vừa uống rượu say, ngủ vùi trong nhà.
- Chà chà, ngon quá hé. Giặc tới mà dám uống rượu cho say, chịu chơi thiệt. À, hay là thầy Tân uống mừng đảng ta vô thăm thành phố. Sao không chờ mấy anh đó đến đây mời uống cho vui.
Thùy Liên cười:
- Dạ, anh Tân cũng muốn như vậy nhưng đợi mãi chẳng thấy mấy anh ấy xuất hiện nên đành uống một mình.
- Hà hà, nếu không thấy mấy ảnh tới sao không gọi tôi. Uống một mình đâu có vui.
Bác Sáu cười khà khà rồi trở vào nhà. Thùy Liên cảm thấy bớt lo. Nàng đi rửa chén bát, quét nhà xong, nhẹ nhàng lên nằm cạnh chồng.
Đến xế chiều, Tân thức dậy, mở mắt ra, thấy vợ đang ngồi chải tóc bên bàn trang điểm. Trông nàng thực tươi, Tân nhìn không chán mắt. Thùy Liên quay sang thấy chồng, nàng nhoẻn miệng cười:
- Anh dậy rồi à? Có nhức đầu không, em lấy thuốc cho uống.
- Không, anh chẳng sao cả, ngủ một giấc, chẳng biết trời trăng gì. Tình hình thế nào, Việt cộng đi tới đâu rồi?
- Việt cộng mới qua đây nè, có ghé chào anh để về Hà nội và hẹn ngày tái ngộ.
Tân cười:
- Nghe em khôi hài thì anh biết tình hình sáng sủa rồi. Không biết họ rút về chiến khu hết chưa. Anh Thế có trở về hay không?
- Không thấy. Chắc chắn quân đội cấm trại một trăm phần trăm, anh ấy ở luôn trong tổng tham mưu rồi.
- Ngoài đường ra sao?
- Hình như thiên hạ có đi lại nhưng ít thôi. Em đợi anh dậy để qua thăm bác Tư và chị Bạch Mai.
- Ừ nhỉ, đợi anh tắm xong thì đi.
Tân vùng dậy, chui vào buồng tắm dội nước ào ào. Vài phút sau, hai vợ chồng khóa cửa bước ra ngoài. Đường phố vắng tanh, nhà nhà đóng kín cửa, vài bộ hành rảo bước trên lề đường. Nhà Bạch Mai khóa cửa kín mít, Tân gọi đến hai lần thì cửa sắt mới được Bạch Mai kéo ra. Hai vợ chồng lách vào xong thì cửa đóng lại ngay.
Tân hỏi vội:
- Anh Thế có trở về không?
Bạch Mai trả lời:
- Không, đi từ sáng tới giờ chưa về. Khi trưa, anh Thế có nhờ một ông trung úy trên xe tuần tiểu ghé ngang nhắn lại là anh ấy phải ở lại tổng tham mưu vì lệnh cấm trại một trăm phần trăm.
Tân quay sang Thùy Liên:
- Em không phải là dân nhà binh mà đoán hay thật.
Thùy Liên cười:
- Em không phải là dân nhà binh nhưng làm việc với nhà binh hơn hai năm trong quân y viện nên quen với sinh hoạt của bên quân sự rồi.
Nàng quay sang Bạch Mai:
- Chị Mai, ông trung úy có nói tình hình ra sao không?
- Ông ấy chỉ nói sơ sơ rằng Việt cộng vào bằng nhiều ngã lắm nhưng đánh đá chẳng ra làm sao cả. Bên mình đang dần dần kiểm soát được tình hình. Có lẽ đến đây là Việt cộng hết sức rồi, không thể mở rộng thêm chiến tuyến trong thành phố được, nói chi đến chuyện chiếm hết thủ đô như họ rêu rao trên đài phát thanh Hà nội và đài Giải phóng. Cả đài Mạc tư khoa và đài Bắc kinh cũng rêu rao như thế. Bọn cộng sản thì nơi nào cũng toàn lời lẽ láo toét để lừa gạt dư luận.
Tân hỏi Bạch Mai:
- Bác Tư đâu rồi?
- Ba em nằm trên phòng ôm riết cái radio mà nghe.
- Bác có nhận xét thế nào về cuộc tấn công nầy của Việt cộng?
- Từ sáng đến giờ, ba em không nói gì cả nhưng trông ông có vẻ buồn.
Thùy Liên chen vào:
- Cũng như anh Tân của em vậy, nghe bên nào chết, cũng buồn, cũng khổ.
- Hầu hết người miền Nam mình đều thế cả. Chỉ có cộng sản mới mừng rỡ trước cái chết của người khác. Nghe giọng điệu của họ trên đài phát thanh mà kinh tởm.
- Ấy thế mà trong nước cũng như ở ngoại quốc, vẫn có nhiều người thích và tin theo lời truyên truyền của họ.
Bạch Mai gật đầu:
- Thế gian nầy bị quỷ ám mất rồi.
Tân và Thùy Liên ngồi nói chuyện một lát với Bạch Mai rồi ra về.

Đêm đó và sáng mồng ba, tình hình tại nơi Tân ở khá yên tĩnh. Từ sáng mồng bốn trở đi sinh hoạt bắt đầu rộn rịp trở lại. Tuy nhiên, Tân và Thùy Liên vẫn không bước chân ra khỏi nhà.
Chiều mồng năm, có tiếng gọi của thiếu tá Thế ngoài trước. Hai vợ chồng mừng rỡ chạy ra. Thùy Liên hỏi ríu rít:
- Anh Thế được về nhà rồi hả, hết cấm trại rồi sao?
- Không, vẫn còn cấm trại, nhưng xin về thăm mấy mẹ con một chút.
- Vì nhớ mấy mẹ con quá chừng, đúng không?
Thiếu tá Thế cười:
- Thì hẳn là vậy rồi.
- Sao anh ngồi trên xe mãi vậy. Xuống đi, vào nhà em chơi chút đã.
- Không được, tôi phải về ngay. Khi nãy Bạch Mai và hai đứa bé thấy tôi về thì vồ ngay lấy, suýt nữa cả ba mẹ con dùng dây trói gô tôi lại để tôi khỏi phải đi tiếp. Tôi chạy qua đây mời anh Tân và Thùy Liên qua nhà để dùng cơm. Bạch Mai đang sửa soạn cúng đưa tiễn ông bà về Trời.
Thùy Liên ngạc nhiên:
- Sao bữa nay mới đưa ông bà. Hôm nay mồng năm rồi. Theo tục lệ, đưa ông bà chiều mồng ba chứ.
Thế cười:
- Mồng ba bị Việt cộng chận đường, ông bà không về được, đành phải trễ phép.
Tân nói:
- Năm nay, ông bà về với con cháu, gặp chuyện quá xui xẻo, có lẽ về trời, ông bà cũng buồn lắm.
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Buồn lắm chứ, thấy quá nhiều xác chết của con cháu. Thế nào ông bà cũng báo cho Thượng đế rõ Tết Mậu Thân, Việt cộng tràn vào các thành phố.
- Và lập tức Thượng đế ban lệnh cấm trại một trăm phần trăm, đề phòng Việt cộng thừa thắng xông lên!
Thiếu tá Thế cười ha hả:
- Hai ông bà sang ngay lập tức nhé. Tôi có chuyện quan trọng cần báo cho anh Tân biết.
Thùy Liên đáp lời một cách vui vẻ:
- Vâng, anh về trước, tụi em sang ngay.

Một lúc sau, mọi người quây quần quanh bữa ăn tiễn ông bà mà cũng là bữa ăn tân niên ở nhà Bạch Mai.
Bạch Mai mặc bộ áo quần màu vàng trông thực sang trọng. Thùy Liên cười, bảo:
- Chị Mai mặc bộ đồ đẹp quá. Chị mới mặc lần đầu phải không?
Bạch Mai gật đầu:
- Mới may xong hôm hai mươi tám Tết, chưa kịp mặc đã phải thồn vô bao để kịp chạy giặc. Thấy anh Thế về mới lôi ra đây.
Thiếu tá Thế quay sang cười:
- Ừ, có áo quần đẹp thì cứ mặc đi. Đợi đến lúc mấy anh Việt cộng vào đây thì chỉ có áo bà ba đen, quần xà lỏn với dép râu mà thôi.
Tân nghiêm mặt hỏi:
- Anh Thế, bây giờ Việt cộng ra sao rồi?
- Coi như bị đánh bật ra khỏi tất cả các thành phố miền Nam, ngoại trừ cố đô Huế. Không biết ngoài đó phòng thủ cách gì mà chỉ trong đêm giao thừa, cộng sản chiếm trọn thành phố, chỉ trừ một vài căn cứ quân sự quan trọng như đồn Mang cá mà thôi.
- Họ có cướp bóc hãm hiếp gì không?
- Tin tức nhận được từ một số người trốn thoát được thì quá ít và không rõ ràng. Không có tin nào về sự cướp bóc và hãm hiếp của bộ đội miền Bắc. Tuy nhiên thành phố hết sức điêu tàn và trong vài ngày tới có thể chịu nhiều tang tóc.
- Tại sao vậy?
- Tin tình báo cho hay, Việt cộng đang tập trung nhiều người để thanh lọc. Việt cộng đang truy tìm quân nhân công chức để giết chết. Dân thường mà bị họ ghét hay nghi ngờ cũng tiêu luôn.
- Rồi mình đành chịu để cho họ tiến hành thảm sát thế sao?
- Bộ tổng tham mưu đang tung cả hai sư đoàn tổng trừ bị ra giải phóng cố đô để cứu đồng bào mình ngoài đó. Trung ương cũng đang tăng cường không quân cho quân đoàn Một. Tuy nhiên mình không dám làm mạnh tay vì chúng nó ở lẩn trong dân chúng. Không quân cũng rất dè dặt, không dám ném bom nhiều, sợ hư những di tích lịch sử của cố đô. “F5” của mình chỉ bay sát rạt trên các nóc nhà để hù dọa chúng nó và để nuôi hi vọng cho dân chúng thôi. Thật là khốn khổ cho người dân xứ Huế. Thế mà mấy hôm nay cộng sản cứ rêu rao dân chúng ăn mừng vì Huế được giải phóng rồi!
Thùy Liên rụt rè:
- Anh Thế, Cần thơ thế nào?
- Cũng như những thành phố khác, họ có xâm nhập vào nhưng nội trong một ngày bị đánh bật ra mà chưa kịp gây thiệt hại đáng kể. Tôi không nhận được tin tức nào quan trọng về sự hoạt động của Việt cộng ở Cần thơ. Như vậy có nghĩa là chẳng có gì đáng lo. Ngày mai, anh Tân đi đánh diện về dưới đó hỏi thăm tin tức và báo cho gia đình biết trên nầy mình bình an.
Tân hỏi:
- Những ngày qua, số người chết có nhiều lắm không?
- Dân chết bao nhiêu thì chưa thống kê được. Nặng nhất là Huế. Lính của mình thì chết rất ít so với binh sĩ của Việt cộng. Họ chết nhiều lắm. Nhiều nơi, họ cứ xõng lưng đi vào để ăn đạn. Thực là đáng ngạc nhiên. Bộ đội Việt cộng nổi tiếng là thiện chiến và quỷ quyệt nhưng tại sao nhiều tên tỏ ra khù khờ một cách khó hiểu. Về sau, khai thác tù binh mới biết, có những đơn vị mới xâm nhập vào trong Nam chưa đánh trận nào và được cấp chỉ huy của họ bảo rằng vào đây để “tiếp thu” miền Nam. Thế là cứ thẳng lưng vác súng vào mà “tiếp thu”. Mặt khác, họ chưa chuẩn bị kỹ đã xua quân vào một cách ồ ạt. Đây cũng là điều lạ lùng. Từ xưa đến nay, muốn đánh chỗ nào thì họ điều nghiên rất kỹ rồi mới ra tay. Nay thì rõ ràng khác hẳn. Họ thí quân một cách điên rồ. Nhiều toán quân vào thành phố mà chẳng thông thuộc đường lối. Thiếu liên lạc, thiếu người hướng dẫn, cứ mò mẫm mà đi. Đại liên thì một anh vác nòng, một anh vác chân, một anh vác đạn, ba người đi ba chỗ khác nhau và cuối cùng gặp nhau trong trại tù binh hay dưới âm phủ.
- Các cấp lãnh đạo của cộng sản không tiên đoán được tình huống nầy sao?
- Có lẽ có nhưng chúng cứ làm. Khi cần thì chúng sẵn sàng thí quân một cách không thương tiếc. Đó là bản tính chung của mọi người cộng sản. Ở Liên xô trong đệ nhị thế chiến, ở Triều tiên, ở Điện biên phủ, cộng sản thí quân một cách khiếp đảm. Lần nầy, họ thí quân ở các thành thị miền Nam cũng vì một mục tiêu nào đó.
- Mục tiêu gì?
- Bộ tổng tham mưu đang phối hợp tin tức và sẽ thảo luận để lý giải mục tiêu tấn công của Việt cộng. Lý giải xong rồi thì mới có biện pháp bẻ gãy âm mưu của họ, ngăn chận họ thu hái thành quả của đợt thí quân nầy.
- Nếu mình làm được thì hóa ra hàng chục ngàn binh sĩ của họ đã mất mạng trong mấy ngày Tết cổ truyền trở thành vô ích.
- Đúng như vậy.
- Kể cũng buồn anh nhỉ, dù đó là thắng lợi của ta.
- Chiến tranh thì có bao giờ vui đâu. Chiến thắng bao giờ cũng đẫm đầy máu và nước mắt. Toàn dân hai miền ai cũng đau khổ vì chiến tranh. Chỉ có người cộng sản là reo mừng mà thôi.
Tân thở dài, mọi người đều im lặng buồn bã. Vài phút sau, Tân hỏi:
- Tôi vẫn thắc mắc tại sao Việt cộng mở ra những trận đánh trên khắp các thành phố trong lúc nhân dân ăn Tết. Có phải vì họ ảo tưởng về một chiến thắng hoàn toàn hay không?
- Đó không phải là thắc mắc của riêng anh. Tôi đã nói với anh rồi, bộ tổng tham mưu đang thu thập tin tức các nơi gởi về để họp bàn về thắc mắc nầy. Riêng trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp ở tổng tham mưu cũng bàn cãi sôi nổi với nhau một cách không chính thức về vấn đề đó.
- Theo các sĩ quan cao cấp ở tổng tham mưu thì Việt cộng có ảo tưởng toàn thắng không?
- Không!
- Thế thì mở các cuộc tấn công vào thành phố và chịu nhiều tổn thất để làm gì?
Thiếu tá Thế suy nghĩ một chút rồi trả lời:
- Đa số các sĩ quan cao cấp của quân đội mình cho rằng các lãnh tụ cộng sản ở Hà nội không có ảo tưởng toàn thắng vì họ biết rõ lực lượng họ đã tung vào Nam còn quá yếu so với sức mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa, chưa kể các lực lượng của Mỹ và các nước thân hữu: Đại hàn, Thái lan, Úc, Gia nã đại. Các lãnh tụ không có ảo tưởng toàn thắng nhưng họ lại gây cho cán bộ cấp dưới, nhất là cho binh sĩ của họ ảo tưởng đó để có thể thúc đẩy những người nầy lao vào chỗ chết. Thực là tàn nhẫn trò lừa bịp nầy. Họ đã lừa bịp binh sĩ của họ.
- Nhưng trò lừa bịp đó đã thành công vì các chiến binh Việt cộng đã lao vào các thành phố như những con thiêu thân.
- Đúng là thành công, rất thành công, làm cho thế giới phải ngạc nhiên.
Thiếu tá ngừng lại trầm ngâm một chốc rồi nói tiếp:
- Họ thành công vì đường lối tuyên truyền rất hữu hiệu. Họ vừa “giáo dục” vừa kiểm soát tư tưởng binh sĩ vô cùng kỹ lưỡng. Binh sĩ của Việt cộng thì chẳng hiểu gì cả. Điều tra mấy tù binh trẻ tuổi mới từ Bắc xâm nhập vào thì mới thấy rõ họ bị đảng bịt tai bịt mắt, nhồi nhét một mớ lý thuyết, biến họ thành những cái bị thịt không lý trí, không tình cảm, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh của đảng mà thôi. Trong cái đầu của chúng nó, chỉ có những cái mà đảng nhét vào thôi chứ không có gì riêng cho mỗi người. Thực là thảm thương. Chúng không hề biết rằng miền Nam nầy đang có một chính phủ Việt Nam do dân bầu lên và hầu hết mọi người ở đây đều bằng lòng sống với chính thể tôn trọng tự do đó. Chúng cứ tin chắc rằng miền Nam đang là thuộc địa của Mỹ, toàn quyền Mỹ đã thay thế cho toàn quyền Pháp để cai trị xứ sở nầy.
Thế ngừng lại cầm ly nước uống rồi hỏi:
- Anh trong ngành giáo dục, anh phải nói với học sinh những điều có thực, đúng không?
- Vâng, người làm giáo dục phải luôn luôn tôn trọng chân lý, không bao giờ được dối gạt học sinh.
- Ở miền Bắc, ông thầy không có chức năng đó đâu. Ông thầy là công cụ của đảng, chỉ có nhiệm vụ truyền đạt cho học sinh điều gì có lợi cho đảng, cho chủ nghĩa cộng sản mà thôi. Ông thầy không cần chân lý; thực hiện đúng đường lối của đảng, ông thầy sẵn sàng bóp méo chân lý. Tôi đã có dịp dự vài cuộc hỏi cung những tù binh Bắc Việt còn trẻ, nguyên là học sinh và sinh viên ngoài đó và thấy rõ ràng người ta đã dạy cho bọn trẻ rất nhiều điều láo toét.
Tân buộc miệng than:
- Nền giáo dục ở miền Bắc thực là méo mó.
- Vâng đúng như thế đó. Bọn trẻ ngoài đó không còn biết gì ngoài những điều đảng muốn nhồi nhét. Thế nên khi đảng bảo miền Nam nầy là thuộc địa của Mỹ, dân chúng đang rên siết dưới gông cùm của Mỹ thì giới trẻ tin ngay và sẵn sàng lao vào để giải phóng miền Nam.
Tân gật đầu:
- Quả như anh nói, lính Bắc việt vào đây chiến đấu rất hăng hái. Bây giờ trở lại vấn đề mà tôi đang thắc mắc là tại sao lãnh tụ cộng sản thí quân trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân nầy, dù biết rằng không thể toàn thắng được?
- Một đại tá ở khối chiến tranh chính trị giải thích thế nầy. Khi Mỹ và các nước thân hữu của Việt Nam Cộng hòa bắt đầu đổ quân vào đây đồng thời tăng cường sự oanh tạc ra khắp lãnh thổ miền Bắc thì cộng sản thấy nguy cơ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và có thể mất luôn cả miền Bắc. Nếu Mỹ không tham chiến thì họ có thể thắng miền Nam vì, một mặt vũ khí của Liên xô và Trung cộng đổ vào đây liên tu bất tận, mặt khác quân số của cộng sản cũng áp đảo quân số Việt Nam Cộng hòa. Thực vậy, ngoài Bắc có thể ngưng mọi sinh hoạt dân sự, kể cả sản xuất vì gần một tỉ người Tàu dư sức nuôi cả miền Bắc. Như thế, Việt cộng có thể huy động một lúc nhiều triệu người đưa vào Nam với đầy đủ vũ khí, cộng thêm với cả triệu người dân trong các vùng mà họ đang kiểm soát ở miền Nam thì quả thực là một lực lượng ghê gớm. Tuy nhiên dù đông cách mấy, họ cũng không thể chống lại được quân đội Mỹ nếu nước Mỹ thực sự muốn bảo vệ miền Nam tự do. Kinh nghiệm chiến tranh Triều tiên vẫn còn nóng hổi. Dù có liều lĩnh cách mấy đi nữa, cộng sản cũng không chịu đựng nổi phương tiện chiến tranh tối tân của Mỹ. Giải pháp duy nhất của họ là làm cho Mỹ nản lòng, rút quân về để họ làm thịt miền Nam.
- Vì vậy, họ liều chết đánh một trận cho quân đội Mỹ sợ mà rút về.
- Không đâu, Mỹ chẳng sợ đâu, chính cộng sản biết như thế. Họ không thể đánh bại quân đội Mỹ, họ tìm cách đánh bại dư luận Mỹ. Họ biết rằng Mỹ thực sự là một nước dân chủ, chính phủ Mỹ phải hành động theo ý muốn của đa số dân chúng, nên đánh ngã được dư luận Mỹ là họ sẽ thắng lớn. Lợi dụng sự cả tin của chúng ta về lệnh hưu chiến, lợi dụng tiếng pháo của dân chúng đốt mừng giao thừa, họ đã lén tấn công vào các thành phố. Thế là họ đã gởi một thông điệp đến nhân dân Mỹ rằng dù Mỹ có đổ quân vào đây cũng không giữ nổi miền Nam, họ có thể tấn công vào bất cứ chỗ nào mà họ muốn, kể cả tòa đại sứ Mỹ ở ngay thủ đô Sài gòn. Vậy là dư luận Mỹ có thể bắt đầu mất tin tưởng và chán nản. Quan trọng hơn nữa, trong dịp nầy họ cố giết được một vài lính Mỹ dù phải trả bằng một giá thực đắt. Đối với nước Mỹ ở quá xa chúng ta, vài trăm hay vài ngàn Việt cộng bị giết chết, người Mỹ cũng không quan tâm nhưng chỉ một anh Sam tử trận thì lập tức làm cho cả nước Mỹ bàng hoàng.
Tân nói với giọng buồn rầu:
- Tôi công nhận suy luận của các anh rất hợp lý. Điều đau đớn là chỉ để gây bàng hoàng cho những người bên kia Thái bình dương mà Việt cộng nỡ xua hàng chục ngàn thanh niên trai trẻ của chúng ta vào chỗ chết ngay trong lúc toàn dân rước ông bà về để ăn Tết. Thực là tàn nhẫn!
Thùy Liên nghe câu nói đó thì hạ đũa xuống, nhìn sang thấy chồng mình rơm rớm nước mắt làm nàng cũng gần khóc theo. Nàng đặt tay lên đùi chồng, muốn nói một câu gì đó để an ủi, nhưng không tìm ra lời nên đành im lặng cúi đầu.
Giọng thiếu tá Thế vẫn ôn tồn:
- Anh Tân, bàn về hành động của Việt cộng thì bao giờ chúng ta cũng căm tức lẫn đau đớn. Đành chịu vậy thôi.
- Theo anh, sau cuộc tấn công ngày Tết của Việt cộng, chính phủ mình sẽ có biện pháp nào sắp tới hay không?
- Chắc chắn là có và đó chính là điều tôi muốn thông báo với anh hôm nay.
Tân vội hỏi:
- Có liên can tới tôi?
Thế gật dầu:
- Đương nhiên. Bộ tổng tham mưu dự trù kiến nghị với chính phủ ban hành lệnh tổng động viên, gọi tất cả quân nhân trừ bị trở lại quân đội, bãi bỏ tất cả các trường hợp miễn hoãn dịch để đưa tất cả thanh niên còn ở bên ngoài vào quân đội.
- Tại sao bộ tổng tham mưu đề nghị như vây?
Thiếu tá Thế buông đũa dựa ra thành ghế, trả lời bằng tiếng Pháp:
- La Patrie en danger, levée en masse.
- Nhưng Tổ quốc đã bị lâm nguy đâu mà phải tổng động viên?
- Thủ đô và các thành phố lớn bị tấn công. Như thế cũng đủ lý do để tuyên bố Tổ quốc bị lâm nguy. Nhưng đó không phải là lý do thực sự để tổng động viên.
- Thế thì lý do thực sự là gì?
- Có hai lý do. Thứ nhất là bộ tổng tham mưu ước lượng rằng chiến dịch Tết Mậu thân nầy của Việt cộng làm cho quân số của họ bị thiệt hại rất nhiều, bên mình cũng bị thiệt hại không ít. Cần phải tổng động viên để bù đắp thiệt hại đó và hơn nữa bổ sung để tăng thêm quân số với quyết tâm tiêu diệt Việt cộng, chấm dứt chiến tranh luôn. Lý do thứ hai là hiện nay bên Mỹ, có một bọn phản chiến biểu tình om sòm, bày ra trò đốt thẻ trưng binh. Bọn đó đã bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản đầu độc, không còn phân biệt được phải trái nữa. Chúng rêu rao rằng từ khi Mỹ đổ quân qua đây thì lính Việt Nam Cộng hòa không đánh nhau với Việt cộng nữa mà giao cho Mỹ đánh. Chúng ta tổng động viên để trấn an dư luận của Mỹ và nói cho bọn phản chiến đó hiểu rằng chúng ta quyết tâm tự vệ và vẫn đảm nhiệm vai trò chính yếu trong cuộc tự vệ nầy. Chúng ta biết ơn những người lính Mỹ qua đây giúp đỡ chúng ta và bao giờ họ cũng chỉ là những người giúp đỡ mà thôi.
- Tôi đồng ý với anh, phong trào phản chiến đang rầm rộ. Ngay ở Sài gòn nầy cũng không thiếu.
Thiếu tá Thế nhún vai:
- Đúng vậy, những người đó không đi phản chiến với kẻ xâm lăng mà lại đi phản chiến với người tự vệ. Phản chiến gì? Sợ chết không dám ra chiến trường rồi ngụy tạo lý do. Sau nầy lịch sử sẽ phán xét bọn nó cùng với kẻ xâm lăng.
Tân cố nén xúc động:
- Theo anh, đề nghị luật tổng động viên của bộ tổng tham mưu sẽ được chính phủ chấp thuận không?
- Chưa đề nghị chính thức, mới dự định thôi. Chúng tôi còn phải thảo luận sâu hơn. Hiện nay công việc chính yếu của tổng tham mưu là điều động quân ra giải phóng Huế, truy quét tàn quân cộng sản ở các thành phố. Nhưng tôi nghĩ, sớm hay muộn, kiến nghị tổng động viên cũng được đệ trình chính phủ. Sau đó chính phủ phải đưa ra quốc hội thảo luận và biểu quyết mới thành luật được. Theo tôi, trước sau gì rồi cũng sẽ có tổng động viên, anh và Thùy Liên nên thu xếp chuyện gia đình trước đi.
Thùy Liên gục đầu vào vai chồng nức nở:
- Anh Tân, thế là anh sắp bỏ em lại đây để trở ra chiến trường rồi!
Bác Tư, thiếu tá Thế, Bạch Mai và cả cháu Bình nữa, ngồi sững sờ nhìn Thùy Liên giọt vắn, giọt dài trên vai chồng.
Bạch Mai đẩy ghế đứng dậy, bước sang đỡ Thùy Liên ngồi ngay ngắn lại:
- Thùy Liên, Thùy Liên, đừng khóc nữa. Chuyện anh Thế nói là chỉ mới bàn trong tổng tham mưu thôi chứ chắc gì có tổng động viên.
Thùy Liên dùng tay áo lau nước mắt:
- Xin lỗi bác Tư, xin lỗi anh Thế, chị Mai. Em xúc động quá nên khóc làm gia đình mất vui trong bữa cơm mừng năm mới. Bây giờ, em không khóc nữa đâu. Tổ quốc lâm nguy thì mọi người phải trở ra chiến trường chứ đâu phải riêng chồng em. Khi nãy em không cầm được nước mắt vì nghĩ đến cái cảnh em đi làm về mở cửa thui thủi vào nhà một mình, đêm hôm tối tăm với đứa con đang lớn dần trong bụng.
Nàng lại nghẹn ngào ngừng nói, nhìn xuống bụng mình. Bạch Mai đứng phía sau, vuốt tóc Thùy Liên:
- Liên suy nghĩ xem, nếu quả thực anh Tân trở lại quân đội, Liên xin nghỉ việc rồi về quê sống với hai bác hay qua đây sống với gia đình anh chị, được không?
Thùy Liên lắc đầu:
- Anh Tân tái ngũ thì chắc chắn chúng em mất nguồn thu nhập trường tư và phụ cấp chức vụ của anh Tân. Nếu em lại nghỉ không đi làm nữa thì không thể nào đủ sống để nuôi con. Hơn nữa, Tổ quốc lâm nguy, ai cũng phải có trách nhiệm, em không ra trận để trực tiếp bảo vệ Tổ quốc thì cũng không thể từ bỏ công việc mình ở tổng y viện được.
Thiếu tá Thế Thế gật đầu:
- Đúng là lời nói của con cháu bà Trưng bà Triệu. Ngày mai tôi sẽ lặp lại lời nói của Thùy Liên với đại tướng tổng tham mưu trưởng. Thôi bây giờ tôi phải vào tổng tham mưu ngay.
Thùy Liên hỏi:
- Anh Thế, bữa sáng mồng hai, anh bảo cứ đợi anh ở nhà, khi nào anh cho phép mới đi làm. Hôm nay mồng năm rồi, ngày mai em có nên vào làm việc không?
Thiếu tá Thế ngắt lời:
- Thôi chết, tôi quên mất. Ngày mai cô vào làm việc đi. Mấy hôm nay, có lẽ thương binh đưa vào nhiều lắm. Sáng mai, anh Tân đưa Thùy Liên vào tổng y viện ngay đi, có lẽ người ta đang đợi cô trong đó.
Bạch Mai ngắt lời:
- Nhưng Thùy Liên giữ kho thuốc chứ đâu có nhiệm vụ săn sóc thuơng binh.
- Ừ, thương binh về nhiều thì cũng phải xuất nhiều thuốc ra để điều trị chứ, phải không cô Liên?
Thùy Liên đáp:
- Dạ phải.
Thế nói tiếp:
- Còn anh Tân thì vẫn nằm nhà. Một số trường tiếp nhận những người tị nạn cộng sản tấn công mấy ngày Tết, nay phải lo dọn dẹp. Luật tổng động viên, nếu ban hành theo thủ tục khẩn cấp thì anh cũng từ giã nhà trường luôn. Thôi, tôi đi đây.
Thế đứng dậy, mọi người cũng đứng dậy theo. Tân và Thùy Liên chào cả nhà rồi ra về.
Đêm đó, sau khi vào giường, Thùy Liên chúi đầu vào ngực chồng khóc một chặp nữa rồi mới chịu ngủ.


*
* *


Không bao lâu sau Tết Mậu Thân, luật tổng động viên được ban hành theo thủ tục khẩn cấp, đúng như sự tiên đoán của thiếu tá Thế. Thông cáo của bộ quốc phòng được đọc nhiều lần trên đài truyền thanh, truyền hình và đăng tải trên tất cả các báo, ra lệnh tất cả quân nhân trừ bị phải đến trình diện tại các trung tâm nhập ngũ.
Buổi chiều trước ngày Tân quyết định lên đường, Bạch Mai mời hai vợ chồng sang nhà dùng cơm để bàn bạc về sự sống của Thùy Liên.
Thiếu tá Thế mở lời:
- Ngày mai, anh Tân đi trình diện ở trung tâm Ba nhập ngũ. Anh biết chỗ đó không?
Tân đáp:
- Biết chứ, trại Quang trung. Ngày tôi trình diện nhập ngũ cách đây sáu năm thì cũng vào đó. Hình như đó là ngõ vào quân ngũ duy nhất của vùng Ba Chiến thuật.
Thế gật đầu:
- Theo kế hoạch của tổng tham mưu thì các anh vào đó, nằm đợi các sư đoàn lần lượt đến nhận về bổ sung quân số cho họ. Sư đoàn nào về nhận thì anh buộc phải đi theo. Sau đó, anh gửi thư về báo tin cho tôi biết, tôi sẽ tìm cách rút anh về tổng tham mưu sau. Tôi biết anh là người khí khái. Bạch Mai nói với tôi rằng khi mới ra quân trường, anh đã từ chối tất cả những lời gởi gắm và nhất định ra chiến trường. Đó là cái chí khí rất đáng khen của tuổi thanh niên. Tuy nhiên, lúc đó anh độc thân, ra chiến trường không vướng bân gì. Bây giờ, anh có Thùy Liên, lại sắp làm cha thì anh nên xét lại. Hai nhiệm vụ đối với Tổ quốc và đối với gia đình, phải cân phân, không nên bên trọng, bên khinh. Anh đồng ý chứ?
Tân im lặng gật đầu. Thùy Liên nói với giọng đầy cảm xúc:
- Em cảm ơn anh Thế vô cùng. Anh Tân không có gia đình từ thuở nhỏ. Em có gia đình nhưng hiện ở xa. Gia đình của anh Thế và chị Mai chính là gia đình của chúng em vậy.
Thế cười vui vẻ:
- Vì vậy anh chị lo cho Tân rồi thì phải lo cho Thùy Liên nữa chứ. Sáng mai, sau khi người chinh phu cất bước quân hành rồi thì người chinh phụ ở nhà thế nào đây?
Thùy Liên cúi mặt thở dài:
- Em tính chưa ra nhưng em không muốn rời khỏi ngôi nhà nhỏ của em đâu. Tuy em và anh Tân mới sống ở đó có hơn nữa năm thôi nhưng thời gian ngắn ngủi nầy là thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của chúng em. Em nói thực đó, anh chị đừng chế nhạo em.
Thế nhìn Thùy Liên một cách dịu dàng:
- Sao lại chế nhạo Thùy Liên được. Lời lẽ đó đáng được ghi vào sưu tập những chuyện tình đẹp nhất thế gian chứ.
- Đó, anh chế nhạo em rồi đó.
- Thôi được rồi, anh Tân đi rồi, Thùy Liên có dám ở lại bên đó một mình hay không. Đêm hôm, rủi có chuyện bất tường như kẻ trộm đột nhập vào nhà thì sao? Rồi ngày sinh nở mỗi lúc một đến gần, ai lo cho Thùy Liên? Chỉ còn hai giải pháp phải chọn. Một là Thùy Liên xin nghỉ việc dài hạn về quê sống với cha mẹ. Hai là Thùy Liên phải qua đây sống với anh chị.
Bạch Mai tiếp lời:
- Thùy Liên sang đây với anh chị đi. Chị sẽ thu xếp cho Liên một phòng. Khi sinh nở có chị ở đây săn sóc.
Thùy Liên rất cảm động:
- Cám ơn anh chị. Nhưng em không thích rời gian nhà của chúng em. Em sẽ ở lại bên đó và em sẽ mời má em lên sống với em.
Thiếu tá Thế lẫn Bạch Mai đều ngẩn người. Bạch Mai nói:
- Ừ nhỉ, vậy mà mình không nghĩ ra. Tính như thế cũng ổn. Thùy Liên gửi thư về nhà chưa?
- Dạ chưa. Em lần lữa vì hi vọng lệnh tổng động viên không được ban hành. Nay có rồi thì ngay tối nay em sẽ viết thư về nhà.
Bạch Mai nói tiếp:
- Theo chị, tính từ lúc Thùy Liên gửi thư đi đến lúc bác gái lên tới đây phải mất ít nhất một tuần lễ. Trong thời gian đó, nhất định Liên phải sang đây ở tạm, không thể sống bên đó một mình được. Thùy Liên tuy đã có chồng nhưng vẫn là một người đàn bà rất đẹp thì không nên cẩu thả ngủ một mình trong một căn nhà vắng vẻ. Về việc nầy, chị nói Liên phải nghe lời. Sáng mai, trước khi đi, anh Tân mang sang đây những đồ đạc quí giá. Nếu chưa xong thì anh Thế và em sẽ qua tiếp. Ngày mai Thùy Liên vẫn đi làm chứ?
- Em đã xin tổng y viện cho nghỉ một ngày, anh Tân đi trình diện tái ngũ rồi, em sẽ đi làm tiếp.
Thiếu tá Thế kết luận:
- Trước mắt, cứ như thế mà làm đi. Sau đó tùy tình hình mà mình sẽ tính tiếp.

Sáng hôm sau, Tân đưa Thùy Liên cùng một ít đồ đạc sang nhà Bạch Mai rồi thay quân phục vào trình diện tại trại Quang trung.
Cậu ở chung với hàng trăm sĩ quan khác. Hàng ngày, các sư đoàn đưa xe đến. Người ta đọc danh sách trên loa phóng thanh và từng tốp sĩ quan tái ngũ lên xe ra khỏi trại.
Đến ngày thứ ba, đoàn xe của sư đoàn Mười Tám đến. Tân cùng mười bảy sĩ quan khác, hầu hết là thiếu úy được gọi ra sân. Một trung sĩ lễ phép mời tất cả lên một xe GMC và tất cả lên đường. Người nào cũng buồn bã và tư lự nên chẳng ai thích nói chuyện với người khác.
Xe ra khỏi thành phố, bon bon trên xa lộ, qua thành phố Biên hòa rồi thẳng hướng miền Trung. Các sĩ quan tái ngũ vẫn ngồi im lặng, thờ ơ nhìn ngắm khung cảnh hai bên đường, lòng mỗi người đều nặng trĩu lo âu cho cuộc sống của gia đình mà mình vừa để lại sau lưng. Xe qua khỏi tỉnh lỵ Long khánh một đoạn thì ngọn núi Chứa chan xuất hiện, to dần và sau cùng trở thành một khối đồ sộ, cao ngất nghểu giữa một vùng thảo nguyên bằng phẳng. Xe dừng lại dưới chân núi tại tiền đồn một trung đoàn của sư đoàn Mười tám Bộ binh.
Doanh trại gồm vài dãy nhà tôn vách ván sơ sài và thấp lè tè. Mỗi khi có một ngọn gió thổi qua, dãy nhà như biến mất sau đám bụi khổng lồ. Mặt trời núp sau một đám mây to nhưng không khí vẫn cứ oi nồng. Mọi người phải chịu đựng khí hậu miền Đông trong tháng nóng nực và khó chịu nhất của mùa xuân nhiệt đới.
Đoàn sĩ quan tái ngũ lặng lẽ theo sau vị trung sĩ trưởng xa vào ngồi nghỉ trong một dãy nhà tôn. Đến chiều, khi mặt trời ngả hẳn về phương Tây, một đại úy mời tất cả ra sân tập họp để trình diện trung đoàn trưởng. Một trung tá bước ra với vẻ mặt tươi cười. Giọng ông thực dõng dạc, đúng là giọng của một sĩ quan cao cấp:
- Chào các sĩ quan tái ngũ, những người anh em vừa mới trở lại với gia đình quân nhân. Tôi thay mặt sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của trung đoàn đón tiếp các anh em và hoan nghênh sự có mặt của các anh em tại tiền đồn heo hút nầy. Bây giờ, anh em hãy lần lượt tự giới thiệu, tên, cấp bậc, đơn vị cũ, huy chương đã có trước khi giải ngũ và nguyện vọng hiện nay, sau khi tái ngũ. Về nguyện vọng của anh em thì tôi xin nói rõ thế nầy. Nhu cầu của trung đoàn là bổ sung các sĩ quan cán bộ trung đội và đại đội. Sẽ không có sĩ quan nào được bổ sung cho bộ chỉ huy trung đoàn. Tuy nhiên, tôi không ép buộc một người nào cả vì cương vị chỉ huy của một trung đội trưởng hay đại đội trưởng có liên quan mật thiết đến sinh mạng của tất cả những người trong đơn vị; phải sẵn sàng chiến đấu thì mới hoàn thành tốt chức năng chỉ huy của mình. Tổ quốc đang lâm nguy, vì vậy mới có lệnh tổng động viên và anh em phải từ bỏ nhiệm vụ dân sự của mình để trở lại quân đội. Tôi kêu gọi anh em hãy nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến nhưng ai có hoàn cảnh đặc biệt, cứ thành thực trình bày. Tôi là cấp chỉ huy của anh em nhưng tôi vẫn muốn anh em xem tôi như một người anh trong gia đình.
Trung tá nói xong, nhìn mọi người qua một lượt với ánh mắt đầy cảm tình. Tân nghĩ thầm: “Một quân đội gồm những người như thế nầy mà trời không cho chiến thắng thì thật là bất công”.
Trung tá trung đoàn trưởng nói tiếp:
- Tôi giới thiệu với anh em đây là đại úy Cho, trưởng phòng nhân viên của trung đoàn. Sau khi anh em được phân công xong thì đại úy Cho sẽ cấp sự vụ lệnh cho anh em về các tiểu đoàn. Bây giờ bắt đầu nhé, đại úy hãy ghi chép. Nào, người anh em thứ nhất ở đầu bên phải.
Trung tá đưa tay chỉ người đứng ngoài cùng. Anh nầy đứng nghiêm:
- Tôi là thiếu úy Trần văn Được, sĩ quan trừ bị khóa Mười ba Thủ đức. Trước khi giải ngũ, tôi là sĩ quan ban Ba của tiểu đoàn thuộc sư đoàn Bảy, có một anh dũng bội tinh với ngôi sao đồng. Tôi tái ngũ, về đây với trung tá và sẵn sàng nhận lệnh đi đến bất cứ nơi nào mà trung tá chỉ định.
Trung tá gật đầu, tỏ vẻ hài lòng:
- Đại úy cho ghi thiếu úy Được về tiểu đoàn Một. Người tiếp theo.
Mười sáu người lần lượt phát biểu gần như cùng một nội dung và được chia về ba tiểu đoàn tác chiến của trung đoàn. Tân là người thứ mười bảy và là người áp chót. Cậu đưa tay chào và nói:
- Tôi là thiếu úy Phạm bá Tân, khóa Mười bốn sĩ quan trừ bị Thủ đức. Trước khi giải ngũ tôi là sĩ quan phòng hành quân của trung đoàn Mười lăm thuộc sư đoàn Chín Bộ binh. Trước khi về đó, tôi là trung đội trưởng tác chiến, có một anh dũng bội tinh và một chiến thương bội tinh.
Trung tá ngắt lời:
- Thiếu úy có chiến thương bội tinh hả? Bị thương ra sao, ở trận nào?
- Thưa trung tá, tôi bị bể xương vai, ở mặt trận Vĩnh bình. Sau khi lành vết thương tôi được giữ lại tại bộ chỉ huy trung đoàn.
Trung tá gật đầu:
- Thế à? Bây giờ, nguyện vọng của thiếu úy thế nào?
- Nếu trung tá chỉ định tôi làm trung đội trưởng hay đại đội trưởng tác chiến thì tôi không từ chối nhiệm vụ. Tuy nhiên, tôi có một hoàn cảnh riêng, nếu trung tá cho phép tôi mới dám trình bày.
- Được được, thiếu úy cứ trình bày, tôi đã cho phép trước khi nãy rồi. Cứ nói thật như anh em trong gia đình.
- Thưa trung tá, vợ tôi là y tá ở tổng y viện Cộng hòa. Cô ấy đang mang đứa con đầu lòng của chúng tôi. Nó sẽ ra chào đời trong vòng bốn tháng nữa. Tôi tha thiết được thấy mặt nó một lần. Nếu tôi ra đi mà không trở về sau khi vợ tôi sanh con thì….
Trung tá đưa tay ngắt lời:
- Thôi được, tôi hiểu hoàn cảnh của thiếu úy. Đại úy Cho, đại úy làm giấy đề nghị thiếu úy về công tác tại bộ tư lệnh sư đoàn. Xin mời người anh em cuối cùng.
Cuộc trình diện diễn ra chóng vánh và chấm dứt sau nửa giờ đồng hồ. Mọi người vào ban Một để chờ lãnh sự vụ lệnh về đơn vị. Mười bảy sĩ quan đi tác chiến lãnh giấy xong trước và đã ra trước sân chờ nhập bữa tiệc đơn sơ do trung đoàn khoản đãi. Tân là người cuối cùng đến nhận giấy giới thiệu về bộ tư lệnh sư đoàn.
Đại úy Cho trao giấy cho Tân với nụ cười:
- Mừng cho thiếu úy được về nơi an toàn. Trong khi trung đoàn cần sĩ quan tác chiến, thiếu úy có biết tại sao trung tá chấp nhận ngay cho thiếu úy về bộ tư lệnh không?
Tân lắc đầu. Đại úy Cho giải thích:
- Thực là một sự trùng hợp ly kỳ.
Tân ngạc nhiên:
- Thưa đại úy, trùng hợp thế nào?
- Đầu năm 1954, trước khi hòa hội Genève bắt đầu, trung tá trung đoàn trưởng của chúng mình đây còn là thiếu úy và đang ở mặt trận Hòa bình tuốt ngoài Bắc. Lúc đó vợ ông ấy cũng đang có mang được năm tháng. Ông rất tha thiết trông thấy mặt đứa con đầu lòng một lần. Rồi ông bị thương và được chở về Hà nội. Sau đó toàn thể đại đội của ông bị Việt minh tiêu diệt. Nhờ vết thương mà ông còn sống và thấy được mặt con gái mình. Năm nay, cô bé được mười bốn tuổi rồi, xinh lắm, đang học lớp đệ ngũ trường trung học Long khánh. Gia đình trung tá đang ở Long khánh, sáng chúa nhật ông ta thường về thăm. Nếu bận quá thì nhờ tôi chở vợ con lên đây cho gia đình sum họp tại tiền đồn nầy rồi chiều lại trở về Long khánh. Tôi là cấp dưới trực thuộc mà cũng là bạn thân của trung tá. Đó là một người chồng, người cha rất tốt đối với vợ con và là một vị chỉ huy giỏi nhưng rất nhân từ đối với cấp dưới. Thiếu úy trình bày hoàn cảnh của mình lại giống như của trung tá xưa kia nên trung tá quyết định ngay cho thiếu úy về nơi an toàn để chắc chắn trông thấy mặt đứa con gái đầu lòng của mình
Tân tỏ vẻ cảm động:
- Sáng mai, tôi trở về Long khánh trình diện bộ tư lệnh sư đoàn nên không gặp riêng được trung tá. Xin đại úy vui lòng chuyển lời cho tôi gởi đến trung tá lòng biết ơn, sự tôn kính và cảm tình chân thật của tôi.
- Được, tôi sẽ chuyển lời giúp cho thiếu úy. Thỉnh thoảng, trung tá vẫn về bộ tư lệnh để họp hay nhận lệnh nên thiếu úy có thể gặp mặt để chuyện trò. Đó là một người rất dễ mến.
Sáng hôm sau, Tân theo xe liên lạc của trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn đóng tại Long khánh. Người ta đưa cậu vào trình diện thiếu tá Bảo, tham mưu phó chiến tranh chính trị. Thiếu tá hỏi:
- Thiếu úy có ý định ở lại ngành chiến tranh chính trị không?
- Thưa thiếu tá, tôi không có ý định gì cả. Nếu thiếu tá cần người làm việc thì tôi xin ở lại đây.
- Được rồi, tôi đang thiếu một sĩ quan cấp úy. Thiếu úy nguyên là giáo sư trung học thì có thể giúp cho khối chiến tranh chính trị được. Bây giờ thiếu úy nên đi một vòng cho biết vị trí các phòng ban của bộ tư lệnh và ghé nói với trưởng phòng Một rằng thiếu úy tạm thời ở lại khối chiến tranh chính trị cho hết ngày hôm nay. Sáng mai tôi sẽ chính thức báo cho biết có quyết định giữ thiếu úy lại đây hay không.
Tân bước ra khỏi phòng, đi dài theo một con đường đất đỏ đầy bụi bặm chạy giữa hai dãy nhà tôn vách ván. Trong các dãy nhà, nhiều quân nhân trong quân phục tác chiến lui tới rộn ràng. Ở đây, nơi nào cũng có vẻ khắc khổ, khác hẳn với cuộc sống sang trọng và xa hoa ở chốn thị thành mà cậu vừa mới giã từ. Cậu thấy bùi ngùi cho thân phận của những con người đang đem sinh mạng của mình ra để đổi lấy sự sống bình an và tự do của hai mươi triệu người miền Nam.
Sau khi trình diện ở phòng Một xong, cậu trở lại khối chiến tranh chính trị. Trong căn phòng rộng, chỉ có hai người. Ngoài thiếu tá Bảo, còn một trung sĩ đang ngồi đánh máy ở chiếc bàn cuối phòng. Một lát sau, có một binh sĩ vào, bưng trên tay một khay gỗ bẩn thỉu, đựng một bình nước trà và vài chén tách.
Chiến cuộc Mậu thân vừa chấm dứt nhưng chiến sự trong cả nước đang sôi sục. Thế mà bước vào phòng chiến tranh chính trị nầy, Tân có cảm giác như rơi vào một ốc đảo bình yên, biếng nhác, vô công rồi nghề. Thiếu tá Bảo đang đứng lúi húi bên tủ đựng hồ sơ. Ông quay lại tươi cười:
- Thiếu úy ngồi uống nước đi, tôi bận chút việc.
Tân ngồi xuống ghế nhìn quanh. Cậu bỗng thấy hối hận vì đã không ở lại tiền cứ trung đoàn để sau đó cùng tham gia chiến đấu với các sĩ quan đồng hành. Cậu cảm thấy việc mình được trở về đây như một sự hèn nhát đáng hổ thẹn.
Thiếu tá Bảo đóng cửa tủ, bước lại ngồi xuống ghế đối diện với Tân. Ông chậm rãi rót hai tách nước trà nóng hổi, đẩy về phía cậu một tách và nói:
- Mời thiếu úy. Tôi vừa mới đọc sơ qua lý lịch của thiếu úy và biết rằng thiếu úy là giáo sư sử địa. Với sự hiểu biết về giáo dục cùng kiến thức về lịch sử, tôi hi vọng thiếu úy sẽ giúp tôi nhiều việc. Trước đây, thiếu úy đã từng tác chiến và đã bị thương rồi phải không?
- Vâng, tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là nên tiếp tục nhiệm vụ tác chiến đó.
Thiếu tá thoáng ngạc nhiên:
- Thiếu úy không thích về làm việc tại đây à? Thiếu úy cho rằng chỉ có đánh nhau bằng súng đạn mới cần thiết thôi sao?
- Thưa thiếu tá, không đâu. Trong những ngày còn đi chiến đấu, tôi nhận thấy chúng ta mới sử dụng có riêng vũ khí giết người còn vũ khí thứ hai, vũ khí chính trị thì chúng ta rất ít chú tâm đến. Thế mà chính cái vũ khí chính trị sẽ quyết định cho sự thành bại chung cuộc. Cộng sản đang tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân nghĩa là hai tay cầm hai loại vũ khí, một là súng đạn và hai là lòng dân. Chúng ta đánh nhau với họ chỉ với một tay thôi mà lại là tay trái. Nếu kéo dài thế nầy, phần bất lợi sẽ thuộc về mình.
Thiếu tá nở nụ cười rạng rỡ:
- Đó, thiếu úy thấy vấn đề sống chết trong cuộc chiến tranh nầy rồi đó. Hiện tại ngành chiến tranh chính trị thiếu người làm việc còn hơn cả chiến trường nữa. Nếu thiếu úy chứng tỏ rằng mình có khả năng trong lĩnh vực nầy thì nên vui lòng ở đây phục vụ, còn ích lợi hơn ra mặt trận nữa.
- Thưa thiếu tá, nhưng mà tôi xuất thân là sĩ quan bộ binh, chưa từng được đào tạo chuyên môn về tâm lý chiến.
- Không sao, những lớp chuyên môn đó chẳng đào tạo được gì. Ngành nầy không thể đào tạo như cách người ta dạy bắn súng đâu. Thiếu úy vẫn có thể ở lại đây nếu thiếu úy thích và chứng tỏ rằng mình có khả năng. Còn nếu không thì tôi sẽ trả thiếu úy lại cho trung đoàn.
Tân vẫn tỏ ra ái ngại:
- Ở lại đây, tôi không biết có giúp gì nhiều cho thiếu tá và cho ngành chiến tranh chính trị hay không.
- Vì vậy hôm nay tôi muốn thấy được điều đó. Thiếu úy hãy thành thực nói hết ý kiến của mình cho tôi nghe.
- Thưa thiếu tá, về vấn đề gì ạ?
- Khi nãy thiếu úy có nói rằng trong cuộc chiến nầy, chúng ta chưa sử dụng vũ khí chính trị. Vũ khí đó có cần thiết để đi đến chiến thắng không và làm thế nào để quân đội mình có thể sử dụng vũ khí đó?
Vừa lúc đó, một người binh sĩ bước vào nói:
- Thưa thiếu tá, có điện thoại của ông tướng gọi thiếu tá.
Thiếu tá quay qua nói với Tân:
- Thiếu úy cứ suy nghĩ về hai vấn đề tôi vừa nêu ra, chốc nữa tôi sẽ trở lại.
Nói xong, ông theo người lính đi ra ngoài.
Ngồi lại một mình, Tân im lặng suy nghĩ. Cậu hiểu rằng, ông thiếu tá tham mưu phó nầy đang trắc nghiệm khả năng của cậu để có thể dứt khoát giữ cậu lại đây và giao nhiệm vụ. Cậu cảm thấy khó chịu vì ý nghĩ nầy. Cậu nghĩ rằng, nếu giờ nầy, cậu đang sống cùng trung đội hay đại đội tác chiến của mình, đang sửa soạn hành quân thì đầu óc cậu sẽ được thảnh thơi. Tuy nhiên, hình ảnh của Thùy Liên hiện ra mỗi lúc một rõ hơn làm cho lòng cậu cực kỳ xao xuyến. Cậu nghĩ đến Thùy Liên đang vò võ một mình trong nỗi nhớ thương, cậu nghĩ đến đứa con sắp ra đời và có thể không bao giờ trông thấy mặt cha nếu cậu sa cơ ngoài chiến trường. Cậu cứ để cho mặt tình cho số phận cuốn trôi hay cố gắng chọn câu trả lời thế nào để được giữ lại ở chốn bình yên nầy?
Ông thiếu tá vừa trở lại phòng. Nét mặt và lời nói của ông vẫn hết sức điềm đạm:
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện nhé. Nào thiếu úy hãy phát biểu ý kiến của mình cho tôi nghe đi. Có lẽ nãy giờ, thiếu úy đã suy nghĩ xong hai vấn đề tôi vừa nêu ra rồi, phải không?
Tân lắc đầu. Quả thực, cậu không hề suy nghĩ gì khác hơn là vợ con và thân phận của mình trong hiện tại. Cậu hiểu rằng đây là giờ phút quyết định. Nều lời phát biểu làm vừa lòng ông thiếu tá thì cậu sẽ được giữ lại ở chốn bình yên nầy. Nếu ông thiếu tá nầy không vừa lòng thì cậu phải trở ra chiến trường, đối đầu với hiểm nguy nhưng tâm hồn sẽ thanh thản. Trong hai phía, cậu nên chọn phía nào đây? Mặc kệ. Cậu cứ nói ra một cách thẳng thắng ý nghĩ của mình. Sự ngay thẳng là bản tánh của cậu. Chính sự ngay thẳng nầy, trước đây là một trong các nguyên nhân đã đẩy cậu ra khỏi tổ chức của cộng sản. Bây giờ, liệu sự ngay thẳng có đẩy cậu ra khỏi phòng chiến tranh chính trị, nơi trú ẩn tương đối an toàn hiện nay trong khi cuộc chiến mỗi ngày thêm ác liệt? Tân hít một hơi dài rồi nói một cách thận trọng:
- Thưa thiếu tá, tôi chưa hề ở trong ngành nên quan điểm của tôi về hoạt động chiến tranh chính trị trong quân đội e không đầy đủ. Tôi chỉ có thể nói khía cạnh nầy đối với các đơn vị tác chiến mà tôi đã tham gia trên chiến trường.
Đôi mắt thiếu tá sáng lên:
- Đó, tôi muốn thiếu úy nói lên nhận xét của mình ở chỗ đó. Cứ nói thẳng thắng đi. Tôi không ưa những lời nói ra chỉ với mục đích làm vừa lòng cấp trên. Trong mọi cuộc chiến tranh, đơn vị tác chiến là thành phần chủ yếu. Mọi hoạt động của quân đội và của quốc gia đều phải nhắm vào sự yểm trợ cho thành phần đó. Ngành chiến tranh chính trị của chúng ta cũng thế thôi. Đã từng là chiến sĩ ngoài mặt trận, quan điểm của thiếu úy về chiến tranh chính trị thì rất có giá trị. Thiếu úy cứ nói, đừng dè dặt gì cả. Ở đơn vị tác chiến thiếu úy thấy công tác tâm lý chiến của quân đội mình thế nào?
- Thưa thiếu tá, chẳng có gì cả.
Thiếu tá Bảo gật gù:
- Đó là một nhận xét ngay thật, đáng khen. Theo thiếu úy, đó có phải là một khuyết điểm đáng kể không?
- Một khuyết điểm rất quan trọng không thể bỏ qua được. Cộng sản đang tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân nghĩa là một cuộc chiến tranh mà vũ khí chính là nhân dân, tôi xin nhắc lại.
- Nhưng Việt cộng bắn chết chúng ta bằng những viên đạn đồng mà.
- Nếu không có nhân dân thì những viên đạn đó khó đến tay họ được. Hoặc nếu súng đạn có đến tay họ bằng cách nào đó mà họ không được nhân dân che chở và nuôi nấng thì họ không thể nào tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược nầy được. Vì vậy, từ đầu cuộc chiến tranh, họ đã chú tâm chiếm lấy lòng dân và họ đã thành công trong việc đó. Chúng ta chưa quan tâm đến việc nầy hoặc có quan tâm thì quá ít. Biện pháp duy nhất mà chúng ta có, cho đến ngày nay, là ấp chiến lược. Tuy nhiên, đó chỉ là biện pháp thụ động, chỉ cốt yếu ngăn chận không cho họ gần gũi với dân chứ chưa lôi cuốn nhân dân chống lại họ. Thậm chí, ấp chiến lược còn gây ra ít nhiều bất mãn trong nhân dân vì đã giới hạn tự do của dân nữa. Ấp chiến lược chỉ giữ được người dân chứ không giữ được lòng dân.
Thiếu tá Bảo ngồi nghe một cách lý thú. Ông hỏi:
- Theo thiếu úy, việc dẹp bỏ ấp chiến lược là đúng đắn sao?
- Không, hiện nay dẹp bỏ ấp chiến lược là điều sai lầm vì chúng ta chưa có một biện pháp gì để thay thế nghĩa là ngăn chận sự liên lạc giữa nhân dân với họ. Nếu cứ để họ tiếp xúc dễ dàng với dân thì họ sẽ chiếm được lòng dân. Lúc đó lợi thế trong cuộc chiến nhất định phải nghiêng về phía họ.
- Nhưng sau Tết Mậu thân, rõ ràng chiến thắng đang nghiêng về phía chúng ta mà.
- Đúng, chúng ta đang thắng thế về quân sự và đang có ưu thế rất lớn về quân số cũng như vũ khí. Nhưng ưu thế đó không bền vững. Họ sẽ san phẳng cách biệt đó không mấy khó khăn. Quân số thì họ sẽ bổ sung từ miền Bắc vào. Nếu cần thì ngay lập tức có vài triệu lính Trung cộng tràn qua như đã xảy ra ở Triều tiên. Về vũ khí, Liên xô và Trung cộng có đủ sức trang bị cho mỗi người lính Việt cộng hai, ba, bốn khẩu súng, tha hồ mà bắn. Vậy, ưu thế về quân số và vũ khí là ưu thế không bền vững. Ưu thế bền vững là lòng dân thì chúng ta chưa có được. Nếu chiến tranh cứ tiến triển như thế nầy thì khó tiêu diệt được Việt cộng và chúng ta sẽ có nguy cơ bại trận và mất nước về tay họ.
Thiêu tá Bảo mỉm cười:
- Trong thời chiến, nếu một sĩ quan dám nói đến bại trận và mất nước thì có thể bị lột lon và truy tố ra tòa vì tội làm mất tinh thần chiến sĩ. Nhưng ở đây, lời nhận xét ngay thẳng đó đáng được khen thưởng. Bây giờ, thiếu úy hãy cho tôi biết ý kiến của thiếu úy về hai vấn đề nầy. Một là làm thế nào để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân để chống lại cộng sản, hai là liệu chúng ta có thể thắng cộng sản trên mặt trân nầy không?
- Vâng, thưa thiếu tá, tôi có ý kiến về vấn đề thứ nhất, vấn đề tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân thế nào. Trước hết, chúng ta phải làm sao cho mỗi quân nhân, từ sĩ quan đến binh sĩ đều hiểu rõ thế nào là chiến tranh nhân dân. Sau đó, dạy cho họ cách thức lấy lòng dân. Không ai được làm công việc đó thay cho họ vì các chiến sĩ mới là những người trực tiếp tham gia vào chiến tranh và trực tiếp gặp gỡ nhân dân trong các cuộc hành quân. Mỗi chiến sĩ phải là một cán bộ dân vận.
Thiếu tá Bảo lắc đầu:
- Đó là điều rất khó khăn.
- Vâng, vô cùng khó khăn vì quân đội của mình được đào tạo theo khuôn mẫu của một quân đội chuyên nghiệp kiểu phương Tây, chỉ biết làm nhiệm vụ đánh nhau theo lệnh cấp trên. Nay bảo quân đội phải làm một cuộc chiến tranh nhân dân thì rõ ràng, đó là một sự thay đổi rất quan trọng, một cuộc cách mạng đúng nghĩa. Muốn thành công, phải bỏ ra rất nhiều công sức của toàn thể quân đội, trong đó ngành chiến tranh chính trị phải là lực lượng nồng cốt chứ không phải là một cái bóng mờ như ngày nay. Trong hiện tại, ở các tiểu đoàn tác chiến, sĩ quan nào quá kém về khả năng, không dùng được vào việc gì thì cho làm sĩ quan chiến tranh chính trị.
- Đúng rồi, hiện tại ngành chiến tranh chính trị của chúng ta rất bất lực. Nhưng nếu chúng ta cố gắng thì liệu chúng ta có giành lại được lòng dân từ tay cộng sản hay không?
- Chắc chắn là được. Tôi xin đơn cử với thiếu tá một thí dụ cụ thể. Trong một cuộc hành quân ở Thất sơn, chuẩn úy Bính, một người bạn thân của tôi đã vào nhà dân ngồi nghỉ và chuyện vãn với một bà già khi đại đội dừng quân để ăn trưa, trong một vùng bị Việt cộng kiểm soát từ lâu. Sự lễ phép và cách nói chuyện dễ thương của bạn tôi đã gây được cảm tình nơi bà già đó. Bà ta đã nói nhỏ cho chuẩn úy Bính biết đêm rồi Việt cộng đã thiết lập cả một bãi mìn trên đường chúng tôi sắp đi qua. Nhờ đó, đại đội đã thoát chết. Vậy đó, lòng dân không phải là một thứ đã được định đặt trước cho một bên nào. Ai tỏ ra tử tế thì dân theo, thế thôi. Với cuộc chiến tranh nầy, rõ ràng chúng ta có chính nghĩa vì chúng ta tự vệ còn cộng sản thì phi nghĩa vì gây chiến để xâm lăng và để áp đặt một chủ nghĩa phi nhân. Thế mà một khi họ tìm cách chiếm được lòng dân rồi thì họ đã làm được một cuộc đảo lộn chính nghĩa với phi nghĩa trong dư luận quốc nội và cả quốc ngoại nữa.
Thiếu tá Bảo đứng dậy, bước đến vỗ vai Tân một cách thân mật:
- Tôi thích những điều thiếu úy vừa nói. Đó là những điều tôi đã suy nghĩ từ lâu và đã làm cho tôi xốn xang trong lòng. Khổ nỗi, tôi không đủ sức thuyết phục cho những ông tướng nghe theo. Mấy ông ấy chỉ muốn bàn tới một chiến thắng thuần túy quân sự mà thôi. Hôm nay được nghe chính thiếu úy trình bày, tôi cảm thấy an ủi một đôi phần. Ít nhất cũng có được một sĩ quan suy nghĩ như mình và nếu sau nầy có thua Việt cộng đi nữa thì vẫn còn có người cùng hiểu lý do thất trận với mình. Thôi, cậu cứ ở đây với tôi, bàn đó là của cậu ngồi mà suy ngẫm chuyện đời. Thỉnh thoảng có cuộc họp nào về chiến tranh chính trị thì cậu chịu khó viết tham luận cho tôi đọc. Thế thôi, sĩ quan chiến tranh chính trị thì bao giờ cũng chỉ là sĩ quan chiến tranh chính trị mà thôi!
Tân mỉm cười, cảm thấy vui lòng với thái độ dễ mến của người chỉ huy của mình. Cậu hỏi:
- Thưa thiếu tá, ở đây, việc ăn ở của tôi thế nào?
- Thiếu úy có gia đình hay bà con ở Long khánh không?
- Thưa không.
- Tốt, thế thì cứ yên tâm ở lại trong nầy với chúng tôi. Cấm trại một trăm phần trăm, có gia đình cũng phải vào đây. Tí nữa, cậu gặp hạ sĩ nhất Cử để nhận giường nằm và chăn màn. Hầm núp ngay trong phòng đây, không phải để đề phòng Việt cộng tấn công đâu. Để làm gì, biết không?
- Dạ biết. Để tránh đạn pháo của Việt cộng.
Thiếu tá gật đầu:
- Đúng vậy. Sau khi bị thất bại với âm mưu tấn công các thành phố miền Nam, Việt cộng rút về mật khu nhưng thỉnh thoảng vẫn bò về thụt hỏa tiễn 122 ly vào bất cứ nơi nào trong các thành phố để khủng bố tinh thần dân chúng và rêu rao rằng chúng chưa rút lui hẳn mà vẫn còn có khả năng quay trở lại tấn công thành phố. Hỏa tiễn của Trung cộng rất thuận lợi cho âm mưu khủng bố nầy. Nó dễ mang đi, có thể phóng với một thiết bị rất thô sơ tìm được ngay tại chỗ, không chính xác, nhưng sức tàn phá rất lớn. Thôi bây giờ thì cậu tự do, muốn làm gì thì làm, khi nào cần thì tôi sẽ nhờ đến cậu. Ban đêm, cậu muốn ngủ trong phòng nầy hay qua phòng bên ngủ chung với các sĩ quan khác để trò chuyện cho vui cũng được.
Thiếu tá nói xong thì ra khỏi phòng. Tân đi tìm hạ sĩ nhất Cử để nhận quân trang, quân dụng rồi trở lại phòng, ngồi cắm cúi viết thư cho Thùy Liên.

Cuộc sống trong hậu cứ của sư đoàn 18 thực là buồn chán. Quanh quẩn chỉ mấy dãy nhà bụi đỏ bám đầy từ mái tôn đến chân vách. Đang giữa mùa nắng nên đường đi trong trại ngập một lớp đất bột đỏ, tung bụi lên mù mịt khi có một ngọn gió thổi qua. Ra phố cũng chán phèo. Tỉnh lỵ mới được hình thành vài năm nay, nên thành phố còn rất nhỏ, gặp thời buổi chiến tranh nên chẳng ai buồn nghĩ đến việc xây dựng thêm. Một cái chợ kế bên bến xe, hai bên là hai dãy phố dùng làm các cửa tiệm vừa ăn uống, vừa buôn bán. Trung tâm thành phố chỉ có bấy nhiêu. Tuy vậy, mỗi ngày Tân đều mượn xe đạp của anh em binh sĩ ra phố một lần để mua báo và tạp chí về ngồi đọc từ tin tức cho đến dòng quảng cáo cuối cùng cho qua ngày.
Nỗi nhớ nhung Thùy Liên luôn luôn dày vò lòng cậu. Cậu không dám trốn về thăm vì lệnh nghiêm nhặt của bộ tư lệnh, cấm tất cả quân nhân trực thuộc ra khỏi tỉnh nếu không có quân vụ lệnh. Các sĩ quan trong bộ tư lệnh cũng nói cho cậu biết trên con đường về Sài gòn, Việt cộng thường ẩn núp trong các khu rừng và trong các vườn cao su, hoặc vườn cây rậm rạp hai bên và bắn vào các xe chạy trên đường. Thỉnh thoảng, ban đêm họ cũng đắp lên một mô đất trên mặt lộ làm tắt nghẽn giao thông cả nửa ngày trời.
Người ta cũng kể rằng có lần Việt cộng mang súng mò ra giữa ban ngày, chận xe đò, lùa khách vào rừng, xét giấy căn cước, bắt tất cả quân nhân và công chức dẫn đi mất biệt. Tất cả những tin tức đó làm cho mọi quân nhân có ý định trốn về Sài gòn thăm nhà cũng phải thối chí.


*
* *


Một tuần lễ sau khi gửi đi lá thư đầu tiên, Tân nhận được thư trả lời của vợ. Cậu mừng rỡ, bóc ra ngay, đọc ngấu nghiến.

Anh yêu,
Chiều nay em vừa về đến nhà thì bác Sáu Rô bước ra hiên gọi to:
- Cô Liên, có thư của thầy Tân gởi về đây.
Em chạy vội đến và ôm lá thư của anh vào lòng. Em cứ đứng yên như vậy, nước mắt trào ra. Bác Sáu gọi bác gái ra. Bà dìu em về nhà, mở cửa giúp rồi đưa em vào ngồi trên ghế. Bà cầm tay em và nói:
- Mặt cô xanh lét như tàu lá. Cô nghỉ một chút đi. Tôi đưa cô vô giường nằm nghe?
Em lắc đầu từ chối. Em bảo bà đừng lo. Em mong thư anh quá, lo lắng cho anh quá, nên được thư thì em xúc động một chút rồi sẽ khỏi thôi. Em hỏi má em đi đâu vắng nhà. Bà bảo má vừa đi chợ Vườn chuối, về nhà lại trở ra ngay vì quên một món gì đó. Tội nghiệp, chiến tranh làm cho má chóng già và đâm ra lẩm cẩm, quên trước quên sau.
Ngay sau khi anh đi rồi, em đánh điện báo tin cho má biết và nhờ má lên ở trên nầy với em. Má kể rằng khi được điện thì má cứ chạy lui chạy tới, không biết chuẩn bị thứ gì để đi Sài gòn. May nhờ có chị Hai hay kịp, qua giúp má soạn áo quần và hôm sau đưa má ra xe. Em là con gái cưng, còn anh là chàng rể quí của má, anh biết không? Thế là em chỉ ở bên nhà chị Bạch Mai đúng một đêm rồi trở về sống trong tổ ấm của chúng mình cùng với má.
Em vẫn đi làm ở tổng y viện Cộng hòa. Mỗi ngày em đi về bằng phương tiện gì, đố anh đoán được.
Em đi bằng xe đưa rước sĩ quan! Anh thấy hay chưa? Lý do là thế nầy. Buổi sáng, hôm anh lên đường, em đã xin nghỉ một ngày để đưa tiễn anh. Nhưng sau khi anh đi rồi, em ở nhà một mình buồn quá, đi ra nhớ anh, đi vào nhớ anh, qua bên chị Mai chơi cũng nhớ anh. Em chịu không nổi nên thay áo quần rồi ngồi xích lô đến sở làm.
Thấy em vào, đại úy dược sĩ trưởng khoa rất ngạc nhiên, hỏi em rằng anh không đi trình diện tái ngũ sao. Mới nghe câu hỏi là em đứng yên khóc ròng, làm cả khoa phải xúm lại an ủi. Từ khi về với anh, hình như em dễ khóc hơn cả khi còn là con gái, có phải vậy không anh?
Anh chị em trong phòng hỏi thăm anh, hỏi thăm sự sống của em sau khi anh đi rồi và biết em bây giờ đi làm không ai đưa rước. Lập tức đại úy trưởng khoa lên gặp ngay trung tá giám đốc và đề nghị chiếc xe đưa đón sĩ quan hằng ngày, thay đổi lộ trình đi ngang qua đường Vườn chuối để đón em. Trung tá chấp thuận. Thế là, mấy hôm rồi em đều ra sớm, đứng đợi xe trước cửa tiệm của chị Mai. Chị Mai cũng thường ra đứng đó với em. Xe dừng lại, luôn luôn có một sĩ quan quân y bước xuống đỡ em lên và nhường chỗ cho em ngồi. Trong xóm nhiều người nhìn em lên xe. Anh biết họ nói thế nào không? Chị Mai kể lại cho em nghe, họ nói rằng anh đi chinh chiến thì vợ ở nhà phải được mọi người săn sóc tận tình.
Đó, người chung quanh nói như thế, đối xử với em như thế thì làm sao em không nhớ anh quay quắt cho được.
Đọc thư anh, em vui mừng vô kể vì anh được về bộ tư lệnh sư đoàn, không phải ra chiến trường. Em rất cảm động vì những điều anh kể về hai sĩ quan, trung tá trung đoàn trưởng và thiếu tá tham mưu phó chiến tranh chính trị của anh. Ở miền Nam nầy, ngay nơi nóng bỏng nhất, sự đối xử giữa những con người với nhau vẫn tràn đầy tình cảm. Tự nhiên, em nhớ lại một ý nghĩ xưa cũ đã nói với anh: “Nếu miền Bắc đừng vào đây quấy phá, để cho người miền Nam mình sống với nhau thì cuộc đời nầy xinh đẹp biết bao”.
Anh yêu,
Trong thư anh viết cho em, anh bảo rằng luôn luôn bị ray rứt vì mặc cảm hèn nhát trốn tránh chiến trường; đọc tới đó, em lo quá. Đừng nên mặc cảm như thế, anh yêu nhé. Anh đã từng tình nguyện xông pha trên trận mạc trong nhiều năm trước đây, thế thì anh đâu có hèn nhát. Máu anh đã đổ trên chiến trường, thế thì anh cũng đã góp công một cách xứng đáng cho Tổ quốc rồi. Bây giờ con anh cần anh sống để nuôi nấng và dạy dỗ để nó trở nên người hữu dụng cho đất nước sau nầy. Em không có ý lấy cái “nhi nữ thường tình” mà ràng buộc kẻ “anh hùng” đâu, nhưng quả thực, sự sống của anh bây giờ không phải của riêng anh nữa. Một phần cuộc sống đó là của em và phần lớn hơn là của đứa con sắp ra chào đời của chúng mình. Mấy hôm nay, đứa bé bắt đầu cử động nhiều trong bụng em. Có lẽ nó biết cha nó vừa khoác chiến y trở lại rồi. Đêm nằm, em phải vỗ về nó:
- Con của mẹ hãy ngoan. Ba con đi dẹp giặc ngoài biên cương và sẽ về khi chiến tranh lụi tàn. Ba sẽ nuôi nấng cho con lớn lên. Con sẽ vào học trong chính ngôi trường mà ba dạy dỗ. Rồi con sẽ rời ngôi trường nầy để lên đại học và trở thành một công dân xứng đáng như ba vậy.
Nó nghe lời em nên nằm yên để em ngủ tới sáng. Em tin rằng, tuy còn trong bụng mẹ, đứa bé vẫn nghe được những lời nói thực thân yêu. Vì vậy các nhà y học và tâm lý học vẫn khuyên mọi người cố tạo điều kiện cho người phụ nữ mang thai được sống trong một môi trường êm dịu luôn luôn có những lời nói hiền hòa.
Đáng lẽ, em cũng được sống trong một môi trường như thế vì em là vợ của anh và tình yêu của chúng mình là một trong những điều tuyệt diệu nhất của thế gian. Nhưng cuộc chiến tàn khốc buộc anh lại phải lên đường, con chúng mình không được nghe những tiếng vỗ về của cha nó trong một thời gian. Em hứa sẽ thay lời anh nói chuyện với nó hằng đêm. Tay em sẽ thay tay anh vuốt ve cái bụng căn phồng, nơi trú ngụ đầu tiên của đứa con chúng mình.
Thôi, đêm đã khuya rồi, em dừng bút tại đây. Em chúc anh đêm nay có được một giấc mơ thực đẹp, giấc mơ của người chinh phu trở về mái ấm gia đình sau khi chiến tranh chấm dứt.
Người vợ yêu quí của anh.
Đặng thị Thùy Liên

Tân xếp lá thư lại, chậm rãi cho vào phong bì, thẩn thờ nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ rộng. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng đầu xuân làm cho mọi vật sáng lên một cách rực rỡ. Lá thư của Thùy Liên làm cho cậu bồi hồi xúc động. Thư của nàng bao giờ cũng thực hay, cậu đọc đi đọc lại nhiều lần không thấy chán. Đôi khi cậu nghĩ rằng Thùy Liên phải là nhà văn thì đúng hơn là cô y tá tầm thường. Nhưng dù cho là nhà văn hay y tá thì tâm hồn của Thùy Liên cũng là một tặng phẩm quí giá nhất mà Thượng đế có thể ban phát cho một người!
Với bức thư khôn khéo nầy của người vợ thân yêu, cậu hoàn toàn yên tâm với chỗ ngồi tương đối an lành hiện tại, không còn vướng mắc về một mặc cảm hèn nhát mà cũng không còn tơ vương về nếp sống sôi nổi và hào hùng trên những chiến trường đầy gian nguy.
Cuộc sống trong dãy nhà dành cho khối chiến tranh chính trị vẫn trôi đều đều một cách nhàn nhã. Mỗi ngày cậu mặc bộ quân phục ủi thẳng nếp, mang đôi giày đen bóng loáng, hai bông mai vàng lấp lánh hai bên cổ áo. Hai buổi sớm chiều, cậu ngồi vào bàn đọc sách báo, tài liệu hoặc văn thư từ các nơi gởi về. Cậu ghi lại những điều quan trọng để buổi chiều trình lại với thiếu tá tham mưu phó. Thỉnh thoảng, cậu cũng theo thiếu tá đi dự họp với các sĩ quan chiến tranh chính trị của các đơn vị khác. Cậu thường viết diễn văn cho thiếu tá, đôi khi cho cả thiếu tướng tư lệnh nữa. Diễn văn cậu viết được nhiều người khen vì lời văn mạnh bạo và sáng sủa, dẫy đầy những dẫn chứng trên chiến trường.
Dần dần, cậu quen biết với nhiều sĩ quan thuộc các phòng ban của bộ tư lệnh và đi đâu cũng nhận được những nụ cười thân ái và cởi mở của người khác. Cuộc sống trong những ngày nầy thực dễ chịu. Tất cả những tình huống tốt đẹp trên đều được cậu mô tả kỹ lưỡng trong những lá thư gởi về cho Thùy Liên làm cho tinh thần nàng phấn chấn lên rất nhiều.



*
* *



Tân đã xa nhà vừa đúng hai tháng. Tuần nầy, nhất định cậu phải về Sài gòn để thăm Thùy Liên. Cậu không thể chịu đựng hơn nữa nỗi nhớ nhung của mình. Cậu chỉ về một ngày thôi và sẽ trở lại vào chiều hôm sau. Cậu không muốn xin phép thiếu tá Bảo vì cậu không muốn đặt vị chỉ huy mình vào tình trạng khó xử trong khi lệnh cấm trại một trăm phần trăm vẫn còn hiệu lực. Cậu hiểu rằng lệnh cấm trại nầy sẽ còn duy trì lâu lắm vì sau khi rút khỏi các thành phố, Việt cộng nổ lực pháo kích vào các khu đông dân cư bằng hỏa tiễn 122 ly làm cho tất cả các đơn vị và cơ sở quân sự trên toàn quốc luôn luôn bị đặt vào tình trạng báo động và ứng chiến.
Mặc kệ, cậu phải về thăm Thùy Liên. Còn chưa đầy hai tháng nữa nàng sẽ sinh con. Cậu phải về để tận mắt trông thấy sức khỏe của nàng đồng thời chứng tỏ cho nàng thấy nỗi thương nhớ của cậu không sao kể xiết và sẵn sàng chịu đựng mọi bất trắc để được gần gũi nàng dù chỉ trong một đêm ngắn ngủi.
Trưa thứ bảy, cơm nước xong, cậu thay áo quần dân sự và nói với viên hạ sĩ quan trong phòng rằng cậu muốn ra phố chơi suốt buổi chiều và đêm nay. Nghe cậu nói, viên hạ sĩ quan cười:
- Hôm nay thiếu úy đi “xả xui” phải không?
Đó là tiếng lóng trong quân đội ám chỉ hành động đi tìm gái để giải quyết nhu cầu sinh dục của người lính chiến xa nhà lâu ngày. Thông thường, ở chung quanh bất cứ chỗ đóng quân nào cũng một số gái giang hồ, sẵn sàng để cho quân nhân mua vui trong chốc lát. Viên hạ sĩ quan của phòng là một tay sành điệu ăn chơi. Anh ta chỉ cho Tân một cách cặn kẽ địa chỉ của các “lầu xanh”ngoài phố, đặc điểm của mỗi “nàng Kiều” và giá biểu rõ ràng.
Tân cố kiên nhẫn đứng nghe và đợi lúc anh hạ sĩ quan ngưng nói là cậu từ giã đi ngay. Cậu ra thành phố, leo lên chiếc xe đò đã đầy khách, xe khởi hành ngay tức thì.
Đường đi không có vẻ gì là nguy hiểm dù phải đi qua vài nơi vắng vẻ. Rải rác trên đường vẫn còn dấu vết của chiến cuộc Tết Mậu thân: những cây cao su ngã xuống vì đạn pháo, những ngôi nhà sụp đổ, những bức tường đen thui đầy vết đạn ngay cửa ngõ vào thành phố Biên hòa.
Xe chạy chậm, lại phải dừng nhiều nơi nên đến hơn ba giờ mới về tới Sài gòn. Cậu nhảy lên taxi và đốc thúc bác tài chạy nhanh về nhà. Cậu nôn nao, cậu hồi hộp khi đi vào con hẻm quen thuộc, mới xa cách có hai tháng mà tưởng như lâu lắm rồi.
Cửa nhà đang mở. Cậu hiểu rằng giờ nầy Thùy Liên chưa đi làm về, ở nhà chỉ có mẹ của nàng mà thôi. Cậu bước vội vào, gọi lớn:
- Má ơi, má.
- Ai đó?
Có tiếng bà già từ dưới bếp vọng lên.
- Con đây má.
Trả lời xong, cậu đứng yên rảo mắt khắp phòng. Đồ đạc vẫn y nguyên không có gì thay đổi. Chỉ có thêm một giường nhỏ trong phòng khách, có lẽ dành làm chỗ ngủ cho mẹ của Thùy Liên.
Bà cụ xuất hiện ở cửa buồng ngủ, đứng sững lại, ngạc nhiên:
- Tân đó phải không con? Về hồi nào vậy?
- Dạ con vừa mới xuống xe. Má có khoẻ không?
- Khỏe. Con đi tắm rửa thay áo quần đi.
Bà nhìn đồng hồ:
- Mới hơn ba giờ. Sáu giờ con Liên mới về tới. Con về nghỉ phép được mấy ngày?
- Dạ không có phép vì tất cả quân nhân phải túc trực tại trại. Con trốn về thăm Thùy Liên được một ngày thôi.
- Tội nghiệp dữ hôn. Con Liên sắp sinh rồi, không biết tới lúc đó con có được về hay không.
- Dạ phải về. Lúc đó còn cấm trại hay không thì chưa biết được nhưng nhất định con phải về vài hôm với Liên, đi phép hay trốn, nhất định phải về.
- Ừ, phải đó con. Nó sinh con so mà không có chồng bên cạnh thì tủi thân lắm. Trong giờ phút đó, mẹ ruột cũng không bằng chồng được.
- Ba và gia đình dưới Cần thơ có khỏe không má?
- Khỏe hết. Con Hai mới lên thăm cách nay nửa tháng.
- Tình hình dưới đó thế nào hả má?
- Sau Tết Mậu thân, mấy ổng rút đi hết rồi, dân làm việc lại bình thường, sửa chữa những chỗ hư hỏng, sụp đổ do bom đạn gây ra. Ban ngày thì sinh sống vui vẻ nhưng ban đêm cứ lo mấy ổng pháo kích vô thành phố. Nghe đùng một cái là ai nấy cũng vội vàng tuột khỏi giường, nằm xuống sát đất. Giải phóng cái gì mà cứ pháo riết vô nhà dân. Dân chết hết rồi thì giải phóng vô đây mà sống với ai. Trước đây, nhiều người cũng còn giữ cảm tình với mấy ổng. Bây giờ, lo sợ bị pháo mà cảm tình đó mất hết.
Tân bước vào phòng rồi xuống bếp, tần ngần đứng nhìn mọi thứ đã từng chứng kiến những ngày hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Tắm rửa, thay áo quần xong, cậu nói với mẹ vợ:
- Thùy Liên đi làm chưa về, con qua thăm gia đình Bạch Mai một lát.
- Ừ, con qua thăm đi. Cả gia đình bên đó tốt lắm. Cô Mai với con Liên nhà mình tuy là người dưng mà đối xử với nhau còn hơn chị em ruột thịt. Cả cậu Thế, chồng cô Mai cũng vậy, người sao mà phúc đức. Làm tới thiếu tá chớ có phải người thường đâu. Vậy mà mấy ông cách mạng dưới chỗ má cứ bảo rằng sĩ quan Cộng hòa ác ôn.
Tân cười:
- Sĩ quan mà không đàng hoàng thì làm sao cưới được con gái cưng của má.
Bà cười theo:
- Ừ hé, con cũng là sĩ quan mà má quên mất, cứ tưởng con vẫn còn là giáo sư. Thôi con qua thăm cô Mai đi rồi về. Má lo làm cơm. May quá, sáng nay má đi chợ mua được con cá chim ngon lắm. Để má chưng cà chua cho hai vợ chồng tụi bây ăn.
Tân chào mẹ rồi ra đường đến nhà Bạch Mai. Cậu bước vào tiệm, chỉ có bé Thảo đang ngồi trên ghế. Nó la to như một phản xạ:
- Má, có khách mua hàng.
Rồi nó khựng lại, trố mắt nhìn Tân, tỏ vẻ ngạc nhiên và vui mừng. Có tiếng Bạch Mai dưới bếp vọng lên:
- Ừ, con thưa với khách đợi má một tí. Mời khách ngồi chơi hay lựa hàng đi.
Tân bước đến bế bé Thảo lên tay. Con bé thực dễ thương và đẹp, có lẽ giống mẹ nhiều hơn giống cha. Nó tiếp tục nhìn Tân rồi nhoẻn miệng cười.
Giọng Mai từ dưới bếp vọng lên tiếp:
- Thảo, khách còn đó không con?
Con bé im lặng không trả lời. Có tiếng guốc hấp tấp đi lên. Bạch Mai đứng khựng lại ở cửa, giọng nàng như nghẹn lại:
- Trời ơi, anh Tân. Trời ơi, anh Tân thực đó hả?
Tân cười:
- Tân thực đây, không phải hồn ma đâu mà sợ.
Bạch Mai đến gần, chắp hai tay sau mông, nghiêng đầu nhìn Tân như quan sát một món hàng:
- Anh đi lính mà trông trắng trẻo như đi dạy vậy.
- Tôi làm lính chiến tranh chính trị như anh Thế thì có phải dầm sương dãi nắng gì đâu, suốt ngày ngồi trong phòng đọc sách và bàn chuyện trên trời dưới đất còn sướng hơn đi dạy nữa. Bác Tư có nhà không?
- Ba em dẫn thằng Bình đi hớt tóc rồi. Dạo nầy hai ông cháu thường dẫn nhau đi dạo ngoài đường. Anh có khỏe không? Trông anh hơi ốm đó, có lẽ vì nhớ vợ rồi ăn không được, ngủ không được phải không?
- Tôi vẫn khỏe nhưng xứ đó bụi bặm nhiều quá nên tôi có cảm giác như khó thở. Nhưng không sao, dần dần quen đi thôi.
- Anh về phép được mấy ngày?
- Không ai dám cấp phép đâu, đang cấm trại một trăm phần trăm trên toàn quốc. Trốn về thăm nhà rồi đi ngay.
- Tội nghiệp cho Thùy Liên, lúc nào cũng nhắc đến anh, càng tới ngày sinh, càng có vẻ mong anh hơn. Sinh con đầu lòng mà không có chồng bên cạnh thì tủi thân lắm, như em hồi đó sinh thằng Bình. Đến bây giờ, đôi khi sực nhớ lại lúc đó còn thấy thương thân muốn khóc.
Nàng cúi mặt xuống, nói tiếp nho nhỏ:
- Nếu hồi đó, em không dại dột nghe lời anh Đảnh bỏ đi trốn thì bây giờ cuộc đời em chắc khác hẳn phải không anh Tân?
Nàng ngước lên, trong cái nhìn thoáng có chút biến đổi. Tân vội quay mặt đi chỗ khác:
- Mọi việc trên thế gian nầy đều do một sự sắp đặt nhiệm mầu, người trần tục chúng ta làm sao lường được. Tuy nhiên, những người nhân đức như Bạch Mai bị đấng thiêng liêng bắt phải chịu một nỗi bất hạnh nào đó để thử tấm lòng rồi sau đó sẽ được đền bù xứng đáng. Với Bạch Mai thì thiếu tá Thế và bé Thảo không phải là một đền bù xứng đáng sao?
- Cám ơn anh, em cũng nghĩ như anh vậy.
Nàng quay sang con, đưa hai tay ra:
- Thảo, qua mẹ để bác Tân nghỉ ngơi.
Con bé bỗng xoay lại ôm chặt lầy cổ Tân. Bạch Mai cười to:
- Con bé nầy hay chưa? Thôi được, anh Tân ngồi chơi với cháu, em xuống bếp một tí. Cứ tới giờ làm cơm, nếu không có ông ngoại thì cháu Thảo phải trông nhà cho em. Có ai vô thì lập tức cháu la lên: “Mẹ, có khách mua hàng”. Có hôm, nó đang mãi chơi, ba nó đi làm về bước vào cửa, nó giật mình cũng la lên như vậy làm cho anh Thế gần như lăn ra đất mà cười.
Bạch Mai xuống bếp một chốc rồi trở lên. Tân ngồi nói chuyện với nàng một lát rồi ra về.
Cậu vào nhà gặp mẹ, nói qua loa vài chuyện rồi ra hiên đứng nhìn ra. Cứ mỗi lần có tiếng xe hơi chạy qua ngoài đường nhựa, cậu lại nhóng cổ về phía đó. Cuối cùng Thùy Liên của cậu cũng xuất hiện với chiếc áo dài trắng, bên ngoài có chiếc áo khoác mỏng dành cho phụ nữ mang thai.
Thùy Liên đứng khựng lại. Tân chạy đến nắm tay:
- Thùy Liên!
- Anh Tân!
Hai người cùng thốt lên một lượt. Tân đưa vợ vào nhà. Nàng đứng yên cho Tân hôn nhẹ vào môi. Mắt nàng rưng rưng:
- Anh Tân, em nhớ anh quá chừng. Tối nào vào giường nằm một mình, em cũng ước mơ có phép mầu nào đó đưa anh về với em….
Nàng ngừng nói vì có tiếng guốc của mẹ từ dưới bếp bước lên. Bà hỏi:
- Liên, con về rồi đó hả? Nãy giờ thằng chồng của con cứ trông đứng, trông ngồi. Thiệt là khổ, chiến tranh làm gì cho vợ xa chồng, con xa cha, giải phóng làm gì cho dân khốn đốn. Thôi, đi thay áo quần rồi ăn cơm. Tao đi qua chị Sáu xin trái ớt. Đi chợ, cứ quên trước, quên sau.
Bà cụ bước ra cửa. Tân dìu vợ vào buồng, khép cửa lại. Cậu giúp Thùy Liên cởi nút áo ra. Khi tấm thân của nàng phơi ra lồ lộ, Tân quỳ xuống áp mặt mình vào cái bụng to tướng của nàng.

Thùy Liên thay áo quần xong, Tân định ở nhà để vợ chồng quấn quít với nhau nhưng Thùy Liên bảo:
- Anh phải qua thăm gia đình chị Bạch Mai.
- Anh qua gặp Bạch Mai khi nãy rồi.
- Lúc đó anh Thế đi làm chưa về phải không?
Tân gật đầu. Thùy Liên nói tiếp:
- Không được, anh phải qua thăm anh Thế. Trong thời gian anh vắng mặt cả hai anh chị ấy thương em, chăm sóc còn hơn anh chị ruột nữa. Có hôm anh Thế vào tổng y viện Cộng hòa xem em làm việc có vất vả lắm không. Gặp ai trong đó, từ giám đốc đến y tá, anh ấy đều dặn phải giúp đỡ em vì em là vợ của chiến binh. Từ đó người ta không kêu em là y tá Liên nữa mà gọi là “cô vợ chiến binh”.
- Thôi được, anh đồng ý đi thăm. Anh cũng muốn gặp anh Thế để hỏi thăm tình hình chiến sự ở ngoài Trung một chút. Nhưng anh chỉ đi với điều kiện…
- Điều kiện gì?
- Em cùng đi với anh.
Thùy Liên cười khúc khích:
- Anh có muốn đi một mình em cũng không cho đâu.
Hai vợ chồng trẻ nắm tay nhau ra khỏi nhà. Dài theo con hẻm nhỏ, họ phải nhiều lần đáp lại những câu chào thân ái của những người cùng xóm.
Thiếu tá Thế đón ở cửa trước, giọng vồn vã:
- Nghe anh về, tôi tính qua thăm. Chưa kịp đi thì hai ông bà đã qua tới rồi. Xin mời vào.
Bạch Mai gọi lớn:
- Anh Tân và Thùy Liên vào trong nhà đi. Ba ơi ba, có anh Tân đến thăm.
Tân vội bảo:
- Đừng gọi bác xuống. Để tôi lên trên phòng thăm bác.
Bạch Mai gật đầu:
- Anh Tân lên lầu một mình đi, Thùy Liên xuống đây với chị. Bụng to rồi, không được lên xuống cầu thang nguy hiểm.
Tân lên lầu gặp bác Tư, chào hỏi rồi trở xuống. Thiếu tá Thế hỏi vợ:
- Tối nay mình mời anh Tân và Thùy Liên dùng cơm nhé?
Thùy Liên vội từ chối:
- Hôm nay thì không được vì má em đang làm cơm ở nhà, chúng em phải về dùng bữa với bà.
Thế nói:
- Thôi được, hai ông bà ngồi đây uống nước trà vậy. Bạch Mai cho hay anh Tân về làm việc ở khối chiến tranh chính trị của sư đoàn, thế là cùng ngành với tôi. Anh về đó làm gì?
- Chẳng có công việc gì rõ rệt. Thiếu tá tham mưu phó sai đâu làm đó. Vào đó rồi mới thấy chiến tranh chính trị là ngành hoạt động yếu nhất trong quân đội, có phải vậy không anh Thế?
- Nói yếu là quá nhân nhượng. Phải nói chẳng được việc gì thì đúng hơn.
- Thiếu tá Bảo cũng nói như thế. Tất cả quân đội cũng đánh giá như thế. Cho nên dưới cái nhìn của mọi người thì sĩ quan chiến tranh chính trị chẳng có ích lợi gì cho quân đội.
Thế gật đầu:
- Đó là điều tôi ưu tư. Cuộc chiến tranh mà ta đang chịu đựng là một bộ phận của cuộc tranh đấu một mất một còn giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, giữa độc tài và dân chủ, giữa kìm kẹp và tự do. Thế mà cứ thử hỏi bất cứ binh sĩ nào của mình rằng anh đi chiến đấu vì cái gì thì chắc chắn chẳng có câu trả lời nào nghe được. Còn ở miền Bắc thì sao? Mọi người từ anh binh nhì, anh công nhân hạng bét cho đến ông thủ tướng đều phát biểu một cách trôi chảy mọi vấn đế chính trị cùng với một luận điệu y như nhau. Cuộc chiến tranh nầy có hai mặt trận. Chúng ta chỉ đáp ứng được mặt trận quân sự, còn mặt trận chính trị tư tưởng thì chúng ta bỏ ngỏ mặc cho đối phương tung hoành.
Tân góp ý:
- Anh nói đúng quá. Trong thời gian nhập ngũ, tôi đã qua nhiều nơi. Nơi nào cũng vậy, từ binh sĩ đến sĩ quan, ai cũng chỉ quan tâm đến lệnh hành quân, ngoài ra chằng còn để tâm đến tình hình quốc nội, quốc tế gì cả.
Mắt Thế sáng lên vì gặp được người đồng điệu:
- Đúng rồi, cái chuyện thời sự nóng hổi chính là chuyện khai quật những hố chôn tập thể những nạn nhân mà Việt cộng thảm sát ở Huế trong Tết vừa rồi. Thế mà ngày hôm qua, gặp một trung úy sư đoàn Bảy, tôi hỏi có biết chuyện thảm sát đó không, anh ta lắc đầu bảo rằng không biết. Trời đất hỡi, cái tội ác tày trời của cộng sản đối với đồng bào ruột thịt của mình, cả thế giới đều biết mà một sĩ quan của chính quân đội mình lại không biết. Chuyện khó tin như thế mà có thực. Rõ ràng đó là lỗi của ngành chiến tranh chính trị của chúng ta. Anh có biết rõ cuộc thảm sát đó không?
Tân trả lời:
- Có, tôi có nghe nói rằng trong một tháng chiếm được thành phố Huế, cộng sản đã biến chốn cố đô xinh đẹp đó thành một địa ngục trên trần gian.
- Đúng là địa ngục của trần gian. Họ đã giết chết quân nhân công chức mà họ bắt được đã đành, ngay cả đồng bào vô tội cũng bị họ bắn chết và chôn vào các hố tập thể với cả trăm mạng người mỗi hố.
Tân hỏi:
- Nghe nói lúc đầu mới vào, họ tỏ ra tử tế và sau nhiều ngày mới bắt đầu hành động giết người. Có phải vậy không?
- Đúng vậy, dân ở Huế đều kể lại như thế, và đó là điều đáng phải suy nghĩ. Trong lịch sử chiến tranh của loài người, việc thảm sát thường dân không phải là hiếm nhưng những vụ giết chóc đó là do sự tức giận, sự điên cuồng của những người lính. Thí dụ rõ ràng nhất là sự tàn ác của quân Mông cổ dưới thời Thành cát Tư hản. Có nhiều thành phố bị họ giết gần hết sau khi thất thủ. Nhưng họ chỉ giết cư dân những thành phố nào đã chống lại họ một cách quyết liệt. Còn những thành phố sớm đầu hàng thì thôi, dân không bị giết. Ngược lại, ở Huế trong ngày Tết vừa rồi, dân có chống Việt cộng đâu mà chúng cũng giết. Hơn nữa, trong lịch sử, sự tàn sát, nếu có, chỉ xảy ra ngay sau khi thành phố đó thất thủ, chứ không phải là vào đó một thời gian, sống chung với người ta và sau đó đem người ta ra mà giết một cách lạnh lùng như cộng sản ở Huế sau ngày Tết Mậu thân.
Tân gật đầu:
- Vâng, giết người từ từ sau khi chiếm được thành phố thì thực là man rợ. Chuyện đó cũng đã từng xảy ra dưới thời Đức Quốc xã.
- Nhưng anh nên nhớ rằng Đức quốc xã giết Do thái là muốn tiêu diệt một dân tộc không phải là Đức mà là một chủng người mà bọn phát xít cho là có hại cho nền văn minh của dân tộc chúng. Còn ở Huế thì chính người Việt giết người Việt, không vì một lý do nào rõ rệt, mà chỉ vì nghi ngờ không thích họ mà thôi. Họ giết đồng bào mà bình tĩnh và khéo léo lạ lùng. Thí dụ như ở sân trường Gia hội, trong một đêm họ lùa vào hàng trăm người, sau đó tách ra một nhóm nhỏ khỏe mạnh và bảo rằng mọi người ở đây đều bị chính quyền cách mạng lên án tử hình, tuy nhiên đến giờ chót thì riêng nhóm nhỏ nầy được lệnh khoan hồng với điều kiện là phải ra sức đào một cái hố khá sâu trong sân trường. Thế là cái hố nhanh chóng được hoàn thành. Sau đó mọi người bị bắn chết hết kể cả những người đào hố. Quả thực là tài tình!
- Nhưng chết hết rồi thì lấy ai mà kể lại chuyện đó?
- Đó là lời khai của một chú dân quân Việt cộng đêm đó có tham gia vụ thảm sát và bị bắt sau đó, khi ta chiếm lại được thành phố Huế. Nghe nói, ít lâu sau, cậu dân quân nầy đã thừa dịp tự tử chết trong khám rồi. Cái hố chôn tập thể đó đã được khai quật. Gần hai trăm xác! Thối kinh khủng vì thịt chưa tan hết, nhưng sự nhận diện cũng vô cùng khó khăn. Hố đó phải khai quật gấp để lấy chỗ cho các em bé vào học trở lại. Còn nhiều hố khác đang được định vị trí và chuẩn bị khai quật. Nhiều nhất là trên đường rút lui của chúng sau khi bị chúng ta đẩy khỏi thành phố. Đó là các hố tập thể, còn các hố cá nhân do đồng bào tự chôn cất người chết thì nhiều vô số kể. Trong các khu vườn, bên ven đường, dọc theo chân tường của thành nội, đâu đâu cũng dẫy đầy những mô đất sơ sài, bên dưới có một, hai xác chết không biết của ai. Người Huế tin rằng khi trời chập choạng tối thì linh hồn người chết trở về tìm lại xác mình nên vào đầu hôm, người ta lại đốt nhang lên đầu các ngôi mộ. Lúc đó thành phố chìm trong cảnh ma quái rùng rợn nhưng vô cùng thương tâm. Khắp nơi trong thành phố, những đốm lửa lập lòe, khẽ sáng lên khi từng ngọn gió thổi qua. Người dân Huế vốn rất hiền lành và đức độ vì chịu ảnh hưởng của Phật giáo, thế mà sau Tết Mậu thân vừa rồi, nhiều người phải nghiến răng thề trả cho được mối thù Mậu thân nầy. Mồng một Tết được chọn làm ngày giỗ tập thể của thành phố. Từ nay, ngày Tết không còn là ngày vui của thành phố nên thơ đó nữa.
- Tôi nghe nói đài phát thanh Hà nội và đài Giải phóng vẫn gọi cuộc tổng công kích Tết mậu thân là một chiến thắng vĩ đại.
- Tất nhiên là chúng phải luôn luôn nói như thế để lừa gạt dư luận, nhất là dư luận quốc tế. Cơ quan tuyên truyền của họ nói hăng quá nên ở nước ngoài, nhiều người tin rằng chúng đã chiến thắng thực sự chứ đâu có biết chúng đã bị thiệt hại quá nhiều trong một ý đồ cực kỳ ngu xuẩn về mặt quân sự rồi trút thù hận lên đầu dân chúng.
- Theo anh thì trong nội bộ, họ có nhận đó là một thất bại to lớn hay không?
- Không thể biết được. Về mặt công khai chúng vẫn lớn tiếng rêu rao chiến thắng và có vẻ như muốn biện minh việc rêu rao đó bằng cách tiếp tục tạo áp lực vào các thành phố.
- Nghĩa là mở một chiến dịch khác như Tết Mậu thân?
- Không đánh như Tết Mậu thân nữa đâu, hết yếu tố bất ngờ rồi. Từ nay trở đi, chắc chắn sẽ không có thỏa thuận ngầm về hưu chiến trong mấy ngày Tết nữa. Có lẽ nay mai chính phủ sẽ ban hành lệnh cấm đốt pháo trong ngày Tết.
- Thế thì anh nói Việt cộng tạo áp lực vào các thành phố bằng cách nào?
- Trước hết là lén đem hỏa tiễn 122 ly thụt vào các khu dân cư đông đúc. Rồi sau đó là gì nữa thì chưa biết. Chúng ta đang tích cực khai thác những tin tình báo để xác định ý đồ của Việt cộng hầu đánh tan những âm mưu đen tối của chúng, trước khi chúng thực hiện một cách bất ngờ như cách làm vào dịp Tết Mậu thân vừa rồi.
- Theo anh thì trong những ngày sắp tới Việt cộng sẽ hoạt động thế nào?
- Việt cộng đã chịu quá nhiều tổn thất trong Tết Mậu thân vừa qua nên chúng phải gấp rút bổ sung lực lượng bằng cách tăng cường sự xâm nhập người và vũ khí từ miền Bắc vào. Hoạt động trên đường mòn Hồ chí Minh đã rộn rịp nay lại càng rộn rịp hơn nữa. Trong miền Nam, chúng sẽ ra sức bắt lính ở những vùng mà chúng kiểm soát. Đó là những vùng thưa dân cư nên chúng sẽ bắt cả trẻ em cầm súng. Ở thành thị thì chúng dụ dỗ thanh niên ra chiến khu, nhưng có lẽ không thành công vì nhiều tổ chức nằm vùng đã bị lộ mặt khi lính Việt cộng vào các thành phố trong dịp Tết vừa qua.
- Còn phía chúng ta?
- Chính phủ đã ban hành lệnh tổng động viên rồi nhưng cũng phải duy trì các sinh hoạt dân sự. Chúng ta không thể áp dụng phương châm “tất cả cho tiền tuyến” như Việt cộng được. Bản chất của chế độ của chúng ta là nhân đạo nên chúng ta không thể hi sinh mọi quyền lợi dân sự cho hoạt động quân sự được. Tôi nghe nói bộ giáo dục đang vận động với văn phòng tổng thống và với bộ quốc phòng trả các sĩ quan gốc giáo chức trở về dạy học lại. Các trường đang thiếu thầy một cách trầm trọng. Chúng ta không thể để con em mình thất học được. Chúng ta khác với cộng sản chỗ đó.
Thùy Liên tự nãy giờ ngồi nghe bỗng lên tiếng:
- Anh Tân, thôi về đi, mẹ đang đợi cơm ở nhà đó.
Tân đứng dậy từ giã rồi cùng vợ trở về nhà.
Hôm sau là chúa nhật, Thùy Liên được nghỉ. Hai vợ chồng đi dạo phố cả buổi sáng. Phố xá Sài gòn nhộn nhịp, người mua bán kẻ dạo chơi vui vẻ, thảm cảnh của tết Mậu thân không còn lưu lại ảnh hưởng nào. Sau bữa cơm trưa, Tân từ giã gia đình, Thùy Liên rưng rưng nước mắt tiễn chồng ra tận đầu ngõ hẻm.
Tân về đến Long khánh khi nắng vẫn còn chói chang.


*
* *


Cuộc sống lại kéo dài một cách buồn chán. Tin tình báo của các nhóm biệt kích cho hay một số binh lính Việt cộng xuất hiện trong các vườn cao su bạt ngàn. Bộ tư lệnh sư đoàn ra nhật lệnh nhắc nhở toàn thể quân nhân phải canh gác cẩn thận, sửa lại các hố phòng thủ, đào thêm giao thông hào, tăng cường trực gác và tuần tiểu. Râm ran trong quân đội và trong dân chúng, người ta đồn đãi rằng Việt cộng đang chuẩn bị tấn công đợt hai. Tin đồn nầy làm cho nhiều người lo lắng.
Một hôm, vào giữa khuya, có tiếng súng nổ ran ở một địa điểm nào đó thuộc ngoại ô thành phố. Trong bộ tư lệnh, kẻng báo động vang lên. Tân thức dậy, ngồi trên miệng hầm trú ẩn, nghe bên ngoài tiếng bước chân rầm rập của lính ra tuyến phòng thủ. Trung úy Quá vẫn nằm trong mùng nói vọng ra:
- Anh Tân vào giường ngủ tiếp đi. Chúng đánh chỗ khác chứ chưa đánh chỗ mình thì cứ ngủ, bên ngoài có lính canh gác rồi. Đừng lo, tuyến phòng thủ của sư đoàn vững chắc lắm; chui vào đứa nào là chết đứa đó.
Trung úy Quá là sĩ quan của khối tiếp vận. Anh ta có vẻ gan dạ, bất cần đời, gần bốn mươi tuổi mà vẫn còn độc thân. Anh làm việc ở đây nhiều năm rồi.
Tân trả lời:
- Được, không sao, tôi ngồi ngoài nầy cho đúng với qui định của bộ tư lệnh. Vả lại, súng nổ thế này, có nằm trên giường cũng không ngủ được. Anh ở đây lâu quen với địa phương, thử đoán xem chúng tấn công vào đâu, có phải tiểu khu không?
- Hướng súng nổ không phải là tiểu khu, có lẽ ở một đồn địa phương quân nào đó. Kìa, anh nghe không, có tiếng nổ của đại bác 105 ly.
Trung úy Quá im lặng một chút rồi nói tiếp:
- Kỳ quá, y như tiếng đại bác trực xạ.
Tân ngạc nhiên:
- Đại bác bắn thẳng à?
- Đúng rồi, tiếng súng bắn đi và tiếng đạn nổ rất gần nhau, hai tiếng nổ liền nhau từng phát một. Thế là chúng nó đánh vào căn cứ pháo binh rồi.
- Pháo binh của sư đoàn?
Trung úy chui ra khỏi mùng, đưa tay chỉ về một hướng:
- Không, tiểu đoàn pháo binh của sư đoàn ở về hướng nầy và gần đây lắm. Đây có lẽ là căn cứ pháo binh trực thuộc vùng Ba Chiến thuật, ở cách chúng hơn ba cây số. Kìa, phi cơ lên. Tiếng trực thăng vũ trang. Đó “rẹt ùm, rẹt ùm”. Máy bay bắn hỏa tiễn xuống đó. Thứ nầy mà lâm trận thì Việt cộng tan xác. Chúng mình ra sân xem.
Hai người bước ra cửa, nhìn thấy ánh hỏa châu sáng rực một góc trời. Hỏa châu từ một phi cơ vận tải bay trên cao thả xuống. Dưới thấp thì hai trực thăng bay rề rề theo vòng tròn, ẩn hiện mờ mờ ảo ảo trong ánh sáng khi lu khi tỏ của hỏa châu. Đạn đại liên loại bắn nhanh từ phi cơ rót xuống từng hồi dài. Thỉnh thoảng, có tiếng hỏa tiễn xé gió, tiếp theo là tiếng nổ vang rền.
Trung úy Quá lắc đầu:
- Da thịt con người làm sao chịu nổi hỏa lực của những con quỉ biết bay nầy.
Tiếng súng nổ dồn dập khoảng hơn một giờ đồng hồ rồi giảm dần. Không còn tiếng đại bác trực xạ nữa, mấy chiếc phi cơ cũng biến mất trong bóng đêm. Súng trường dưới đất còn tiếp tục nổ rời rạc. Thỉnh thoảng, một trái hỏa châu được bắn lên cao, sáng rực, chậm chậm rơi xuống rồi tắt ngấm.
Trung úy Quá và Tân trở vào nhà, leo lên giường. Không bao lâu, trung úy Quá ngáy đều đều còn Tân thì nằm thao thức cho đến khi gà gáy sáng.
Bình minh đến với những tia sáng đầu tiên làm cho đám mây ở phương Đông hồng lên rực rỡ.
Trung úy Quá bước xuống giường và vội vàng ra khỏi phòng. Độ nửa giờ sau, anh trở lại gọi to:
- Tân ơi Tân, đi xem không?
- Xem gì?
- Xem xác Việt cộng, nhiều lắm, nhiều lắm. Tôi mới đi hỏi thăm tin tức trên trung tâm hành quân. Đúng như mình đoán khi hôm, Việt cộng về đánh căn cứ pháo binh trực thuộc quân đoàn. Đi xem đi. Có một chiếc xe Dodge của phòng Ba sắp chạy đến đó, mình xin đi nhờ, nhanh lên.
Tân phóng xuống giường, mặc vội áo quần rồi theo trung úy Quá. Hai người bước lên thì xe khởi hành. Thành phố vừa thức dậy với cái vẻ thản nhiên thường ngày của công chúng. Dân ở cái thành phố bé nhỏ nầy, sát nách với mật khu Việt cộng, đã quá quen với chiến tranh; tiếng súng nổ, tiếng bom rền không làm cho họ nao núng nữa. Rất nhiều người tuôn ra đường, rủ nhau đi xem nơi vừa xảy ra trận đánh tại vùng ngoại ô thành phố.
Xe tiến gần đến khu vực căn cứ pháo binh phải nhấn còi inh ỏi thì mới lách qua được đám đông người hiếu kỳ đổ về trân địa đêm rồi.
Căn cứ pháo binh nằm kế cận một nghĩa trang, chỉ cách bằng một khoảng đất trống độ một trăm mét. Trên khoảng đất đó, có la liệt những xác chết, cái nằm ngửa, cái nằm sấp, cái nằm thẳng, cái nằm co quắp, máu đọng thành từng vũng đen sì. Khiếp đảm hơn nữa, trên hàng rào kẽm gai, vắt vẻo mấy xác chết, hai tay buông thỏng, cây súng AK nằm dưới đất, nòng súng ghếch lên khỏi đám cỏ rậm rạp. Trong nghĩa trang, cảnh tượng càng ghê rợn hơn. Xác chết nằm đầy trong các khoảng trống giữa các ngôi mộ. Ở đầu nghĩa địa, có một cái huyệt trống mà gia đình nào đó, có lẽ hôm nay sẽ đặt quan tài của người thân xuống đó; đất mới chung quanh bị đạn cày nát, trong huyệt có ba hay bốn xác chết nằm chen chúc nhau. Tựa vào tấm bia ở đầu một ngôi mộ, một đứa bé ngồi bất động, cây súng AK gác lên hai đùi, hai tay vòng trên cây súng, bợ lấy cả một đống ruột thoát ra từ cái bụng bị xé rách toang; đầu của nó cúi xuống, mắt mở trừng trừng. Có lẽ cậu ta đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ruột mình đổ ra và tắt thở trong nỗi ngạc nhiên đó.
Mùi máu, mùi tử khí xông lên nồng nực. Những người hiếu kỳ phải đứng xa xa, lấy khăn hoặc vạt áo che kín mũi và miệng, mắt láo liêng trong một nỗi kinh hoàng tột độ.
Cùng với nhiều sĩ quan và binh sĩ khác, trung úy Quá nắm tay Tân lôi đến gần hơn. Bấy giờ, Tân mới nhìn rõ mặt các xác chết. Tất cả còn rất nhỏ, ít có xác nào tuổi quá mười tám. Nhiều xác có nét mặt rất hồn nhiên, hai mắt nhắm nghiền như đang thản nhiên trong một giấc ngủ ngây thơ và vĩnh viễn. Tân cảm thấy, trong nỗi sợ hãi cùng cực, lòng cậu quặn thắt vì đau đớn và phẫn nộ.
Một đại úy có mang phù hiệu pháo binh nói với trung úy Quá:
- Anh xem nầy, miếng đất trống thế nầy mà bọn con nít cứ xổng lưng ôm súng chạy vào. Lính trong lô cốt và trong giao thông hào cứ nhắm mắt mà ria đạn cũng trúng. Đứa trước ngã xuống thì đứa sau đạp trên xác mà lao tới. Đêm tối, dưới ánh sáng hỏa châu lập lòe, thấy những đứa trẻ phóng tới, mình không tin rằng đó là những con người bằng xương bằng thịt được, và cũng không thể tin rằng đó là cảnh có thực trên trần thế, mà cứ ngỡ như chuyện xảy ra trong một phim giả tưởng.
Trung úy Quá chỉ những cái xác vắt vẻo trên hàng rào kẽm gai, hỏi:
- Còn những đứa nầy sao leo được lên cao vậy?
- Đó là những đứa vào trước tiên. Khi những cái lon báo động ở hàng rào rung leng keng thì lính gác rọi đèn trông thấy và nổ súng.
- Hình như có tiếng đại bác trực xạ phải không?
- Có, một cây 105 ly đặt trên mô cao không bị các dãy nhà che khuất đã bắn thẳng nhiều phát ra nghĩa địa.
- Có lẽ vô số xác chết ngoài đó là do đại bác trực xạ?
- Không phải do đạn đại bác đâu mà do đại liên và hỏa tiễn của phi cơ trực thăng. Tụi nó núp giữa các ngôi mả thì tránh được đạn bắn ngang từ trong đồn ra chứ làm sao tránh được đạn và hỏa tiễn từ trên phi cơ rót cuống. Tôi không thể nào hình dung được sự dốt nát và tàn nhẫn của cái bọn chỉ huy cộng sản. Mấy đứa con nít nầy bị chết oan nầy vì bọn đó.
Anh tiếp tục nói với giọng trầm xuống, ngậm ngùi:
- Đêm rồi, thấy tụi nó chạy vào, mình cứ mãi mê bóp cò, giết chết bọn tấn công để bảo vệ căn cứ và mạng sống của mình. Sáng ra, thấy toàn con nít nằm chết, mình thấy ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Đây quả là một chiến thắng tuyệt đối của đơn vị mình, giết được cả trăm địch quân, thu được mấy chục cây súng và lính mình thì hoàn toàn bình yên vô sự. Chiến thắng như thế mà mình chẳng thấy vẻ vang chút nào, trái lại mình còn cảm thấy một nỗi đau đớn không thể nào tả được. Có lẽ sau nầy chết xuống âm phủ, mình sẽ phải trả lời với diêm vương về cái tội giết chết cả trăm đứa con nít đáng thương nầy.
Đại úy chỉ vào bên dưới hàng rào phòng thủ:
- Anh có nhìn thấy cái miệng cống đó không? Cái cống thoát nước mưa trong đồn ra. Lính vừa lôi được hai đứa con nít chui vào trong đó.
- Chết mà còn chui được vào trong cống à?
- Không, còn sống nhăn, không bị chút thương tích nào cả. Hai đứa đó hoảng quá vứt súng chui tọt vào đó nên còn sống. Anh xem, cái lỗ như vậy mà hai đứa chui vào lọt. Đó, chiến sĩ cách mạng vĩ đại như thế đó.
Tân cảm thấy nôn nao khó chịu. Cậu quay lui, chậm rãi tránh xa nơi tử địa, leo lên xe và ngồi gục mặt vào hai gối. Một lát sau, xe nổ máy đưa mọi quân nhân của bộ tư lệnh sư đoàn về căn cứ của mình. Tân xuống xe đi thẳng về phòng làm việc của khối chiến tranh chính trị. Giờ nầy, cậu muốn ngồi một mình, không muốn gặp ai khác vì cậu biết mọi người đang bàn tán xôn xao về trận đánh đêm rồi ở căn cứ pháo binh, về hàng trăm xác chết đa số là trẻ em còn phơi nắng sáng bên ngoài đồn.
Cậu cố xua đuổi ra khỏi trí óc cảnh ghê rợn vừa mới chứng kiến. Cậu lấy giấy ra và gắng tập trung ý nghĩ để viết một bài tham luận về công ước Genève trong chiến tranh Việt Nam mà thiếu tá tham mưu phó sẽ đọc trong hội nghị chiến tranh chính trị cấp trung ương. Cậu cúi xuống, ngòi bút lướt nhanh trên trang giấy. Cậu sửng sốt đọc lại giòng chữ vừa mới viết xong: “Công ước Genève về vấn đề sử dụng trẻ em trên chiến trường”. Cậu quăng bút xuống bàn, đọc lại giòng chữ một lần nữa và hoảng hốt khi thấy giòng chữ như nhảy múa một cách ma quái trên những xác chết lòi ruột lòi gan, đầu vỡ toang, óc vắng tung tóe, bên ngoài căn cứ pháo binh của Vùng Ba chiến thuật.


*
* *




Cảnh hãi hùng tiếp tục ám ảnh Tân nhiều đêm liên tiếp. Cậu muốn đi khỏi thành phố đất đỏ nầy một vài hôm. Cậu nhẩm tính, chưa đầy một tháng nữa, Thùy Liên sẽ sanh con. Trong lá thư sau cùng mà nàng gởi cho cậu, nàng nói vừa mới gởi đơn xin nghỉ hộ sản để chuẩn bị cho đứa bé chào đời. Cậu phải về với vợ ít nhất là ba ngày để giúp Thùy Liên thu xếp công việc. Đi lâu như thế thì nhất định phải nói cho thiếu tá Bảo biết rồi sau đó dù ông có cho phép hay không thì cậu cũng lên đường.
Cậu vào gặp thiếu tá, trình bày ý định và không quên nói đến đứa con đầu lòng sắp ra đời của mình. Thiếu tá nhìn cậu một chút rồi nói với giọng ôn tồn:
- Anh sắp có con đầu lòng à? Thế thì anh hãy về thu xếp công việc đi. Tôi đồng ý cho anh vắng mặt tối đa là bốn ngày nhưng không thể cấp giấy phép được vì lệnh cấm trại một trăm phần trăm vẫn còn hiệu lực. Khi đi, anh cũng nên cẩn thận, tình hình đang căng thẳng. Rán tránh đừng để cho bên nay cũng như bên kia bắt được. Việt cộng bắt thì tàn cuộc đời, còn quân cảnh bắt thì cũng phiền phức lắm đó. Nhớ thu xếp công việc cho nhanh và về cho sớm. Nếu anh đi quá lâu và xảy ra việc gì không tốt thì tôi khó che chở cho anh được.
- Vâng, thưa thiếu tá, tôi sẽ cố sức cẩn thận và vắng mặt tối đa bốn ngày mà thôi.
- Được rồi, chúc anh đi đường may mắn. Cho tôi gởi lời thăm bà xã nhé.
- Dạ, cám ơn thiếu tá.
Tân về phòng thay thường phục rồi ra bến xe đò. Chiếc xe chạy chậm, lại dừng nhiều nơi nên đến xế chiều cậu mới về tới Sài gòn. Cậu bước vào nhà, Thùy Liên và mẹ đang ngồi ở phòng trước. Cả hai mẹ con hết sức mừng rỡ. Thùy Liên trông khỏe mạnh nhưng đi đứng chậm chạp vì cơ thể nặng nề.
Nàng cầm tay cậu áp vào mặt mình:
- Anh Tân, sao anh được về? Anh về trong bao lâu?
Tân vuốt tóc vợ:
- Anh xin phép thiếu tá về thăm em trong ba hoặc bốn ngày. Em được nghỉ rồi phải không?
- Dạ, em nghỉ được ba hôm rồi ở nhà lo may tả và áo quần cho em bé. Em định đem ra ngoài tiệm thuê người ta may, nhưng má không cho. Má bảo thuê thì chắc chắn sẽ may bằng máy, đường chỉ cứng lắm. Mình may tay, đường chỉ mềm hơn, em bé mặc được êm ái. Thế là hai mẹ con, ngày nào cũng cặm cụi ngồi may.
Mẹ Thùy Liên nói:
- Tân, con đi rửa mặt rồi nói chuyện. Con ăn gì chưa?
- Con ăn bánh trên xe rồi. Má có khỏe không?
- Ừ, má khỏe.
Tân xuống bếp, Thùy Liên theo sau. Cậu rửa mặt xong, bước đến ôm hôn vào môi nàng. Xong, cậu hỏi:
- Em tính kỹ chừng nào sanh?
- Bác sĩ bảo không thể nào tính cho chính xác được. Em đoán sẽ sanh trong vòng từ hai mươi đến hai mươi lăm ngày nữa.
Cậu nhìn nàng với cặp mắt lo lắng:
- Lúc đó một mình má, làm sao săn sóc em cho chu đáo được?
Thùy Liên nhìn chồng, cười chúm chím:
- Mấy hôm trước em cũng đang lo chuyện đó thì được thư chị Hai gởi lên bảo rằng chị đã thu xếp xong việc nhà để lên phụ với má lo cho em và cho con chúng mình. Chị dặn hễ bắt đầu cảm thấy chuyển bụng là nhờ người đánh điện tín về, chị Hai lên ngay lập tức.
Tân tỏ vẻ mừng rỡ:
- Vậy thì tốt lắm. Anh đang lo lắng nhưng nghe em nói có chị Hai sẽ lên thì anh mừng và yên tâm.
Thùy Liên tiếp lời một cách phấn khởi:
- Nhưng chưa hết.
- Còn gì nữa?
- Chị Bạch Mai cũng bảo khi nào em sinh, chị ấy sẽ đóng cửa nghỉ bán nửa tháng để nuôi em.
- Trời đất! Làm vậy sao được?
- Em không chịu và nói rằng thỉnh thoảng chị sang thăm em, chỉ dạy thêm cho em cách nuôi con và tự săn sóc mình là quí lắm rồi. Nhưng cũng chưa hết.
- Lại còn gì nữa?
- Bà Sáu Rô cũng nói, khi em sinh, nếu cần thì bà sẽ sang đây phụ giúp má. Rồi nhiều bà, nhiều chị trong xóm đến thăm em và dặn, nếu cần cứ gọi, họ sẵn sàng đến giúp đỡ. Anh Tân, ai cũng tỏ lòng thương em làm em cảm động và sung sướng lắm. Anh có biết tại sao ai cũng thương em không?
- Vì em dễ thương đối với mọi người.
Thùy Liên lắc đầu:
- Không phải lý do đó. Em đã nói với anh rồi, lý do chính yếu, em là vợ của anh, vợ của người lính đang phục vụ quân ngũ nơi xa nhà. Đó là điều an ủi cho em.
- Thế thì em đâu có cần anh gần gũi nữa.
Thùy Liên nũng nịu:
- Không, anh đừng nói như thế. Không có tình thương nào thay thế được tình thương của anh. Nếu ngày em sinh không có anh bên cạnh thì em sẽ tủi thân lắm. À nầy, anh Tân.
- Gì vậy em?
- Em nghe anh Thế bảo rằng, chính phủ đã chấp thuận đề nghị của bộ giáo dục cho các sĩ quan gốc giáo chức trở về trường. Ở đơn vị anh, người ta không nói gì về chuyện đó à?
Tân lắc đầu:
- Không, ở đó người ta chỉ bàn chuyện đánh nhau với Việt cộng thôi.
- Vậy thì chốc nữa anh sang hỏi anh Thế việc nầy đi.
- Ừ, ăn cơm xong, chúng mình cùng đi thăm anh chị Thế.
Sau bữa ăn tối, Thùy Liên sung sướng khoác tay chồng qua nhà Bạch Mai. Bên đó cũng vừa dùng bữa xong, trên bàn còn ngổn ngang chén bát. Bạch Mai vui mừng chào hỏi và vội vàng thu dọn. Nàng bưng bình nước trà nóng ra để trên bàn. Mọi người tíu tít hỏi thăm sức khỏe và công việc của nhau. Sau cùng, Thế hỏi Tân câu mà Thùy Liên vừa nói ở nhà:
- Ở bộ tư lệnh của anh, người ta chưa nhận được công văn của thủ tướng về việc biệt phái sĩ quan gốc giáo chức về huấn luyện quân sự học đường à?
- Tôi không biết gì cả. Anh vừa nói biệt phái sĩ quan về làm gì?
- Huấn luyện quân sự học đường, nghĩa là dạy cho tất cả sinh viên học sinh làm lính.
- Đưa tất cả sinh viên học sinh vào quân trường à? Chỗ nào chứa cho đủ?
- Không đưa vào quân trường mà huấn luyện tại chỗ, ngay trong các trường mà các em đang học.
- Thế thì làm sao trở thành chiến sĩ được?
Thế cuời:
- Chiến sĩ gì mà chiến sĩ. Đổ mồ hôi, sôi nước mắt nhiều tháng trong quân trường thì mới có thể thành chiến sĩ được. Bày cái trò huấn luyện quân sự học đường nầy để có cớ đưa các thầy giáo trở về trường để dạy học cho sinh viên và học sinh mà thôi.
- Tại sao lại phải tìm cớ như vậy? Chính phủ chỉ cần ra chỉ thị là xong.
- Đâu có được. Làm như thế là vi phạm sắc luật tổng động viên do quốc hội biểu quyết.
- Thế thì tại sao lại ban hành luật tổng động viên rồi lại tìm cách trả sĩ quan về với dân sự?
- Tổng động viên ở đây không cốt đưa tất cả thanh niên ra tiền tuyến mà đúng hơn là một biện pháp đối phó.
Tân vỗ hai tay vào nhau:
- À, tôi nhớ ra rồi. Chúng ta cần đối phó với phong trào phản chiến bên Mỹ, anh có giải thích một lần rồi.
- Đúng vậy, bọn phản chiến nầy muốn miền Nam phải ngưng cuộc chiến đấu tự vệ để mặc cho miền Bắc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược. Sắc lệnh tổng động viên là một cái tát vào mặt bọn phản chiến đó, cho chúng thấy rằng sự rêu rao ngu xuẩn của chúng không làm nhụt ý chí bảo vệ miền Nam của chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Phải công nhận sự tuyên truyền của cộng sản có khả năng đổi trắng thay đen trong dư luận thế giới.
- Bây giờ tôi hiểu rồi. Chúng ta vừa chiến đấu vừa đối phó với sự tuyên truyền của cộng sản.
- Rồi còn phải duy trì mức sống văn minh của xã hội, trong đó giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Do đó, trước mọi cơ quan dân sự khác, ngành giáo dục được ưu tiên nhận lại các thầy giáo từ quân ngũ trở về. Các thầy đã trở về nhiều đợt và đang dạy cho sinh viên học sinh vài động tác quân sự cơ bản để chờ ngày trở lại với các lớp học. Tại sao sư đoàn anh không biết chuyện đó? Hay là họ nhận được văn thư rồi không phổ biến vì muốn giữ anh lại làm việc với họ. Tôi đề nghị hôm nào trở về, anh hỏi thẳng đơn vị trưởng của anh xem sao.
- Tôi không hỏi đâu. Sau khi tái ngũ, tôi đã tránh né chiến trường để về bộ tư lệnh sư đoàn là nơi an toàn, không nguy hiểm, nay lại có ý xin ra khỏi quân ngũ nữa thì tôi không thể làm được. Nếu quân đội gọi tôi lên bảo tôi về với giáo dục thì tôi tuân lệnh, còn nếu không nói gì cả thì tôi vẫn ở lại với quân đội.
Thiếu tá Thế nhìn thẳng vào mặt Tân:
- Anh Tân, anh là người khí khái, tôi rất khâm phục tư cách làm người của anh. Nhưng tôi cũng xin lưu ý anh rằng hiện giờ cô Thùy Liên rất cần sự gần gũi của anh trong lần sinh nở đầu tiên. Theo tôi, đó là nguyện vọng vô cùng chính đáng của một người sắp trở thành người mẹ.
Tân buồn rầu cúi đầu im lặng.


*
* *


Vì cơ thể của Thùy Liên đã quá nặng nề nên hai ngày hôm sau, Tân không dẫn nàng đi dạo phố. Suốt ngày cậu chỉ quanh quẩn ở nhà, ngồi bên vợ trong khi nàng cắm cúi may những chiếc quần áo xinh xinh cho em bé. Nàng đề nghị Tân đặt tên cho con. Cậu không suy nghĩ, nói ngay:
- Anh đã suy nghĩ mấy tháng rồi. Nếu là con trai thì mình sẽ đặt tên là Phạm văn Hòa Bình. Hoà bình, đó là ước mơ và niềm hi vọng lớn nhất của anh.
Thùy Liên quay sang nắm tay chồng:
- Anh Tân, em hiểu anh. Anh là một chiến sĩ dũng cảm nhưng lại có lòng yêu chuộng hòa bình vô cùng tha thiết. Còn nếu con mình là gái thì đặt tên gì?
- Anh mong nó sẽ giống em như đúc. Anh đặt tên con là Phạm thị Thùy Dung.
- Tên đẹp lắm. Em phải ghi vào giấy, sợ lúc sinh xong, mất bình tĩnh thì quên mất. Phải chi có mặt anh lúc đó để nhìn con ra chào đời và khai sinh cho con thì hay biết mấy.
Tân vuốt tóc vợ:
- Vì ý muốn của em, anh sẽ tìm cách xin biệt phái về dạy học.
Giọng nàng nhỏ nhẹ:
- Anh Tân, điều đó có làm anh buồn lắm không? Em rất muốn có anh bên cạnh nhưng anh ngại xin về thì thôi. Ở nhà có mẹ, chị Hai và nhiều người khác rồi.
Tân chưa kịp trả lời thì Bạch Mai từ ngoài cửa bước nhanh vào gần như chạy. Nàng nói to:
- Anh Tân ơi, anh Thế mới nhắn tin về. Việt cộng đang tập trung nhiều nơi gần các thành phố. Hiện chúng đã cắt đứt nhiều tuyến đường giao thông bằng cách đắp mô, gài mìn và chận xe đò, lùa hành khách vào rừng. Có lẽ nội trong đêm nay, chúng sẽ tấn công mạnh vài nơi. Tỉnh lỵ Long khánh có thể là một địa điểm mà chúng nó chọn lựa. Anh Thế bảo anh hãy tìm cách trở về đơn vị ngay.
Tân hỏi:
- Anh Thế có ở nhà không?
- Không, anh ấy đang ở trong tổng tham mưu và đang làm việc căng thẳng lắm, không về nhà được.
- Bạch Mai thấy trên đường phố thế nào?
- Vẫn bình thường. Chưa ai biết gì cả. Chỉ có người trong tổng tham mưu biết mà thôi. Bây giờ anh tính thế nào?
- Tôi phải về Long khánh ngay bây giờ, không thể trì hoãn được.
Thùy Liên gần như khóc:
- Trời ơi, anh Tân! Đứt đường rồi làm sao anh đi được?
Tân cầm tay vợ để trấn an nàng:
- Em đừng lo. Anh sẽ tìm cách tới đơn vị một cách an toàn. Chắc chắn, hơn nửa đoạn đường, nghĩa là từ đây lên Trảng bom thì Việt cộng không thể chận được. Đến đó, nếu không thể đi tiếp được thì anh sẽ trở về và lúc đó chịu sự thi hành kỷ luật của quân đội.
Bạch Mai nói nhanh:
- Thôi anh Tân lên đường nhé. Chúc anh đi bình an. Em phải về ngay để trông nhà. Thùy Liên đừng quá lo lắng. Tí nữa ba chị ngủ dậy, chị sẽ nhờ trông hàng và qua đây chơi với em.
Thùy Liên nói trong nước mắt:
- Cám ơn chị.
Bạch Mai vừa ra khỏi nhà, Thùy Liên cầm tay Tân mếu máo:
- Anh Tân, hay là anh cứ ở nhà rồi mình sẽ chịu kỷ luật. Anh đi, em lo lắm. Nếu anh bị rủi ro thì em cũng chết mất.
Tân cố nén xúc động. Cậu rán tươi cười để giảm bớt lo lắng cho Thùy Liên:
- Em đừng lo, số anh lớn lắm, không dễ gì rơi vào tay cộng quân được. Đường từ đây lên Long khánh cũng không xa xôi gì lắm. Anh phải đi ngay. Có lẽ giờ nầy quân nhân thuộc các phòng ban của bộ tư lệnh đang túc trực đầy đủ. Sự vắng mặt của anh có thể liên lụy đến thiếu tá Bảo vì ông đã cho phép anh về. Anh không muốn xảy ra điều nầy.
Tân thay áo quần xong, giấu kỹ thẻ sĩ quan trong giày. Xong, cậu hôn vợ, từ giã mẹ vợ và vội vã lên đường.
Bến xe đò đi các tỉnh miền Đông rộn rịp khác thường. Người rất đông đúc vì tất cả các chuyến xe đều ngưng chạy. Hành khách nhốn nháo, bàn tán với vẻ mặt đầy lo lắng. Cuối cùng, Tân cùng với một số người khác thuê một chiếc xe Lam để về Long khánh.
Xe chở đầy người phóng ra xa lộ, băng qua Biên hòa, đến Trảng bom thì buộc phải ngừng lại. Nơi đó có nhiều xe đậu trên một khoảng đường khá dài. Người tài xế tắt máy xe, bước xuống đi đâu một lúc rồi trở lại, chán nản lắc đầu:
- Ở Bàu cá, cách đây mười cây số, Việt cộng chặt cây kéo ra chận đường rồi núp hai bên rừng rậm, thỉnh thoảng bắn ra. Không thể nào đi được. Phải đợi hành quân giải tỏa, không biết bao giờ mới thông đường được. Bây giờ phải trở lại Sài gòn.
Một người đàn bà la lên, giọng hốt hoảng:
- Trời ơi, làm sao bây giờ, tôi không có nhà quen ở Sài gòn. Tôi phải về Long khánh nội trong ngày. Có đường nào khác đi không?
Bác tài trả lời:
- Có thể đi lánh vào các đường đất trong vườn cao su, nhưng chỉ xe hai bánh đi được thôi vì đường xấu lắm. Thôi, tôi trở về Sài gòn. Ai muốn theo tôi thì ngồi yên trên xe, tôi không lấy tiền trở về đâu.
Có hai người bước xuống. Tân cũng xuống theo dù cậu chẳng biết xuống để làm gì. Cậu trông thấy hai chiếc xe gắn máy nối đuôi nhau chạy vào vườn cao su. Một người nói với cậu:
- Họ đi vào đó để tránh chỗ Việt cộng phục kích trên đường lộ.
Tân bước tới mươi bước nhìn con đường đất đỏ sâu hun hút giữa hai hàng cao su xanh um, lòng bồn chồn lo lắng. Giờ nầy có lẽ người ta đang điểm danh tất cả quân nhân thuộc bộ tư lệnh sư đoàn.
- Anh muốn về Long khánh phải không?
Tiếng nói làm Tân giật mình. Cậu quay lại thấy một người đàn bà trẻ và khá xinh đứng sau lưng mình không biết tự lúc nào. Tân gật đầu:
- Tôi cần về Long khánh ngay chiều nay nhưng không biết làm cách nào đi được.
- Tôi cũng phải về Long khánh ngay. Con tôi còn bú mẹ chưa ăn uống gì được.
- Có xe gắn máy thì có thể đi được, nhưng làm sao có xe ở đây?
Người đàn bà vội trả lời:
- Tôi có xe gắn máy. Sáng nay, tôi có việc cần thiết nên đi từ Long khánh đến Biên hòa rất sớm, lúc Việt cộng chưa chận đường. Xong việc rồi trở về đây mới biết bị đứt đường.
- Có xe gắn máy sao chị không đi vòng vào vườn cao su để tránh chỗ phục kích như hai chiếc xe vừa chạy đó?
- Tôi không dám đi một mình. Nếu anh đồng ý thì tôi cùng đi với anh. Anh có biết lái xe không?
- Biết chứ. Xe chị để ở đâu?
- Đằng kia kìa. Anh đồng ý chở tôi đi nhé.
Tân mỉm cười:
- Ở đây có nhiều người muốn đi, tại sao chị lại đề nghị tôi?
Người đàn bà đáp với giọng thành thực:
- Tôi trông tướng anh có thể tin cậy được.
- Nhưng tôi không biết đường, có thể đi lạc vào mật khu của mấy ông cách mạng mất.
- Không sao, tôi đã hỏi thăm kỹ rồi. Cứ theo con đường đất rộng nhất mà chạy, khoảng chừng hai mươi cây số là ra đường nhựa ở Hưng lộc. Từ đó có thể thẳng về Long khánh dễ dàng. Nếu cần thì hỏi thăm dân vì trên đường đất, rải rác có nhà dân ở.
Chị đàn bà nhìn Tân có vẻ e thẹn:
- Nầy, có điều nầy tôi nói anh đừng cười tôi nhé. Nếu gặp dân hay gặp mấy ông Việt cộng thì anh bảo rằng tôi với anh là vợ chồng làm rẫy ở Long khánh, chưa tới mùa thu hoạch nên phải về Biên hòa thăm bà con và mua gạo lên để ăn. Cái bao nầy là bao gạo đó.
- Được rồi, tôi là chồng của chị, chị là vợ của tôi. Đi về nhà chúng mình cho nhanh lên.
Chị đàn bà cười lỏn lẻn:
- Đi thì đi nhưng nhớ làm vợ chồng giả bộ thôi đó nghen. Tôi có chồng con đàng hoàng rồi đó.
Tân nín cười đi theo người đàn bà. Cậu leo lên xe Honda, chờ người đàn bà ngồi lên phía sau xong thì đạp nổ máy. Cậu quay lui nói:
- Tôi sẽ chạy nhanh, chị vịn vào tôi cho chặt. Đừng ngại gì cả, tôi không làm gì chị đâu.
Người đàn bà cười hì hì:
- Được rồi, anh cứ chạy đi.
Tân sang số rồi phóng xe trên con đường đất gồ ghề. Càng đi sâu, khung cảnh càng vắng vẻ đến rợn người. Tân nghiến răng siết tay ga, chiếc xe lao tới, nhảy chồm trên đường mấp mô. Chị đàn bà ngồi sau phải ôm chặt lấy cậu.
Xe tiếp tục lướt tới, hết vườn cao su đến rừng chồi, hết rừng chồi đến nương rẫy xác xơ trong mùa nắng hạn. Từ xa, có một xe gắn máy chạy ngược chiều trở lại. Tân cho xe chạy chậm và đưa tay làm hiệu. Hai xe dừng lại. Tân hỏi dồn:
- Đường đi thế nào?
- Tốt, êm thắm, ít nhất là lúc nầy. Còn đường anh chị vừa đi qua thì thế nào?
- Cũng tốt. Thôi, lên đường.
Chiếc xe lại rú máy và lao thẳng về phía trước. Không bao lâu, xe ra khỏi đường đất và bắt đầu lăn bánh trên đường nhựa. Tân quay mặt lui sau, nói to:
- Vợ chồng mình thoát nạn rồi!
Người đàn bà cười khúc khích:
- Chưa thoát nạn thì còn là vợ chồng. Thoát nạn rồi thì hết vợ chồng, nghe chưa?
Tân cười to, nhìn về phía trước siết mạnh tay ga. Đoạn đường nầy thường ngày có nhiều xe cộ qua lại, hôm nay cũng trở nên vắng vẻ. Qua một khúc quanh, thành phố Long khánh hiện ra trước mặt. Tân dừng xe lại, quay mặt lui, nói:
- Chúng ta thực sự thoát nạn rồi. Cám ơn chị. Bây giờ chị có thể về nhà một mình không còn sợ gì nữa.
Người đàn bà tiếp tục ngồi trên xe, hỏi:
- Nhà anh ở trong thành phố hay trong rẫy?
- Ngay trong thành phố nầy. Tôi có thể đi bộ đến đó.
- Thế thì anh cứ lái xe tiếp về nhà anh đi. Đến đó rồi anh trả xe cho tôi cũng được.
Tân im lặng sang số rồi rú máy cho xe lướt tới. Cậu dừng xe trước cổng bộ tư lệnh sư đoàn. Hai người cùng xuống. Tân trao xe cho người đàn bà và nói:
- Một lần nữa, cám ơn chị rất nhiều.
Người đàn bà nhìn cậu, mỉm cười:
- Anh ở trong nầy à?
Tân gật đầu. Chị hỏi tiếp:
- Anh là sĩ quan của sư đoàn phải không?
Tân ngạc nhiên:
- Sao chị biết tôi là sĩ quan?
- Nhìn nét mặt và thái độ của anh rồi thấy anh vào ở đây thì tôi đoán anh là sĩ quan.
Tân cười:
- Khi nãy ở Trảng bom, nếu chị biết tôi là sĩ quan thì chị có dám đi chung với tôi không?
- Dám chứ. Sĩ quan thì đàng hoàng đáng tin cậy hơn người khác nữa. Tôi biết rõ tư cách của sĩ quan mà.
- Chắc chị có người thân là sĩ quan nên biết rõ.
- Có, chồng tôi là sĩ quan ở tiểu khu Long khánh.
- À, thì ra thế! Anh ấy là đồng nghiệp của tôi. Chị cho tôi gởi lời thăm anh với nhé.
- Cám ơn anh.
Người đàn bà cười thật tươi rồi cho xe từ từ lăn bánh. Tân đứng nhìn theo cho đến khi chị ta khuất bóng. Cậu trở vào và đi nhanh về nơi làm việc của mình. Trung sĩ Ký là người đầu tiên trông thấy cậu. Anh ta reo lên:
- Trung úy Tân về rồi.
Cậu đến gần hỏi vội:
- Thiếu tá có trong phòng không?
- Có, thiếu tá đang ở trong phòng, từ sáng giờ cứ nhắc trung úy mãi. Trung úy vào đi.
Tân lấy làm lạ khi nghe anh trung sĩ gọi mình là trung úy. Tuy nhiên cậu chẳng có thì giờ để hỏi. Cậu bước vào phòng. Thiếu tá đang viết ngẩng lên:
- Tân về rồi à. Cậu đi cách nào đến đây?
Tân kể chuyện đi nhờ xe của vợ một sĩ quan tiểu khu và phải làm chồng hờ của chị ta trên đoạn đường nguy hiểm. Thiếu tá cười ngất:
- A ha, một bà vợ sắp đẻ rồi thêm một bà vợ đang nuôi con. Sao mà đắt hàng thế. Nầy, cậu vừa được thăng cấp trung úy. Sáng mai đến phòng Một để lấy bản sao nghị định. Sao, bà xã ở nhà có khỏe không? Bao giờ thì sinh con?
- Thưa thiếu tá, độ một tháng nữa.
- Cậu mồ côi từ nhỏ và hai vợ chồng không có bà con thân thuộc gì ở Sài gòn phải không?
- Dạ phải. Nhưng sao thiếu tá biết vậy?
Thiếu tá cười vui vẻ:
- Đơn vị trưởng phải biết hoàn cảnh gia đình của thuộc cấp chứ. Cậu ngồi xuống đây để nói chuyện.
Tân vâng lời ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn làm việc của thiếu tá. Ông hỏi:
- Tình hình ở Sài gòn hiện nay thế nào?
- Vẫn yên tĩnh, dân chúng chưa biết Việt cộng đang lăm le tấn công vào các thành phố.
- Nhưng sao cậu biết mà về đây đúng lúc vậy?
- Tôi có người quen làm việc ở tổng tham mưu.
- À, thì ra thế.
- Theo thiếu tá thì kỳ nầy Việt cộng có thể đánh mạnh như Tết Mậu thân không?
Thiếu tá lắc đầu:
- Có lẽ họ không đánh mạnh được vì chưa đủ thì giờ bổ sung quân số bị tiêu hao quá nhiều trong những trận chiến điên cuồng vừa qua. Nhưng họ cũng cố sức làm một cái gì đó để nhắn cho thế giới nhớ rằng họ đã từng xâm nhập được vào tất cả các thành phố của chúng ta. Cộng sản không hề biết thương tiếc mạng sống của con người kể cả binh lính của họ. Họ đã đẩy những thanh niên đáng thương của miền Bắc vào chỗ chết chỉ để gây tiếng vang về chính trị mà thôi.
- Nhưng họ có thực sự gây được tiếng vang hay không? Tết Mậu thân họ bị thiệt hại quá nhiều, phải rút sâu vào mật khu mà.
- Dân chúng trên thế giới, và cả Việt Nam nữa, mấy ai chứng kiến sự thất bại quân sự đó đâu. Mọi người đều nghe nói chiến thắng của họ vì họ tập trung tất cả các phương tiện truyền thông để bóp méo sự thực.
- Chắc gì người ta tin hẳn những điều họ tuyên truyền.
- Không tin hoàn toàn thì cũng tin một phần. Con người có khuynh hướng theo “chủ nghĩa bình quân”.
- Là gì, thưa thiếu tá?
- Khi nghe nói một điều gì đó không thể biết rõ thì người ta không tin hẳn cũng không bài bác hẳn mà thường tin vào phân nửa những điều nghe được. Thí dụ, trong Tết Mậu thân vừa rồi, Việt cộng nói đã chiếm được trọn vẹn 100% các thành phố miền Nam thì người ta cho rằng họ chiếm được 50% trong khi chỉ duy nhất một thành phố Huế rơi vào tay họ mà thôi. Thế đã là một thành công vĩ đại trong sự tuyên truyền của họ rồi. Họ bảo rằng trên mặt trận nào đó họ giết được 1000 lính địch và bị thiệt hại 50 binh sĩ mà thôi. người ta bèn cộng hai số đó lại rồi chia hai và cho rằng mỗi bên đều có 525 người chết. Lại là một thành công vĩ đại của sự tuyên truyền vì trên các mặt trận số tử vong của họ nhiều gấp bốn hay năm lần bên ta. Cứ như thế, họ đã bẻ cong dư luận, gây bất lợi rất lớn về chính trị cho chúng ta.
- Tại sao mình không dùng ngay phương pháp tuyên truyền của họ để chống lại họ?
Thiếu tá dựa ngửa ra sau ghế, lắc đầu:
- Chúng ta không làm được như thế vì hai lý do. Lý do thứ nhất là chúng ta không thể nói láo một cách trơ trẽn như họ được. Cái chất quân tử của văn hóa Á đông vẫn còn tồn tại trong lòng chúng ta.
- Còn lý do thứ hai, thưa thiếu tá?
- Quân đội của chúng ta chưa thấy được tầm quan trọng của mặt trận chính trị của cuộc chiến tranh nầy vì vậy các sĩ quan của mình không quan tâm đến tuyên truyền. Cậu là số ít sĩ quan tỏ ra hiểu biết những điều tôi vừa trình bày. Chúng ta không thể làm gì hơn được. Về tương lai của cậu….
Thiếu tá đột ngột ngưng nói. Tân ngồi im nhìn thiếu tá, chờ đợi ông nói tiếp cái điều mà cậu đoán rằng có liên quan đến số phận của cậu. Thiếu tá chợt ngồi thẳng dậy, chống hai cùi tay lên bàn:
- Tân nầy, cậu về Sài gòn có lẽ biết được bộ quốc phòng đã chấp thuận đề nghị của bộ giáo dục trả các sĩ quan gốc giáo chức về dạy học trò trở lại?
- Thưa thiếu tá, tôi có biết và nghĩ rằng sư đoàn mình chưa nhận được công văn đó.
- Nhận được rồi nhưng không phổ biến cho những người nào xét ra cần thiết cho sư đoàn.
- Trong đó có tôi?
Thiếu tá gật đầu cười:
- Đúng vậy, phòng chiến tranh chính trị đang cần cậu. Những bài tham luận của cậu về khía cạnh chính trị của cuộc chiến tranh tự vệ nầy đã được đọc tại một số hội nghị và được cử tọa chú ý. Tôi dự định cho cậu đi học một khóa chiến tranh chính trị để được chính thức sát nhập vào ngành nầy. Rồi ông tướng tư lệnh sư đoàn cũng bảo tôi đưa cậu lên làm sĩ quan tùy viên để viết công văn và diễn văn cho ông ấy. Ông tướng rất thích phát biểu trong các cuộc họp và rất thích lối viết của cậu. Ông bảo rằng lời văn của cậu vừa sáng sủa, vừa mạnh mẽ, rất thích hợp với lời nói của một ông tướng trong quân đội. Nhưng mà….
Thiếu tá lại ngừng nói làm cho Tân hồi hộp chờ đợi. Vài phút sau, thiếu tá mới nói tiếp:
- Sáng nay tôi đã đề nghị với ông tướng và đã được chấp thuận. Chúng tôi đồng ý cho cậu được biệt phái trở về dạy học.
Giọng Tân như nghẹn lại:
- Tại sao như vậy?
- Vì vợ cậu sắp sanh con đầu lòng. Đối với người đàn bà, lần sinh con đầu tiên luôn luôn cần sự gần gũi của chồng. Hơn nữa cô ấy, tức là vợ của cậu lại là một y tá của tổng y viện Cộng hòa, một nhân viên của bộ quốc phòng, một trong số ân nhân của thương bệnh binh. Chúng tôi không thể giữ cậu lại đây để cho cô ấy chịu thiệt thòi.
- Nhưng thưa thiếu tá, nhu cầu của quân đội phải đặt trên hết.
- Không, lòng nhân đạo mới đặt trên hết. Chính đó là bản chất của chế độ chúng ta và vì bản chất đó mà chúng ta hi sinh để giữ lấy chế độ miền Nam nầy. Thôi, cậu chuẩn bị về Sài gòn để trình diện bộ giáo dục đi. Tôi đã yêu cầu phòng quản trị đánh công văn và chứng chỉ ngưng lương cho cậu rồi. Cậu nên về cho sớm để ổn định công việc dưới đó rồi còn lo đón nhận đứa con đầu lòng nữa. Không có gì vui sướng bằng có được đứa con đầu lòng. Tôi nhớ khi vợ tôi sanh ra đứa con trai lớn, tôi nhảy dựng lên làm mấy bà mụ trong nhà bảo sanh cười ngất. Thằng con tôi năm nay được mười lăm tuổi rồi. Thời gian trôi qua thực là nhanh.
- Cám ơn thiếu tá. Nhưng mà tôi chưa thể về ngay được. Đường bị đứt rồi. Thiếu tá biết chưa?
- Biết rồi, Việt cộng cắt đứt đường ở Bàu cá. Các trung đoàn của chúng ta đang tấn công vào chiến khu của chúng nên chúng làm như vậy để buộc chúng ta rút lui, giải tỏa bớt áp lực cho chúng. Đáng lẽ chúng ta phải thông đường nội hôm nay nhưng không có đơn vị nào rút về kịp. Nội sáng mai là ta sẽ đánh đuổi chúng nó đi, không thể để lâu làm trở ngại lưu thông và sinh hoạt của dân chúng. Họ luôn luôn tìm cách làm hại dân, mình cần nhanh chóng ra tay phá vỡ mưu đồ đó.
- Nhưng kỳ nầy, nghe nói họ đang có quyết tâm cao để mở chiến dịch Mậu thân đợt hai.
- Họ rêu rao thế thôi, chứ không làm gì được đâu. Tết vừa rồi, tất cả các thành phố của chúng ta gần như bỏ ngỏ mà họ chẳng làm nên trò trống gì, huống chi bây giờ chúng ta đã đề phòng cẩn mật rồi. Thôi bây giờ, trung úy hãy đến phòng nhân viên lãnh giấy tờ rồi đi chia tay với anh em.
- Cám ơn thiếu tá. Chúc thiếu tá ở lại mạnh khỏe.
- Chúc cậu ngày mai lên đường may mắn. Gởi lời thăm bà xã và đứa con đầu lòng của cậu.




Tân trở về Sài gòn, đúng vào dịp các trường tư đang sắp xếp giáo sư để chuẩn bị khai giảng năm học mới. Cậu nhận được nhiều giờ dạy nên lập tức đời sống vật chất được ổn định ngay.
Đúng ba tuần lễ sau khi cậu trở về đời sống dân sự, Thùy Liên bắt đầu chuyển bụng vào buổi chiều. Cậu cùng mẹ vợ đưa nàng vào bảo sanh viện. Đến nửa đêm, một đứa bé gái ra chào đời.
Cậu theo cô y tá bước vào phòng sinh. Căn phòng sáng rực và mát mẻ. Thùy Liên nằm trên một chiếc giường đặt ngay giữa phòng, đắp tấm ra trắng đến cổ. Mặt nàng trông có vẻ mệt nhọc, mấy sợi tóc dính vào trán chứng tỏ nàng vừa đổ mồ hôi dù phòng sinh mát lạnh nhờ máy điều hòa không khí. Tuy vậy khi trông thấy chồng thì nét mặt nàng thực tươi và thực dịu dàng.
Cậu dừng lại cách nàng độ hai mét, nhìn một cách ngớ ngẩn gian phòng chỉ có toàn đàn bà.
Thùy Liên gọi nhỏ:
- Anh Tân, đến đây với em đi.
Tân bước vội đến cúi xuống hôn mắt Thùy Liên. Nàng nói tiếp qua hơi thở:
- Anh xem Thùy Dung của anh có đẹp không? Nó đang nằm dưới chân em đó.
Cậu giật mình như vừa được nhắc nhở để nhớ lại một chuyện quan trọng. Cậu vội quay xuống cuối giường. Giữa hai chân của Thùy Liên, ló ra một cái mặt nhỏ xíu, đôi mắt nhắm nghiền. Cậu dùng hai ngón tay kéo tấm đắp và ngạc nhiên thấy cái hình hài bé nhỏ được bó chặt trong một chiếc khăn, trông tròn tròn như một đòn bánh. Cậu kéo tấm đắp lại rồi quay lên. Thùy Liên lặp lại câu hỏi:
- Con của chúng mình có đẹp không anh?
Cậu ấp úng:
- Ừ ừ, lớn lên có lẽ nó đẹp như em vậy.
Nàng cười :
- Sao lại như em? Em đâu có đẹp.
- Nếu em mà bảo rằng không đẹp thì thế gian nầy toàn là ma lem hết.
Câu nói khôi hài của chính mình làm cho cậu trở nên bình tĩnh. Cậu lẩm bẩm: “Phạm thị Thùy Dung! Bây giờ mình thực sự làm cha rồi”. Cậu thấy trong lòng mình bừng lên một tình cảm vừa vui sướng, vừa ngạc nhiên và lo âu.
Một cô y tá bước đến mỉm cười:
- Xin chúc mừng ông bà có con gái đầu lòng. Bây giờ, chúng tôi đưa bà và em bé về phòng. Xin mời ông theo chúng tôi.

Thùy Liên ở bảo sanh viện trong một tuần lễ thì được về nhà. Tân vẫn tiếp tục đi dạy không nghỉ giờ nào, nhưng hễ về đến nhà, cậu cứ quanh quẩn trong buồng, hết nhìn vợ đến nhìn con.
Tình cảm của cậu đối với sinh vật nhỏ bé nầy lần lần nẩy nở. Da mặt bé bắt đầu căng lên và đỏ hồng chứ không nhăn nheo xấu xí như lúc mới ra chào đời. Mỗi ngày cậu thấy con mình xinh hơn một tí. Rồi cậu bắt gặp nụ cười của bé trong giấc ngủ. Ôi chao, nụ cười đẹp làm sao! Nụ cười trên khuôn mặt sáng rỡ như của thiên thần! Bỗng bé giật mình co hai chân lên, mắt mở ra, khờ khạo nhìn. Tân nghĩ thầm: “Đôi mắt nầy, đúng là đôi mắt của mẹ rồi!”.
Bé chúm chím miệng rồi khóc ré lên. Thùy Liên cúi nhìn con rồi nhìn chồng:
- Bé đói rồi đó. Em cho con bú.
Nàng nằm nghiêng lại, lần cởi nút áo, hai bầu sữa trắng nõn nà lộ ra ngoài. Miệng bé ngậm vào đầu vú hồng, nút vội vàng. Tân đứng dòm một cách sững sờ. Thùy Liên nhìn lên, mặt ửng hồng:
- Anh dòm gì vậy, lạ lắm sao? Con bé nầy tham lam như cha nó mấy tháng trước đây vậy.
Từ phòng ngoài, có tiếng mẹ reo to:
- Kìa con Hai lên. Vào đây con.
Thùy Liên vội nói với chồng:
- Chị Hai lên tới rồi đó, anh ra đón chị vào đi.
Tân bước ra thì chị vừa tới cửa. Giọng chị oang oang:
- Sao? Hai mẹ con có khỏe không?
Tân vội đáp:
- Dạ khỏe.
- Chị được điện tín cả tuần rồi mà không đi được. Một phần vì công việc độ rày quá nhiều, phần khác ba bị bệnh, không ai săn sóc, chị không dám đi.
Bà mẹ lo lắng:
- Ông bệnh làm sao?
- Dạ bị tiêu chảy và sốt. Bữa nay hết bệnh rồi nhưng còn yếu lắm. Con nóng ruột với con Liên quá nên đi đại lên đây. Con xin nghỉ phép hàng năm, tính ở lại đây thay má cho hết phép. Má về dưới đó săn sóc cho ba đi. Ổng bệnh nằm một chỗ mà ngày nào cũng nhắc má. Má về dưới đi, chừng nào ba mạnh hẳn rồi lên.
- Ừ, mai má về sớm. Nghe ổng bệnh, tao lo quá. Con vào với em đi.
Chị Hai bước vào buồng, Thùy Liên mừng rỡ:
- Chị Hai, em mong chị quá.
- Ừ, chị cũng mong lên thăm em. Nào cục cưng của dì đâu nào?
Dì cúi xuống bế bé lên, hôn chùn chụt. Thùy Liên mỉm cười:
- Chị hôn cháu nhè nhẹ thôi, cháu vừa bú xong.
Chị Hai đặt bé trở lại giường. Chị hỏi:
- Em có đủ sữa cho cháu bú không?
- Bữa đầu thì thiếu, hôm nay đủ lắm rồi. Nó tham ăn như….
Nàng kịp ngắt ngang câu nói, hỏi sang chuyện khác:
- Ở dưới mình có yên không?
- Thỉnh thoảng có nghe đụng trận đâu trong miệt vườn.
- Còn ở thành phố?
- Ban ngày thì vẫn mua bán rộn rịp nhưng ban đêm thì sợ pháo kích.
- Pháo kích có thường xuyên không?
- Thì cũng như trên nầy. Lâu lâu, mấy cha nội mang hỏa tiễn 122 ly thụt vào vài trái, giết chết vài người dân rồi bỏ chạy. Cứ rót pháo vào đầu dân mà gọi là giải phóng, thiệt hết chỗ nói.
Chị ngưng nói, nhìn sang Tân và hỏi:
- Cậu Tân, vợ đẻ xin nghỉ được bao lâu?
- Dạ, em chẳng xin phép gì cả. May là trường công chưa khai giảng, chỉ phải đi dạy trường tư, tuần lễ mươi giờ, và vài giờ huấn luyện quân sự cho sinh viên thôi.
- Sao cậu không xin nghỉ vài hôm?
- Dạ cái nghề dạy học của em thì khó xin nghỉ lắm. Thông báo cho học sinh biết vợ thầy đi đẻ thì khó nghe lắm.
Chị Hai cười ha hả:
- Thầy nghỉ dạy vì vợ đẻ, còn trò không có vợ đẻ cũng phải nghỉ học hay sao? Thôi được, có má săn sóc, rồi bây giờ có chị rồi, cậu cứ yên tâm dạy học đi. Chị rất mừng cho cậu được biệt phái cho bộ giáo dục, chứ còn đi hành quân thì khổ và nguy hiểm lắm. Nghe nói, sau thất bại của Việt cộng trong chiến dịch Mậu thân, Liên xô và Trung cộng viện trợ sang vũ khí tối tân lắm nên gần đây bên mình cũng chịu nhiều thiệt hại.

Sáng hôm sau, Tân dùng xe gắn máy đưa mẹ vợ ra bến xe rồi đến trường. Cậu dạy suốt ngày, chiều mới về nhà. Tắm rửa xong, cậu vào buồng và ở luôn trong đó với vợ con, ngoại trừ giờ cơm.
Mỗi bữa ăn, chị Hai bưng một mâm cơm vào buồng cho Thùy Liên ăn riêng với khẩu phần đặc biệt dành cho sản phụ. Sau đó chị và Tân cùng ngồi ăn trên chiếc bàn dưới bếp. Một hôm, chị hỏi cậu:
- Sao? Đến bữa nay, cậu có cảm tưởng thế nào đối với con bé?
- Chị muốn nói đến cảm tưởng gì?
- Thì cái lòng thương đối với con Thùy Dung ấy mà.
Tân gật đầu:
- Dạ bữa nay, em thấy thương nó nhiều rồi đó. Ở trường cứ mong cho mau hết giờ để về nhìn nó ngủ trong nôi.
Tân ngập ngừng một chút rồi thú thật:
- Chị Hai, lúc đầu khi bé mới ra đời, em cảm thấy đó là một cái gì rất xa lạ và xấu xí trong khi Thùy Liên tỏ ra cực kỳ thương yêu và hãnh diện về đứa bé. Lúc đó em muốn làm một cử chỉ nào đó đối với đứa bé để cho vui lòng Thùy Liên nhưng không biết làm cách nào vì, do bản tính, em không thể làm bất cứ chuyện gì không thực bụng. Nghĩ lại tâm trạng lúc đó, đến bây giờ em vẫn còn cứ thấy bứt rứt vì không an ủi được Thùy Liên lúc vợ em vừa trải qua giờ phút nhọc nhằn để cho bé ra đời.
Chi Hai cười ha hả:
- Đàn ông thì ai mà chẳng vậy. Đàn bà thì thương con, không phải chỉ từ lúc nó ra đời đâu mà trước nữa, lúc nó còn trong bụng mẹ. Cưu mang nó, gần gũi nó trong suốt hơn chín tháng trời, làm sao không thương được. Còn đàn ông thì đâu có gần gũi mà thương yêu. Có người còn căm ghét nữa là khác vì chính nó làm cho cơ thể vợ mình trở nên xồ xề khó coi và không còn được gần gũi thường xuyên. Nhưng rồi dần dần người đàn ông mới ý thức được vai trò làm cha của mình và tình thương nảy nở.
Chị trầm ngâm vài giây rồi nói tiếp:
- Cái gì đến từ từ, mỗi ngày một chút thì thường rất sâu đậm. Tình thương của cha đối với con cũng thế. Về lâu về dài, tình thương của cha nhiều khi còn mãnh liệt hơn tình thương của mẹ nữa.
- Nhưng em cũng nghe nói có không ít người đàn ông chẳng quan tâm đến con cái mà lại chạy theo cờ bạc, rượu chè, chơi bời, trác táng.
- Đúng vậy, giữa tình thương của cha và tình thương của mẹ còn một chỗ khác nhau, chính là điểm xuất phát. Mẹ thương con một cách tự nhiên, không cần điều kiện. Đó là tình thương bẩm sinh. Còn cha chỉ thương con với điều kiện là người đàn ông phải vượt qua một ngưỡng đạo đức làm người. Người nào có đạo đức mới biết thương con và đảo lại người thương con là người đạo đức.
Tân cãi lại:
- Nhưng cũng có một số đàn ông trông rất đạo đức về lối sống nhưng rõ ràng không có chút lòng thương đối với con cái.
- Chị khẳng định đó là những người đạo đức giả. Thương con là một khía cạnh đạo đức hoàn toàn chân thật. Chị tin rằng đó là một qui luật xác đáng nhất về vấn đề đạo đức của con người. Ông tổng thống, ông chủ tịch hay ông gì đi nữa mà không thương con, không quan tâm đến đời sống của con mình thì cái ông đó cũng chẳng ra gì. Thậm chí có người còn dám không thừa nhận con mình để bảo vệ cái danh giá xã hội của mình; đó là người đạo đức giả, đáng chê.
Tân hỏi chị:
- Em nghe Thùy Liên bảo anh Hai thương con lắm phải không chị?
Chị Hai gật đầu:
- Ảnh cưng con hết chỗ nói, cưng đến nỗi nhiều khi chị phát bực mình. Người ta thường bảo “con hư tại mẹ”, thực ra, “con hư tại cha” cũng không phải là hiếm.
Chị bỗng bật cười:
- Chị còn nhớ, lúc sinh thằng con đầu, ổng cứ đứng dòm lấm lét, chị gọi hai ba lần ổng mới nhích gần một chút trong dáng điệu thủ thế, dường như sợ thằng bé nhảy lên táp cho một miếng. Thế mà đến khi đầy tháng, ổng cứ ôm riết con vào lòng, đi khắp nhà khoe với người nầy, người kia, làm như chỉ một mình ổng có con nhỏ mà thôi.
Chị dừng một chút rồi nói tiếp:
- Nè, chị thấy cậu còn thương con hơn anh Hai nữa. Lớn lên con bé tha hồ làm nũng với cha.
Câu nói đó của chị làm Tân cảm thấy vui thích. Cậu cũng ngạc nhiên về những nhận xét sâu sắc của chị dù bề ngoài chị trông như những người đàn bà nhà quê chất phác.
Quả như lời chị Hai nói, mỗi ngày, cậu thấy lòng mình khắn khít với bé Thùy Dung hơn. Cậu cẩn thận bế nó trên tay, ôm nó vào ngực, khẽ nâng lên hít mạnh cái khăn bông quấn quanh mình nó. Từ cái khăn ấy tỏa ra một hương thơm ngào ngạt. Ôi, cái mùi hương toát ra từ cơ thể nhỏ bé của Thùy Dung trộn lẫn với mùi sữa thơm chảy ra từ bộ ngực trắng nõn nà của Thùy Liên, làm cậu ngây ngất trong tình thương mênh mang.

Thùy Dung bú nhiều, chóng lớn nhưng ngày thì ngủ còn ban đêm hay thức và khóc nhè. Thùy Liên thường mất ngủ ban đêm để dỗ con vì nàng biết chồng mình ban ngày phải đi dạy vất vả. Tuy vậy, ít khi bé chịu nín ngay mà cứ tiếp tục khóc. Lạ một điều là nếu bé được cha bế đi lui đi tới thì nín ngay. Vì vậy, rất nhiều đêm, Tân phải thức với con. Dưới ánh sáng lờ mờ của đèn chong, Tân thấy bé nhìn cha bằng đôi mắt long lanh và nhoẻn miệng cười. Nụ cười ngô nghê của trẻ thơ làm cho người cha vui sướng, quên cả nhọc mệt vì những giờ mất ngủ ban đêm. Trong những lúc như vậy, Thùy Liên ngồi trên giường, nhìn chồng con và thấy ngập tràn niềm hạnh phúc vô biên.


*
* *


Thùy Liên nghỉ hộ sản trong ba tháng rồi trở lại nhiệm sở. Trông nàng khỏe mạnh, tươi tắn và xinh đẹp hẳn ra.
Ngày hai lần, Tân dùng xe đưa đón vợ. Những buổi không có giờ dạy, Tân ở nhà phụ giúp mẹ săn sóc bé Thùy Dung. Hôm nào dạy cả sáng lẫn chiều thì trưa cậu cũng chạy ngay về nhà bế con một chút rồi lại đi, có khi không kịp ăn phải nhịn luôn bữa cơm trưa. Khi Thùy Liên biết chuyện nầy, nàng cự nự chồng:
- Anh đi dạy học vất vả mà cứ nhịn ăn như thế, đổ bệnh thì khổ. Thương con thì tối về nhà chơi với nó được rồi, trưa phải nghỉ ngơi tại trường cho có sức mà dạy.
Tân cười, giọng giả lả:
- Xa nó từ sáng tới chiều, anh thấy thời gian dài quá. Có hôm đứng giảng bài mà đầu óc cứ lẩn quẩn bên nó và tự hỏi: “Không biết giờ nầy bé bú chưa, thức hay ngủ, bà ngoại có nhớ cho cháu uống nước không?”. Trưa về nhìn nó một chút anh cảm thấy yên tâm và thêm hứng thú trong các giờ dạy.
Thùy Liên nhìn chồng, cảm động:
- Chị Hai bảo ít thấy người cha nào thương con bằng anh. Em nói với chị Hai rằng em biết tại sao anh thương con nhiều như thế.
- Tại sao? Em nói lý do anh nghe thử có đúng không?
- Vì anh thường hay nghĩ về cái quá khứ và thương cái thời thơ ấu của anh. Anh mồ côi cha mẹ quá sớm. Cái lỗ hổng tình cảm trong tuổi thơ cứ làm cho anh xót xa mãi. Anh tìm cách lấp lỗ trống đó bằng tình yêu dành cho em và tình thương dành cho bé Thùy Dung. Có phải vậy không anh?
Tân không trả lời. Cậu ôm vợ vào lòng và đặt lên môi nàng nụ hôn dài. Thùy Liên ngước lên nhìn chồng, mắt long lanh:
- Anh Tân, em và con sẽ gắng sức lấp đầy cái lỗ trống tình cảm đó của anh.
Nàng nắm lấy bàn tay chồng áp vào mặt mình:
- Anh Tân, em không ngờ có được hạnh phúc như ngày nay. Lúc anh Tạo bị tử trận, em tưởng đời em tiêu tan rồi vì nghĩ rằng không thể tìm được tình yêu nơi nào khác nữa. Ngờ đâu trời còn thương em nên đưa anh về gặp em. Tới khi anh bị tái ngũ và bị đưa về đơn vị tác chiến, em lại lâm vào một cơn khủng hoảng mới. May mắn một lần nữa lại đến với em khi anh được biệt phái về dạy học.
Nàng trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Nếu thiếu tá Bảo cứ tiếp tục giữ anh lại ở bộ tư lệnh sư đoàn thì giờ nầy, không có anh ở đây, em không biết xoay xở cách nào? Anh Tân, hôm nào anh đưa em lên Long khánh để em gặp mặt thiếu tá và đích thân em cám ơn thiếu tá. Được không anh?
Tân lắc đầu:
- Con còn nhỏ, mỗi tuần em đi làm sáu ngày còn anh đi dạy đủ bảy ngày, làm sao mà đi Long khánh được?
- Em đâu có nói đi ngay bây giờ. Đợi ít lâu nữa cho con lớn rồi mới đi.
Tân cười:
- Em hãy nhớ chúng ta đang ở thời chiến, tình hình thay đổi từng ngày từng tháng. Trong quân đội, sự thuyên chuyển xảy ra thường xuyên. Đợi khi con lớn lên, anh trở lại đó thì gặp toàn người xa lạ.
- Nhưng em không thể quên được ơn của thiếu tá đối với vợ chồng mình.
- Nhớ ơn trong lòng và tìm cách làm ơn cho người khác, đó là cách trả ơn hay nhất. Em đồng ý không?
Thùy Liên im lặng một chút rồi gật đầu:
- Dạ, em nghe lời anh, nhưng em vẫn mong có ngày đến thăm thiếu tá.

Thùy Dung lớn nhanh, mỗi ngày một ngoan hơn. Từ hai tháng trở đi, bé không khóc đêm nữa mà chỉ dậy bú mẹ một lần rồi ngủ. Nhờ vậy, không khí gia đình càng đầm ấm và hạnh phúc hơn.
Bà ngoại ở nuôi cháu đến bốn tháng thì về quê. May mắn ở gần nhà có một gia đình nhận giữ vài đứa trẻ. Gia đình nầy khá thân thiết với Bạch Mai nên vợ chồng Tân cũng yên tâm khi giao bé Thùy Dung cho họ chăm sóc từ sáng đến chiều.
Thấm thoát bé được gần tròn một năm. Bé khỏe mạnh và tính tình thực dễ thương. Bé được sinh ra bằng tình yêu đậm đà của cha mẹ và lớn lên trong tổ ấm tràn đầy hạnh phúc. Càng lớn lên, bé càng xinh. Bé giống cả cha lẫn mẹ. Giống cha ở đôi mắt sáng và hiền lành, giống mẹ ở khuôn mặt trái xoan và nụ cười như đóa hoa nở buổi bình minh.
Thùy Liên hoàn toàn hạnh phúc nên trông nàng xinh đẹp hơn cả lúc chưa có con. Nàng thường bế con cho ngủ trong lòng mình. Tân đúng im, say sưa nhìn mẹ rồi nhìn con, lòng vui như mở hội.
Kể từ khi trở về đời sống dân sự sau lần giải ngũ trước đây, Tân không còn phải cầm cây súng, không còn phải thường xuyên chứng kiến cảnh máu đổ thịt rơi nhưng lòng cậu chưa bao giờ yên ổn mà vẫn thường xuyên bị ray rứt do âm vang của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ở những chiến trường xa xôi vọng lại. Tuy nhiên, từ một năm nay, sự có mặt của bé Thùy Dung gần như xóa tan niềm ray rứt đó. Cậu thường nói với vợ:
- Em là tất cả tình yêu thương của anh, còn con là tất cả lẽ sống của anh trong hiện tại. Hai mẹ con là chỗ dựa tinh thần của anh trong cuộc đời nầy.
Thùy Liên sung sướng tựa vào vai chồng, thủ thỉ:
- Ngày anh còn nhỏ, anh đi theo cộng sản vì một lẽ sống mênh mông là cái thế giới đại đồng của toàn thể nhân loại. Bây giờ, ở tuổi chín muồi, lẽ sống của anh co lại, chỉ còn trong nụ cười của một đứa trẻ thơ mà thôi.
- Điều đó có lẽ đúng cho mọi người, em ạ. Đời của mỗi người gồm nhiều giai đoạn. Giai đoạn chính đáng nhất là đi tìm một nơi trú ẩn. Lúc mới sinh ra đời, người ta choáng ngợp vì cái vũ trụ bao la. Người ta thèm muốn bay đi khắp vũ trụ và hãnh diện rằng cái vũ trụ bao la đó là của chính mình. Tới một tuổi nào đó người ta mới nhận ra rằng cái rộng lớn mênh mông chỉ chứa toàn ảo tưởng và con người hóa ra mê sảng trong khối ảo tưởng đó. Nếu còn giữ được một chút lương tri thì người ta vội quay về đi tìm nơi trú ẩn và rất nhiều người nhận ra rằng trong cái vũ trụ bao la nầy, tìm được một nơi trú ẩn nhỏ xíu cũng không phải là dễ dàng.
- Anh Tân, cái ý nghĩ có tính triết lý đó của anh nghe buồn lắm. Hôm nay mình phải vui để bàn bạc tổ chức ngày con chúng mình được tròn một tuổi. Theo anh thì mình nên làm lễ đầy năm hay lễ sinh nhật?
- Hai cái đó khác nhau à?
- Khác chứ. Đầy năm là lễ cổ truyền của ông bà mình. Khi đứa trẻ được đúng một năm âm lịch thì mình cúng để đền ơn mười hai bà mụ đã phù chộ cho trẻ lớn lên và khỏe mạnh. Còn sinh nhật đầu tiên là theo văn hóa tây phương được tính tròn một năm dương lịch kể từ khi trẻ chào đời . Vì năm dường lịch dài hơn năm âm lịch nên lễ đầy năm đến trước sinh nhật đầu tiên đến mười ngày.
- Theo em thì mình nên tổ chức ngày nào?
- Em phân vân nên mới hỏi anh. Nếu tổ chức ngày đầy năm thì đúng với phong tục Việt Nam nhưng đời người chỉ có một lần đó thôi. Còn tổ chức sinh nhật thì được lặp đi lặp lại hằng năm ngày kỷ niệm lớn nhất của đời người
Tân vỗ nhẹ vào đôi má đáng yêu của vợ:
- Em thích tổ chức ngày nào, anh chiều theo ý em.
Thùy Liên lắc đầu:
- Em rất phân vân vì hai ngày đều có ý nghĩa quan trọng.
- Thế thì tổ chức cả hai ngày.
- Ừ nhỉ, mình tổ chức cả hai ngày, thế mà em không nghĩ ra. Ngày đầy năm âm lịch thì mình sẽ mời ông bà ngoại, gia đình anh chị Hai và ngày sinh nhật đầu tiên của Thùy Dung thì có thể mời thêm vài bạn thân của anh và của em nữa.
- Còn gia đình chị Bạch Mai?
- Dĩ nhiên là tham gia cả hai ngày. Từ lâu, chúng ta đã coi anh chị Thế như cùng một gia đình với mình rồi mà.
- Được rồi, anh đồng ý tất cả mọi điều sắp xếp của em.
Ngay chiều hôm đó, Thùy Liên viết thư gởi về cho cha mẹ ở Cần thơ. Một ngày trước lễ đầy năm của Thùy Dung, ông bà và cả gia đình chị Hai đã đến đầy đủ. Căn nhà nhỏ đầy ắp người, tiếng nói tiếng cười rộn rã. Thùy Dung được chuyền tay từ người nầy sang người kia. Lúc đầu bé ngạc nhiên và hoảng sợ khi thấy đông người nên cứ níu lấy mẹ. Chỉ một lúc sau bé quen dần với mọi người và chơi đùa vui vẻ với đứa con nhỏ của chị Hai.
Ngày hôm sau, từ sáng sớm, Bạch Mai đã sang nhà Thùy Liên để cùng đi chợ với nàng. Đến trưa, lễ bắt đầu. Mẹ của Thùy Liên buộc hai vợ chồng trẻ phải cúng kiến cho nghiêm chỉnh. Tân vui vẻ vâng lời. Cậu dọn dẹp tất cả sách vở, mang chiếc bàn làm việc ra giữa nhà làm bàn cúng.
Cậu lên nhang đèn rồi quì xuống lâm râm khấn vái. Thùy Liên cũng bế con quì sau lưng chồng, với vẻ mặt thành kính. Cả nhà im lặng và cảm động nhìn hai vợ chồng trẻ với đứa con nhỏ trước những sợi khói nhang nhè nhẹ bay lên trần nhà.
Bỗng có tiếng reo của Bạch Mai:
- Ủa anh Thế về kìa. Sao anh lại về giờ nầy? Lại có ông bạn nào đi theo.
Tân và Thùy Liên đã cúng xong, đứng dậy nhìn ra cửa. Thiếu tá Thế bước vào hàng hiên. Bạch Mai tiếp tục hỏi:
- Anh về dự đầy năm của bé Dung phải không?
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Anh về vì có anh Thảo đây.
Bạch Mai quay lại người đàn ông mang lon thiếu tá theo sau, gật đầu chào. Thiếu tá Thế giới thiệu:
- Đây là vợ tôi.
Anh quay vào nhà nói to:
- Chào hai bác, chào anh chị Hai, chào cả nhà. Anh Tân đâu, có bạn cũ về thăm đây.
Tân bước ra cửa và dừng lại, sửng sốt:
- Trời đất, anh Thảo đó phải không?
- Vâng, tôi là Thảo đây. Tám năm xa cách rồi. Anh có khỏe không?
- Khỏe, khỏe lắm.
Tân nói xong, nhào tới nắm chặt hai tay của Thảo, rối rít hỏi:
- Anh Thảo, sao anh biết tôi ở đây mà đến?
Thảo quay sang thiếu tá Thế:
- Tôi đi công tác về tổng tham mưu gặp thiếu tá Thế mới biết anh ở đây.
Thiếu tá Thế tiếp lời:
- Thiếu tá Thảo về họp chiến tranh chính trị ở tổng tham mưu. Tôi nói chuyện mới biết thiếu tá xuất thân khóa Mười bốn Thủ đức. Tôi hỏi anh Thảo có biết chuẩn úy Bính không. Anh bảo rằng Bính là bạn chí thân ở quân trường. Khi tôi nói Bính tử trận từ lâu rồi thì anh Thảo tái mặt và nhất định đòi về nhà để xem có phải bạn mình hay một anh Bính nào khác. Thế là tôi đưa Thảo về nhà, mở cửa đưa anh lên chỗ thờ Bính. Thảo đứng yên nhìn ảnh Bính một hồi rồi gục đầu vào bàn thờ. Một phút sau, Thảo ngẩng đầu lên, nước mắt lưng tròng. Anh nói với tôi: “Trong suốt hơn mười tháng ở quân trường, chúng tôi có ba anh em rất thân nhau. Nay Bính chết rồi, còn một người nữa tên là Tân không biết phiêu bạt nơi đâu”. Tôi đáp ngay: “Tân vẫn khỏe mạnh, ở gần đây thôi”. Thế là tôi kéo anh Thảo sang đây.
Thiếu tá Thảo quay sang Tân:
- Tôi nhớ khi ra quân trường Thủ đức, tôi tình nguyện đi biệt động quân nên về Dục Mỹ dự khóa︠ rừng núi sình lầy còn anh và Bính về sư đoàn Chín Bộ binh, đúng vậy không?
- Đúng vậy, chúng tôi về làm trung đội trưởng cùng một đại đội.
- Bính tử trận lúc nào, ở đâu?
- Lúc đó chúng tôi được chi viện cho chi khu Tri tôn để chận đường xâm nhập của Việt cộng từ Cam bốt sang. Bính tử trận tại Nhà bàng, gần biên giới.
Tân ngừng nói, rơm rớm nước mắt. Cậu hỏi:
- Còn anh thì thế nào?
- Sau khóa học biệt động quân, tôi về với đơn vị và lặn lội trên các chiến trường ở khắp các vùng chiến thuật Một, Hai và Ba.
- Anh thuộc về ngành chiến tranh chính trị à?
- Không, tôi đi từ trung đội trưởng tác chiến, rồi lần đến tiểu đoàn trưởng.
- Nhưng anh Thế nói anh về dự họp chiến tranh chính trị mà.
- Chỉ tạm thời đó thôi. Hôm đầu năm tôi đưa tiểu đoàn đến giải vây cho một đơn vị bộ binh ỏ Dak tô, đánh tan hai tiểu đoàn lính Bắc Việt tại đó. Cuối trận đánh thì tôi bị thương phải giao tiểu đoàn lại cho người khác. Tôi vừa xuất viện được hai tháng và nằm chờ lệnh bổ nhiệm về đơn vị tác chiến trở lại. Sẵn dịp có hội nghị chiến tranh chính trị ở tổng tham mưu nên tôi xin sư đoàn cho tôi về dự để nhân tiện hỏi thăm số phận sắp tới của mình. Còn anh thì sao? Tôi nhớ anh ra đại học sư phạm thì bị động viên. Anh được giải ngũ và trở về dạy học phải không?
Tân gật đầu:
- Xong bốn năm quân dịch tôi được giải ngũ. Nhưng sau khi Việt cộng tấn công tết Mậu thân, tôi phải trở lại quân đội vài tháng thì được biệt phái trở về dạy học.
Có tiếng Bạch Mai la to:
- Thôi xin mời các ông vào nhà, vừa ăn vừa nói chuyện.
Tân nhìn vào nhà. Bàn cúng đã dẹp và trở thành bàn ăn đầy thức ăn bên trên. Cậu cầm tay hai ông thiếu tá kéo vào nhà rồi nói:
- Anh Thảo, hôm nay là ngày đầy năm của bé Thùy Dung, con gái đầu lòng của tôi.
Cậu tiếp tục giới thiệu những người trong gia đình. Thảo cúi đầu chào mọi người rồi bước đến bắt tay Thùy Liên:
- Chào chị Tân. Hân hạnh được biết chị. Tôi là bạn của anh Tân.
Thùy Liên cười vui vẻ:
- Kính chào anh. Nghe các anh nói chuyện, em biết anh là bạn chiến đấu của anh Tân và anh Bính.
Thảo mỉm cười:
- Bây giờ anh Tân là giáo sư, không còn là bạn chiến đấu của tôi nữa. Có lẽ chị là đồng nghiệp của anh Tân?
Thùy Liên lắc đầu:
- Không, em không phải là cô giáo. Em là y tá ở quân y viện.
Thảo trố mắt ngạc nhiên:
- Chị làm việc ở quân y viện à? Chị thuộc đội ngũ ân nhân của thương binh, có nhiệm vụ giành lại từng mạng sống của anh em từ trong tay của tử thần. Anh chị biết nhau trong trường hợp nào?
Tân trả lời thay cho Thùy Liên:
- Tôi bị thương ở Vĩnh bình, được đưa về quân y viện Cần thơ và được Thùy Liên săn sóc. Sau khi lành vết thương và xuất viện, tôi lại muốn được Thùy Liên săn sóc suốt đời.
Thảo cười to:
- Thực là lý thú.
Tân hỏi:
- Còn vợ con anh thì thế nào?
Thảo lắc đầu:
- Tôi chưa nghĩ đến chuyện vợ con. Tôi đã xin vào hiện dịch, phục vụ quân đội vĩnh viễn. Tôi và vài sĩ quan khác trong tiểu đoàn đã tự tổ chức một lễ tuyện thệ, thề khi nào đánh đuổi được cộng sản ra khỏi miền Nam thì mới lập gia đình. Còn Việt cộng ở đây là chúng tôi còn độc thân để tự do tung hoành trên chiến địa.
Thùy Liên tỏ ý thán phục:
- Các anh thực là hào hùng. Toàn thể dân chúng miền Nam biết ơn các anh.
- Cám ơn chị. Chúng tôi thường nghe những lời giống như chị vừa nói. Chúng tôi xem đó là mệnh lệnh của người dân ban ra để chúng tôi lao vào giết giặc.
Bạch Mai lại lớn tiếng nhắc một lần nữa:
- Xin mời quí vị ngồi vào bàn. Chúng ta vừa dùng bữa vừa chuyện trò.
Thiếu tá Thế vui vẻ đáp lời vợ:
- Xin tuân lệnh.
Mọi người vào bàn. Tân ngồi gần Thảo. Cậu quên cả gắp thức ăn, vì trí óc mãi mê nhớ lại những kỷ niệm cũ trong quân trường. Cậu nói với Thảo:
- So với mấy mươi năm của một cuộc đời thì quãng thời gian hơn mười tháng quả thực là ngắn, phải không anh Thảo?
Thảo dừng đũa, hơi ngạc nhiên:
- Vâng, quả thực là ngắn, nhưng anh muốn nói tới điều gì?
- Tôi đang nhớ tới những tháng ở quân trường Thủ đức của ba anh em mình. Đó là một quãng đời thực ngắn nhưng đầy ắp những kỷ niệm. Bao nhiêu năm rồi, cứ mỗi lần nhớ tới những ngày tháng quân trường là tôi lại thấy lòng bồi hồi xúc động.
- Tôi cũng vậy. Mấy vị sĩ quan già mà tôi gặp cũng cùng tâm trạng như anh. Vâng, có lẽ ai cũng thế. Quãng đời binh nghiệp là thời gian đáng ghi nhớ nhất của người đàn ông. Quân trường là nơi khởi đầu quãng đời đáng ghi nhớ đó, là nơi chứng kiến sự thay đổi quan trọng của cuộc đời, trong nếp sinh hoạt, trong tâm tình, trong thói quen lẫn trong suy nghĩ. Nơi đó cũng là nơi mình bắt đầu gặp những chiến hữu. Trong cuộc đời, không có gì đẹp và tha thiết bằng tình yêu chiến hữu. Chính vì tình chiến hữu đó mà người ta vui lòng sống chết với nhau trên chiến trường.
Thiếu tá Thế chen lời:
- Anh Thảo luận về tình chiến hữu thực là cảm động.
Thảo cười buồn:
- Tôi không còn gia đình, không có một người thân nào cả ở miền Nam. Thế mà tôi yêu miền Nam vô cùng, chính là do tình chiến hữu đó.
Tân vụt hỏi bạn:
- Anh Thảo, anh còn nghĩ đến cô Hải Đường không?
Thảo quay sang nhìn với đôi mắt ngạc nhiên:
- Bao nhiêu năm rồi mà anh còn nhớ tên em gái tôi à?
Thảo thở dài, nói tiếp:
- Không lúc nào tôi quên nó, kể cả những lúc lang thang trên chiến trường. Nhiều lúc đối mặt với quân thù, tôi cảm thấy như nghẹn thở vì căm hờn và đau xót.
Thảo lại thở dài:
- Tôi căm hờn vì chúng nó đã làm tan nát gia đình tôi. Nhưng tôi đau xót vì kẻ thù thực sự đang ở trong những dinh thự sang trọng ngoài miền Bắc hay trong những căn hầm kiên cố trong chiến khu, còn cái bọn đang chĩa súng vào tôi cũng chỉ là những công cụ đáng thương mà thôi. Biết đâu, trong số nầy, có cả bạn bè hay người yêu của con Hải Đường nữa.
- Tôi nhớ, trước đây, lúc còn ở trong quân trường, anh cũng đã nói như thế với tôi và Bính rồi. Anh còn tâm sự rằng nguyện vọng lớn nhất của anh là giải phóng miền Bắc để tháo bỏ gông cùm cộng sản cho em gái anh và cho đồng bào mình ngoài đó. Bây giờ anh còn ý định đó hay không?
- Tôi vẫn còn giữ nguyên vẹn lòng mong muốn giải phóng miền Bắc để tôi về tìm lại em gái tôi và tìm mồ mả cha mẹ tôi. Nhưng làm cách nào để giải phóng miền Bắc? Ý nghĩ của tôi bây giờ có khác hơn lúc còn ở quân trường.
- Khác thế nào?
- Lúc đó, mình còn ngây thơ lắm, chưa thực sự hiểu rõ chiến tranh. Bây giờ, sau nhiều năm chinh chiến, mình đã chứng kiến nhiều. Chiến tranh quá tàn khốc, bom đạn thì vô tình và mù quáng, đâu có phân biệt được kẻ tốt người xấu, binh sĩ hay dân thường. Giải phóng miền Bắc là điều rất tốt, nhưng trút nổi thống khổ của chiến tranh lên đầu nhân dân miền Bắc như cộng sản đã gây ra cho nhân dân miền Nam thì tôi không cam lòng.
Thảo nhìn thẳng đôi mắt của Tân và nói tiếp:
- Tôi căm thù cộng sản nhưng tôi không muốn chiến tranh tràn ngập cả miền Bắc. Anh Tân có cho đó là điều mâu thuẫn không?
Tân sực nhớ lại cái đêm trong quán ăn, ngồi nói chuyện với anh chàng tên Thành, làm việc trong tòa hành chánh tỉnh Kiến phong, nên vội vã trả lời:
- Không mâu thuẫn chút nào cả. Tôi và rất nhiều người khác đều có tâm trạng như anh. Chúng ta khác với cộng sản ở chỗ đó.
Tân bưng ly bia uống một ngụm rồi hỏi:
- Theo anh, chúng ta làm thế nào để giải phóng miền Bắc, nếu không dùng giải pháp chiến tranh?
Thảo lắc đầu:
- Tôi nghĩ chưa ra và có lẽ cả thế giới nầy chưa ai nghĩ được một biện pháp nào cho ổn thỏa. Cộng sản chiếm được miền Bắc hơn mười lăm năm rồi. Họ đã củng cố được chính quyền của họ một cách vô cùng vững chắc.
- Anh có hi vọng một ngày nào đó, dân chúng hết chịu nổi sẽ đứng lên để lật đổ chế độ?
Thảo lại lắc đầu:
- Không thể nào được. Tôi đã từng sống với cộng sản, tôi đã từng chứng kiến sự kiểm soát của họ đối với từng người dân. Lực lượng công an của họ hoạt động rất hữu hiệu. Họ kiểm soát dân bằng cách xúi dân theo dõi lẫn nhau. Hàng xóm theo dõi nhau, vợ chồng, con cái theo dõi nhau, thế thì còn nhúc nhích vào đâu được. Đó là lúc tôi còn sống ngoài đó. Đến ngày nay, thêm mười năm nữa thì sự kiểm soát còn ghê gớm biết chừng nào mà kể.
Thảo dừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Vừa rồi, tôi có đi dự một buổi nói chuyện của một cán bộ Việt cộng do bộ thông tin chiêu hồi tổ chức. Anh ta bảo rằng, ở miền Bắc, đảng chăm lo từng chén cơm, từng trái cà trong bữa ăn của nhân dân. Điều đó có nghĩa là trong bữa ăn của gia đình từng người dân, có bao nhiêu chén cơm, có bao nhiêu trái cà, đảng cũng biết hết. Thế thì dân còn cách nào để nổi loạn nữa.
Thảo cố nén một tiếng thở dài:
- Trong tình hình nầy chỉ có một phép mầu mới cứu được nhân dân miền Bắc.
- Anh tin vào một phép mầu à?
- Không, tôi không tin vào một phép mầu vì tôi chẳng theo tôn giáo nào. Tôi luôn luôn nghĩ đến em Hải Đường của tôi, mong muốn gặp lại nó một lần và tôi đau đớn vì biết điều đó hoàn toàn vô vọng. Nếu tôi tử trận ngoài chiến trường thì tôi sẽ trút bỏ tất cả cho thế gian nầy và chỉ mang theo nỗi tuyệt vọng đó sang bên kia thế giới. Nhưng thôi, chúng ta không nên nói đến chuyện buồn nữa. Hôm nay là ngày vui của anh chị Tân, ngày đầy năm của em bé mà.
Thảo nói xong cố nở một nụ cười. Tân hỏi:
- Hôm nào anh trở lại đơn vị?
- Ngày mai kết thúc cuộc hội thảo, ngày mốt tôi lên đường.
- Thế thì chiều mai anh ghé đến chơi với chúng tôi một lần nữa nhé.
- Vâng tôi xin nhớ nhưng không thể hứa trước với anh được. Sau khi kết thúc hội thảo, anh em thường kéo nhau đi chơi. Quanh năm suốt tháng ở chỗ đèo heo hút gió, lâu lâu mới có dịp về thủ đô, phải ăn chơi để vớt vát phần nào cái tuổi thanh xuân của mình.
- Nếu sau nầy có dịp về Sài gòn, anh nhớ ghé chúng tôi nhé.
- Vâng, điều đó thì tôi hứa được.
Bữa ăn kết thúc, hai thiếu tá lên xe trở về ngay bộ tổng tham mưu.