- Thầy Tân ơi, dậy đi, Việt
cộng tấn công tới rồi. Chuẩn bị một ít đồ đạc
mà chạy.
Tiếp theo tiếng la là tiếng đập
cửa ầm ầm. Tân vội bước xuống giường phóng ra mở
cửa. Trời đã sáng hẳn, nắng đang lên. Tân nhìn sang
bên cạnh. Bác Sáu Rô ở nhà kế cận, vừa qua đập cửa
gọi Tân và đang trở về nhà mình. Bác đứng dưới mái
hiên nói sang:
- Việt cộng đánh vào tới thành
phố rồi. Thầy có nghe tiếng súng không?
- Có, lúc gần sáng cháu có nghe
nhiều loạt súng nổ xa xa và cháu cứ nghĩ lính mình bắn
chơi để mừng Tết. Nhưng sao bác biết Việt cộng tấn
công?
- Tôi bắt đài phát thanh nghe.
Việt cộng vào thủ đô bằng nhiều mặt lắm. Các tỉnh
khác cũng bị tấn công. Nguy rồi thầy ôi. Thầy lo thu
xếp đồ đạc đi. Đồ gì quí giá cho vào một bao cho
gọn. Chắc chắn Việt cộng đến đâu cũng đốt nhà để
gây hỗn loạn. Hễ họ tới thì mình vác bao chạy, ở
lại nếu không bị họ giết thì máy bay mình bỏ bom cũng
tiêu đời.
Đúng lúc đó, có tiếng xe gắn
máy từ đầu hẻm tiến vào. Một người rú máy phóng
nhanh đến và thắng gấp ngay trước cửa nhà. Tân la to:
- Anh Thế.
Thiếu tá Thế ngồi trên xe, nói
vội vàng:
- Anh Tân, Việt cộng tràn vào
thành phố rồi. Tiên sư cái bọn lật lọng. Tuyên bố
ngưng chiến để dân ăn Tết rồi lợi dụng tiếng pháo,
lén đem quân vào các thành phố đông dân. Thiệt là một
bọn dối trá, giết người.
- Anh ở đâu đến đây?
- Ở nhà. Tôi vào tổng tham mưu
từ chiều hôm qua, theo dõi tin tức ở một số thành phố
đang đánh nhau với Việt cộng. Đến khuya tôi về nhà
với vợ con vì thấy tình hình có vẻ khả quan và vì
khối chiến tranh chính trị của tôi không có việc gì
phải làm. Gần sáng, mở máy thu thanh mới biết đêm rồi
chúng nó tiếp tục xâm nhập vô Sài gòn và nhiều thành
phố nữa. Thực là bọn đầu trâu mặt ngựa, lựa lúc
đồng bào vui Tết mà gây cảnh chém giết trong các khu
đông dân. Chán quá, mình phải đánh nhau với bọn vô
liêm sỉ, không có chút nào tinh thần thượng võ.
- Anh có nghe Việt cộng tuyên bố
gì trên đài Hà nội và đài Giải phóng không?
- Ông ngoại cháu Thảo có nghe.
Hình như tụi nó bảo chiếm hết miền Nam rồi. Tôi không
dám nghe vì mình có thể nổi tức không dằn được, đập
vỡ cái radio thì phí của mình đi.
- Anh đi đâu sớm vậy? Vào đây
một chút.
- Không, tôi phải vào tổng tham
mưu ngay bây giờ. Nhật lệnh của Đại tướng lặp đi
lặp lại kêu gọi tất cả quân nhân trở về đơn vị
tức khắc.
- Việt cộng vào có đông lắm
không?
- Chưa biết rõ, đài phát thanh
chỉ nói đại khái thôi. Có một cánh quân của chúng
băng sông Sài gòn vào vùng Gia định; một cánh từ Bình
chánh tràn vào Phú lâm và Chợ lớn; một cánh từ rừng
sác qua ngã Nhà bè và vài tên không rõ từ hướng nào
vào đến tận tòa đại sứ Mỹ để tấn công.
- Tình hình có nguy ngập lắm
không?
- Không đến đổi nào. Bên mình
không ngờ chúng lật lọng và vô liêm sỉ đến cỡ nầy
nên cho lính đi phép quá nhiều. Vì vậy, chúng có ưu thế
trong một hai ngày đầu thôi. Rồi các lực lượng mình
sẽ tập trung trở lại thì chúng sẽ bị tiêu diệt.
- Bây giờ tụi em phải làm gì
đây hả anh?
Tân giật mình quay lui, Thùy Liên
đang đứng tựa cửa, vẻ mặt đầy lo lắng. Thiếu tá
Thế đáp một cách ôn tồn:
- Trước hết là bình tĩnh. Việt
cộng đã xâm nhập vào nơi nào rồi thì chưa rõ lắm.
Mọi người nên ở trong nhà. Chính phủ đã ban lệnh giới
nghiêm trên toàn lãnh thổ rồi. Ngoài đường bây giờ,
chỉ có xe tuần tiểu thôi. Nên gói ghém đồ đạc lại,
tiền bạc nữ trang cho vào một bọc nhỏ. Nhớ là Việt
cộng sẵn sàng dùng biện pháp khủng bố, nghĩa là đến
đâu thì đốt nhà đến đó. Chúng sẽ tìm cách chui vào
các khu lao động như ở đây chẳng hạn vì các khu nầy
đường sá chật hẹp, dân cư đông đúc, rất khó cho
chúng ta hành quân tiêu diệt. Tôi qua đây nhờ anh Tân
theo dõi tình hình. Nếu phải bỏ chạy thì cố gắng qua
giúp đỡ gia đình tôi. Tội nghiệp, chỉ có ông già, phụ
nữ và trẻ nhỏ thôi.
Thùy Liên lo lắng:
- Bây giờ anh đi đâu?
Thế cười:
- Đi đánh Việt cộng. Tôi vào
trình diện nhiệm sở ngay bây giờ. Tôi qua thông báo tình
hình cho anh Tân rõ để đối phó rồi đi ngay.
- Anh chưa mặc quân phục mà.
Thế chỉ một gói cột ở sau
xe:
- Quân phục trong nầy, vào tổng
tham mưu mới thay. Tình hình trên các con đường chưa biết
thế nào, mặc thường phục đi thì yên tâm hơn.
- Nhưng gặp lính tuần tiểu
ngoài phố thì sao?
- Không sao, tôi có mang theo giấy
tờ tùy thân đây. Gặp phe ta thì không lo, chỉ sợ gặp
Việt cộng thôi. Bị mấy ảnh vớ được thì khốn nạn
cái cuộc đời.
Thiếu tá Thế quay lại nhìn Thùy
Liên:
- Liên hãy bình tĩnh nhé, đừng
quá hoảng hốt, gây ảnh hưởng xấu đến em bé trong
bụng. Cô nên nhớ rằng anh Tân cũng đã là sĩ quan và đã
từng lăn lóc ngoài chiến trường. Cứ tựa vào đó thì
yên tâm.
Thùy Liên nói với giọng nhỏ
nhẹ:
- Cám ơn anh. Theo anh thì em có
nên vào trình diện tổng y viện Cộng hòa ngay hôm nay
không?
- Không cần. Quân đội chỉ
triệu tập quân nhân mà thôi. Cô đâu phải là quân nhân.
- Nhưng em là nhân viên ở một
cơ quan của quân đội.
- Tôi vào tổng tham mưu rồi sẽ
liên lạc qua tổng y viện. Nếu cần thì tôi sẽ cho xe về
đưa cô đi trình diện.
Thiếu tá Thế nói xong quay xe
lại, đạp máy và tiến nhanh ra đường cái. Hai vợ chồng
vào nhà, khép cửa lại.
Thùy Liên lo lắng hỏi chồng:
- Bây giờ làm gì đây anh?
Tân nhún vai:
- Chẳng làm gì cả. Ngồi yên mà
chờ đợi tình hình biến chuyển. Anh phải đi gói ghém
tiền bạc, nữ trang và vài món đồ dùng cần thiết
trước đã.
Thùy Liên vẫn giữ nguyên vẻ lo
lắng:
- Anh Tân, không biết ở Cần
thơ, tình hình ra sao. Việt cộng có tràn vào chiếm làng
xóm em dưới đó hay chưa? Em lo quá. Anh Tân, kỳ nầy đất
nước mình có thể mất vào tay cộng sản hay không?
Tân kéo vợ ngồi xuống bên
mình, âu yếm vỗ về:
- Thôi đừng lo nữa vì lo cũng
vô ích. Miền Nam còn mạnh lắm, chưa mất được đâu.
Em không nghe anh Thế vừa nói khi nãy sao? Chúng ta chỉ
thất thế lúc đầu vì không lường được sự tráo trở
của cộng sản, nhưng rồi mình cũng sẽ tập họp được
các đơn vị lại để đuổi họ ra khỏi các đô thị.
- Không thể tránh khỏi thương
vong phải không anh?
- Chắc chắn, cuộc chiến Tết
Mậu thân này sẽ có rất nhiều người chết, trước hết
là thường dân vô tội. Anh đã từng đánh nhau với Việt
cộng trong các làng xóm xa xôi và đã chứng kiến nhiều
thường dân chết oan vì bom đạn của cả hai bên, dù ở
các nơi đó, dân cư thưa thớt, có ý thức về nguy cơ
nên đã đào hầm trú ẩn. Nay Việt cộng đưa chiến
tranh đến tận các thành phố đông đúc, dân chúng phơi
lưng ra trước súng đạn thì thương vong sẽ vô cùng
khủng khiếp. Dù với chiến thuật nào đi nữa thì đó
là một tội ác khó biện minh được.
Tân dừng lại một chút, thở ra
rồi nói tiếp:
- Ngoài dân chúng ra, bộ đội
của họ cũng phải chết nhiều lắm. Từ đầu cuộc
chiến đến nay, chiến thuật của Việt cộng là vừa
đánh, vừa né tránh. Anh thấy điều nầy rất rõ lúc còn
đi hành quân. Quân đội chính qui mình đi đến đâu thì
họ bỏ trốn đến đó, rồi thừa dịp mình không đề
phòng, phục kích đánh một trận rồi bỏ chạy. Khôn
lanh như thế mà còn bị phi cơ và pháo binh tàn sát một
cách rùng rợn. Bây giờ, chường mặt ra ở đô thị với
địa thế chưa quen biết thì chịu sao nổi với hỏa lực
của quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Thùy Liên nhìn chồng với vẻ
ngây thơ:
- Có lẽ Việt cộng điên rồi.
Hay là trong đợt oanh kích vừa qua vào miền Bắc, Mỹ đã
sử dụng loại vũ khí nào đó làm cho các lãnh tụ cộng
sản hóa điên hết rồi. Nếu quả thực như thế thì
đáng sợ anh nhỉ?
- Em khéo tưởng tượng, làm gì
có loại vũ khí đó. Họ còn ranh ma lắm chưa hóa điên
đâu. Miền Nam còn khốn đốn với họ dài dài.
Tân thôi nói, ngồi gật gù một
chốc rồi lẩm bẩm:
- Kể ra thì đó cũng là lẽ công
bình.
Thùy Liên ngạc nhiên;
- Anh Tân, anh nói công bình cái
gì vậy?
- Anh đã từng hành quân vào các
làng mạc ở đồng quê và đã biết rõ nỗi cơ cực mà
chiến tranh gây ra cho đồng bào mình dưới đó. Về Sài
gòn, anh thấy thiên hạ phây phây như không hề biết cuộc
chiến tranh đang ác liệt ở cả hai miền Nam Bắc. Thiên
hạ vẫn cứ ăn chơi, vũ trường đêm đêm vẫn xập xình
tiếng nhạc, từng cặp trai gái vẫn lả lướt trên sàn
nhảy.
Tân ngừng lại, móc thuốc ra hút
rồi tiếp:
- Lúc còn nằm ở quân y viện
Cần thơ, có một thương binh là thiếu úy Hiển bảo rằng
phải tỏ ra khoan dung với những kẻ ăn chơi hưởng thụ
đó. Anh chịu thua, không thể nào cao thượng như thiếu
úy Hiển nên không thể nào dẹp đi được nỗi buồn
phiền. Tại sao trên cùng một đất nước đang bị nguy
cơ của cộng sản mà thân phận của dân quê và dân
thành thị khác nhau đến thế. Việt cộng đưa chiến
tranh vào thành phố vì mục tiêu chiến thuật chiến lược
gì thì anh chưa rõ, nhưng điều đó giúp cho dân thành phố
nếm mùi chiến tranh để chia sẻ phần nào thân phận con
người với dân quê. Đó không phải là lẽ công bình
sao?
- Anh trách người dân thành thị
không biết chia sẻ nỗi cơ cực vì chiến tranh với người
dân quê phải không?
Tân gật đầu. Thùy Liên nói như
muốn khóc:
- Em cũng là người thành thị.
Quê em là Bình thủy cũng thuộc thành phố Cần thơ. Em
lớn lên, đi học rồi ra làm việc luôn tại đô thị, em
chưa bao giờ về sống tại đồng quê để chia sẻ thân
phận đồng bào mình dưới đó. Em là một trong những
người thành phố đáng ghét mà anh vừa mới nói, phải
không anh?
Tân chưng hửng nhìn Thùy Liên
một chốc rồi ôm đầu nàng áp vào ngực mình:
- Thùy Liên em, anh không bao giờ
trách em đâu. Anh trách những người chỉ biết ăn chơi ở
thành phố. Em là cô gái của đô thị nhưng em đã đau
khổ quá nhiều do cuộc chiến tranh của cộng sản gây
ra. Em đã mất mối tình đầu đời vì chiến tranh. Hàng
ngày, em đã đổ biết bao nước mắt vì những vết
thương mà chiến trường để lại trên cơ thể của
thương binh. Tình nghĩa vợ chồng của mình không phải
xuất phát từ nỗi bất hạnh mà chiến tranh đã gây cho
anh hay sao? Không, Thùy Liên ạ, kể về thân phận con
người trong chiến tranh, không ai có thể trách móc em
được. Trái lại, em là người con gái biết đau khổ,
đáng yêu, đáng quí vô ngần!
Thùy Liên khóc thút thít:
- Em cảm ơn anh. Em nói thế chứ
dù anh có trách em, có ghét em đi nữa thì em vẫn yêu anh
mãi mãi.
- Nhưng tại sao em khóc?
- Em lo cho ba má, gia đình anh chị
Hai và hai thằng em trai dưới đó. Theo anh thì Việt cộng
có thể tràn vào Cần thơ theo ngã Bình thủy không?
- Phải đợi anh Thế về mình
hỏi thì mới biết, nhưng theo sự suy luận của anh, Việt
cộng không chọn ngã đó để tấn công Cần thơ.
- Tại sao vậy?
- Vì khó qua được phi trường
Trà nóc. Em cũng biết Việt cộng lợi dụng dịp Tết,
Việt Nam Cộng hòa không phòng thủ vì hưu chiến theo thỏa
thuận ngầm giữa đôi bên. Lính Mỹ thì đâu có ăn Tết,
đâu có gia đình ở đây mà về phép. Họ vẫn túc trực
một trăm phần trăm tại nơi đồn trú. Việt cộng đụng
vào họ thì tan xương. Anh biết phi trường Trà nóc là do
Mỹ xây dựng với một phi đạo dùng cho phi cơ phản lực
lên xuống. Nếu có cánh quân nào tiến vào Bình thủy thì
ắt phải đụng với lực lượng hỗn hợp Việt Mỹ tại
đó thì không tài nào vượt qua được. Có lẽ Việt cộng
chọn đường Cái răng hay một đường khác để xâm nhập
trung tâm thành phố. Em đừng quá lo.
Tân ngưng nói, cúi đầu thở
dài. Vài phút sau, cậu ngẩng lên, đôi mắt thực buồn
bã:
- Thùy Liên em, anh ngao ngán chiến
tranh quá rồi. Gần hai năm nay anh nghĩ rằng mình đã từ
giã vũ khí về lo dạy học và xây dựng gia đình với
em. Trời hỡi, bây giờ chiến tranh lại theo vào đây! Sẽ
có những thây người co quắp trên đường phố! Đó là
thân xác của đồng bào vô tội, thân xác của những
đồng đội đáng thương, cả thân xác của những người
một thời từng là đồng chí của anh.
Cậu đứng dậy, nện mạnh gót
chân trên suốt bề dọc của gian nhà rồi kéo chiếc ghế
đến bên cửa sổ, ngồi xuống thẩn thờ nhìn ra bên
ngoài, lòng ngổn ngang bao nỗi buồn phiền.
Bỗng cậu giật mình vì một bàn
tay vuốt nhẹ trên tóc, mũi cậu sực nức hương thơm
ngào ngạt. Cậu từ từ quay lại, nắm lấy tay Thùy Liên
và áp nhẹ mặt mình vào cái bụng no tròn, bên trong chứa
sản phẩm của một tình yêu tuyệt vời. Thùy Liên cúi
xuống mỉm cười:
- Anh Tân, mặc kệ thiên hạ,
mình đừng thèm quan tâm đến chiến tranh nữa anh nhé.
Tân đứng dậy:
- Đúng rồi, mặc kệ thiên hạ.
Vợ chồng mình hãy tiếp tục ăn Tết với nhau. Em dọn
thức ăn ra đi. Anh có chai rượu mà anh có ý để dành
cho một dịp lớn, bây giờ khui ra đi, anh sẽ uống với
em.
- Nhưng anh Tân, em đang mang thai
đâu có uống được. Người ta bảo, mẹ có bầu mà uống
rượu thì sau nầy đứa con dễ bị động kinh.
- Được rồi, em cứ dọn ra đi.
Anh uống thay cho em và cả cho con nữa. Một ly cho anh, một
ly cho em rồi một ly cho con, cứ vòng vòng như thế cho đến
khi chúng mình say, xem chuyện thiên hạ như cỏ rác mới
thôi.
Thùy Liên tuân lời, vội vã dọn
thức ăn ra.
Quả thực, sau bữa ăn, Tân say
mèm, đến độ Thùy Liên phải dìu cậu vào giường. Được
một điều hay là khi say, Tân tốt tính nghĩa là không có
cử chỉ hay lời nói xằng bậy mà nằm yên ngủ vùi.
Dọn dẹp xong, Thùy Liên đứng
dậy, cảm thấy khá mệt mỏi. Gian nhà bỗng trở nên
vắng lặng. Bên ngoài có tiếng người í ới, thỉnh
thoảng có tiếng xe chạy xa xa. Thùy Liên cảm thấy lo
lắng. Nỗi lo một lúc một lớn dần. Nàng nghĩ thầm:
“Nếu giờ nầy, giặc đến đây mà anh Tân còn say thế
nầy thì làm sao đây?”. Nàng hối hận đã để cho chồng
quá chén. Lúc đó nàng muốn cho chồng đừng nghĩ đến
chiến tranh nữa. Nhưng làm sao đừng nghĩ đến được
khi chiến tranh đã bò đến thành phố, nằm lơ lửng đâu
đó và có thể đổ ập xuống đầu lúc nào không biết.
Nàng bước ra phía trước nhìn
ra ngoài qua khung cửa sổ. Cảnh vật có vẻ bình yên và
vắng lặng hơn ngày thường. Nàng quay vào, mở cái bao
ra, nhét thêm hai bộ quần áo, một của nàng và một của
chồng. Xong, nàng cột bao lại cẩn thận và vào buồng,
nhìn chồng vẫn ngủ say. Nàng định leo lên nằm cạnh
nhưng lòng bồn chồn quá nên thôi.
Nàng mở cửa bước ra ngoài gọi
to:
- Bác Sáu ơi, bác Sáu.
Nàng gọi đến lần thứ hai thì
ông già láng giềng bước ra, hỏi:
- Gì đó cô?
- Bác có nghe tin gì thêm không?
- Chẳng có gì lạ. Vẫn đánh
nhau nhưng tiếng súng mỗi lúc một xa hơn. Có lẽ Việt
cộng đang bị đuổi ra khỏi thành phố. May quá, nhờ
Trời Phật độ trì nên chúng mình được yên ổn, không
bị bọn quỉ đến quấy phá.
- Thành phố còn giới nghiêm
không bác?
- Vẫn còn, nhưng ai có việc đi
lại cũng không bị làm khó dễ gì, miễn là đừng đến
gần những vùng mà quân đội đang hành quân để truy
kích Việt cộng, Nghe nói trong đồng Ông Cộ bên Gia định,
trong Chợ lớn, Phú lâm và bên Chánh hưng đang đánh to
lắm. Nhiều chỗ họ đốt nhà trước khi rút đi như thời
Bình xuyên vậy.
- Sao bác biết rõ vậy?
- Thằng Tí nhà tôi mới chạy đi
coi về.
- Có tin gì khẩn cấp hay tình
hình trở nên nguy hiểm thì bác gọi cháu với nghe bác
Sáu.
- Ừ được rồi, cô cứ yên
tâm. Mà thầy Tân đi đâu rồi?
- Ảnh vừa uống rượu say, ngủ
vùi trong nhà.
- Chà chà, ngon quá hé. Giặc tới
mà dám uống rượu cho say, chịu chơi thiệt. À, hay là
thầy Tân uống mừng đảng ta vô thăm thành phố. Sao
không chờ mấy anh đó đến đây mời uống cho vui.
Thùy Liên cười:
- Dạ, anh Tân cũng muốn như vậy
nhưng đợi mãi chẳng thấy mấy anh ấy xuất hiện nên
đành uống một mình.
- Hà hà, nếu không thấy mấy
ảnh tới sao không gọi tôi. Uống một mình đâu có vui.
Bác Sáu cười khà khà rồi trở
vào nhà. Thùy Liên cảm thấy bớt lo. Nàng đi rửa chén
bát, quét nhà xong, nhẹ nhàng lên nằm cạnh chồng.
Đến xế chiều, Tân thức dậy,
mở mắt ra, thấy vợ đang ngồi chải tóc bên bàn trang
điểm. Trông nàng thực tươi, Tân nhìn không chán mắt.
Thùy Liên quay sang thấy chồng, nàng nhoẻn miệng cười:
- Anh dậy rồi à? Có nhức đầu
không, em lấy thuốc cho uống.
- Không, anh chẳng sao cả, ngủ
một giấc, chẳng biết trời trăng gì. Tình hình thế
nào, Việt cộng đi tới đâu rồi?
- Việt cộng mới qua đây nè, có
ghé chào anh để về Hà nội và hẹn ngày tái ngộ.
Tân cười:
- Nghe em khôi hài thì anh biết
tình hình sáng sủa rồi. Không biết họ rút về chiến
khu hết chưa. Anh Thế có trở về hay không?
- Không thấy. Chắc chắn quân
đội cấm trại một trăm phần trăm, anh ấy ở luôn
trong tổng tham mưu rồi.
- Ngoài đường ra sao?
- Hình như thiên hạ có đi lại
nhưng ít thôi. Em đợi anh dậy để qua thăm bác Tư và
chị Bạch Mai.
- Ừ nhỉ, đợi anh tắm xong thì
đi.
Tân vùng dậy, chui vào buồng tắm
dội nước ào ào. Vài phút sau, hai vợ chồng khóa cửa
bước ra ngoài. Đường phố vắng tanh, nhà nhà đóng kín
cửa, vài bộ hành rảo bước trên lề đường. Nhà Bạch
Mai khóa cửa kín mít, Tân gọi đến hai lần thì cửa sắt
mới được Bạch Mai kéo ra. Hai vợ chồng lách vào xong
thì cửa đóng lại ngay.
Tân hỏi vội:
- Anh Thế có trở về không?
Bạch Mai trả lời:
- Không, đi từ sáng tới giờ
chưa về. Khi trưa, anh Thế có nhờ một ông trung úy trên
xe tuần tiểu ghé ngang nhắn lại là anh ấy phải ở lại
tổng tham mưu vì lệnh cấm trại một trăm phần trăm.
Tân quay sang Thùy Liên:
- Em không phải là dân nhà binh
mà đoán hay thật.
Thùy Liên cười:
- Em không phải là dân nhà binh
nhưng làm việc với nhà binh hơn hai năm trong quân y viện
nên quen với sinh hoạt của bên quân sự rồi.
Nàng quay sang Bạch Mai:
- Chị Mai, ông trung úy có nói
tình hình ra sao không?
- Ông ấy chỉ nói sơ sơ rằng
Việt cộng vào bằng nhiều ngã lắm nhưng đánh đá chẳng
ra làm sao cả. Bên mình đang dần dần kiểm soát được
tình hình. Có lẽ đến đây là Việt cộng hết sức rồi,
không thể mở rộng thêm chiến tuyến trong thành phố
được, nói chi đến chuyện chiếm hết thủ đô như họ
rêu rao trên đài phát thanh Hà nội và đài Giải phóng.
Cả đài Mạc tư khoa và đài Bắc kinh cũng rêu rao như
thế. Bọn cộng sản thì nơi nào cũng toàn lời lẽ láo
toét để lừa gạt dư luận.
Tân hỏi Bạch Mai:
- Bác Tư đâu rồi?
- Ba em nằm trên phòng ôm riết
cái radio mà nghe.
- Bác có nhận xét thế nào về
cuộc tấn công nầy của Việt cộng?
- Từ sáng đến giờ, ba em không
nói gì cả nhưng trông ông có vẻ buồn.
Thùy Liên chen vào:
- Cũng như anh Tân của em vậy,
nghe bên nào chết, cũng buồn, cũng khổ.
- Hầu hết người miền Nam mình
đều thế cả. Chỉ có cộng sản mới mừng rỡ trước
cái chết của người khác. Nghe giọng điệu của họ
trên đài phát thanh mà kinh tởm.
- Ấy thế mà trong nước cũng
như ở ngoại quốc, vẫn có nhiều người thích và tin
theo lời truyên truyền của họ.
Bạch Mai gật đầu:
- Thế gian nầy bị quỷ ám mất
rồi.
Tân và Thùy Liên ngồi nói chuyện
một lát với Bạch Mai rồi ra về.
Đêm đó và sáng mồng ba, tình
hình tại nơi Tân ở khá yên tĩnh. Từ sáng mồng bốn
trở đi sinh hoạt bắt đầu rộn rịp trở lại. Tuy
nhiên, Tân và Thùy Liên vẫn không bước chân ra khỏi
nhà.
Chiều mồng năm, có tiếng gọi
của thiếu tá Thế ngoài trước. Hai vợ chồng mừng rỡ
chạy ra. Thùy Liên hỏi ríu rít:
- Anh Thế được về nhà rồi
hả, hết cấm trại rồi sao?
- Không, vẫn còn cấm trại,
nhưng xin về thăm mấy mẹ con một chút.
- Vì nhớ mấy mẹ con quá chừng,
đúng không?
Thiếu tá Thế cười:
- Thì hẳn là vậy rồi.
- Sao anh ngồi trên xe mãi vậy.
Xuống đi, vào nhà em chơi chút đã.
- Không được, tôi phải về
ngay. Khi nãy Bạch Mai và hai đứa bé thấy tôi về thì vồ
ngay lấy, suýt nữa cả ba mẹ con dùng dây trói gô tôi
lại để tôi khỏi phải đi tiếp. Tôi chạy qua đây mời
anh Tân và Thùy Liên qua nhà để dùng cơm. Bạch Mai đang
sửa soạn cúng đưa tiễn ông bà về Trời.
Thùy Liên ngạc nhiên:
- Sao bữa nay mới đưa ông bà.
Hôm nay mồng năm rồi. Theo tục lệ, đưa ông bà chiều
mồng ba chứ.
Thế cười:
- Mồng ba bị Việt cộng chận
đường, ông bà không về được, đành phải trễ phép.
Tân nói:
- Năm nay, ông bà về với con
cháu, gặp chuyện quá xui xẻo, có lẽ về trời, ông bà
cũng buồn lắm.
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Buồn lắm chứ, thấy quá nhiều
xác chết của con cháu. Thế nào ông bà cũng báo cho
Thượng đế rõ Tết Mậu Thân, Việt cộng tràn vào các
thành phố.
- Và lập tức Thượng đế ban
lệnh cấm trại một trăm phần trăm, đề phòng Việt
cộng thừa thắng xông lên!
Thiếu tá Thế cười ha hả:
- Hai ông bà sang ngay lập tức
nhé. Tôi có chuyện quan trọng cần báo cho anh Tân biết.
Thùy Liên đáp lời một cách vui
vẻ:
- Vâng, anh về trước, tụi em
sang ngay.
Một lúc sau, mọi người quây
quần quanh bữa ăn tiễn ông bà mà cũng là bữa ăn tân
niên ở nhà Bạch Mai.
Bạch Mai mặc bộ áo quần màu
vàng trông thực sang trọng. Thùy Liên cười, bảo:
- Chị Mai mặc bộ đồ đẹp
quá. Chị mới mặc lần đầu phải không?
Bạch Mai gật đầu:
- Mới may xong hôm hai mươi tám
Tết, chưa kịp mặc đã phải thồn vô bao để kịp chạy
giặc. Thấy anh Thế về mới lôi ra đây.
Thiếu tá Thế quay sang cười:
- Ừ, có áo quần đẹp thì cứ
mặc đi. Đợi đến lúc mấy anh Việt cộng vào đây thì
chỉ có áo bà ba đen, quần xà lỏn với dép râu mà thôi.
Tân nghiêm mặt hỏi:
- Anh Thế, bây giờ Việt cộng
ra sao rồi?
- Coi như bị đánh bật ra khỏi
tất cả các thành phố miền Nam, ngoại trừ cố đô Huế.
Không biết ngoài đó phòng thủ cách gì mà chỉ trong đêm
giao thừa, cộng sản chiếm trọn thành phố, chỉ trừ
một vài căn cứ quân sự quan trọng như đồn Mang cá mà
thôi.
- Họ có cướp bóc hãm hiếp gì
không?
- Tin tức nhận được từ một
số người trốn thoát được thì quá ít và không rõ
ràng. Không có tin nào về sự cướp bóc và hãm hiếp của
bộ đội miền Bắc. Tuy nhiên thành phố hết sức điêu
tàn và trong vài ngày tới có thể chịu nhiều tang tóc.
- Tại sao vậy?
- Tin tình báo cho hay, Việt cộng
đang tập trung nhiều người để thanh lọc. Việt cộng
đang truy tìm quân nhân công chức để giết chết. Dân
thường mà bị họ ghét hay nghi ngờ cũng tiêu luôn.
- Rồi mình đành chịu để cho
họ tiến hành thảm sát thế sao?
- Bộ tổng tham mưu đang tung cả
hai sư đoàn tổng trừ bị ra giải phóng cố đô để cứu
đồng bào mình ngoài đó. Trung ương cũng đang tăng cường
không quân cho quân đoàn Một. Tuy nhiên mình không dám làm
mạnh tay vì chúng nó ở lẩn trong dân chúng. Không quân
cũng rất dè dặt, không dám ném bom nhiều, sợ hư những
di tích lịch sử của cố đô. “F5” của mình chỉ bay
sát rạt trên các nóc nhà để hù dọa chúng nó và để
nuôi hi vọng cho dân chúng thôi. Thật là khốn khổ cho
người dân xứ Huế. Thế mà mấy hôm nay cộng sản cứ
rêu rao dân chúng ăn mừng vì Huế được giải phóng rồi!
Thùy Liên rụt rè:
- Anh Thế, Cần thơ thế nào?
- Cũng như những thành phố khác,
họ có xâm nhập vào nhưng nội trong một ngày bị đánh
bật ra mà chưa kịp gây thiệt hại đáng kể. Tôi không
nhận được tin tức nào quan trọng về sự hoạt động
của Việt cộng ở Cần thơ. Như vậy có nghĩa là chẳng
có gì đáng lo. Ngày mai, anh Tân đi đánh diện về dưới
đó hỏi thăm tin tức và báo cho gia đình biết trên nầy
mình bình an.
Tân hỏi:
- Những ngày qua, số người chết
có nhiều lắm không?
- Dân chết bao nhiêu thì chưa
thống kê được. Nặng nhất là Huế. Lính của mình thì
chết rất ít so với binh sĩ của Việt cộng. Họ chết
nhiều lắm. Nhiều nơi, họ cứ xõng lưng đi vào để ăn
đạn. Thực là đáng ngạc nhiên. Bộ đội Việt cộng
nổi tiếng là thiện chiến và quỷ quyệt nhưng tại sao
nhiều tên tỏ ra khù khờ một cách khó hiểu. Về sau,
khai thác tù binh mới biết, có những đơn vị mới xâm
nhập vào trong Nam chưa đánh trận nào và được cấp chỉ
huy của họ bảo rằng vào đây để “tiếp thu” miền
Nam. Thế là cứ thẳng lưng vác súng vào mà “tiếp thu”.
Mặt khác, họ chưa chuẩn bị kỹ đã xua quân vào một
cách ồ ạt. Đây cũng là điều lạ lùng. Từ xưa đến
nay, muốn đánh chỗ nào thì họ điều nghiên rất kỹ
rồi mới ra tay. Nay thì rõ ràng khác hẳn. Họ thí quân
một cách điên rồ. Nhiều toán quân vào thành phố mà
chẳng thông thuộc đường lối. Thiếu liên lạc, thiếu
người hướng dẫn, cứ mò mẫm mà đi. Đại liên thì
một anh vác nòng, một anh vác chân, một anh vác đạn, ba
người đi ba chỗ khác nhau và cuối cùng gặp nhau trong
trại tù binh hay dưới âm phủ.
- Các cấp lãnh đạo của cộng
sản không tiên đoán được tình huống nầy sao?
- Có lẽ có nhưng chúng cứ làm.
Khi cần thì chúng sẵn sàng thí quân một cách không
thương tiếc. Đó là bản tính chung của mọi người cộng
sản. Ở Liên xô trong đệ nhị thế chiến, ở Triều
tiên, ở Điện biên phủ, cộng sản thí quân một cách
khiếp đảm. Lần nầy, họ thí quân ở các thành thị
miền Nam cũng vì một mục tiêu nào đó.
- Mục tiêu gì?
- Bộ tổng tham mưu đang phối
hợp tin tức và sẽ thảo luận để lý giải mục tiêu
tấn công của Việt cộng. Lý giải xong rồi thì mới có
biện pháp bẻ gãy âm mưu của họ, ngăn chận họ thu hái
thành quả của đợt thí quân nầy.
- Nếu mình làm được thì hóa
ra hàng chục ngàn binh sĩ của họ đã mất mạng trong mấy
ngày Tết cổ truyền trở thành vô ích.
- Đúng như vậy.
- Kể cũng buồn anh nhỉ, dù đó
là thắng lợi của ta.
- Chiến tranh thì có bao giờ vui
đâu. Chiến thắng bao giờ cũng đẫm đầy máu và nước
mắt. Toàn dân hai miền ai cũng đau khổ vì chiến tranh.
Chỉ có người cộng sản là reo mừng mà thôi.
Tân thở dài, mọi người đều
im lặng buồn bã. Vài phút sau, Tân hỏi:
- Tôi vẫn thắc mắc tại sao
Việt cộng mở ra những trận đánh trên khắp các thành
phố trong lúc nhân dân ăn Tết. Có phải vì họ ảo tưởng
về một chiến thắng hoàn toàn hay không?
- Đó không phải là thắc mắc
của riêng anh. Tôi đã nói với anh rồi, bộ tổng tham
mưu đang thu thập tin tức các nơi gởi về để họp bàn
về thắc mắc nầy. Riêng trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp ở
tổng tham mưu cũng bàn cãi sôi nổi với nhau một cách
không chính thức về vấn đề đó.
- Theo các sĩ quan cao cấp ở tổng
tham mưu thì Việt cộng có ảo tưởng toàn thắng không?
- Không!
- Thế thì mở các cuộc tấn
công vào thành phố và chịu nhiều tổn thất để làm
gì?
Thiếu tá Thế suy nghĩ một chút
rồi trả lời:
- Đa số các sĩ quan cao cấp của
quân đội mình cho rằng các lãnh tụ cộng sản ở Hà
nội không có ảo tưởng toàn thắng vì họ biết rõ lực
lượng họ đã tung vào Nam còn quá yếu so với sức mạnh
của quân đội Việt Nam Cộng hòa, chưa kể các lực
lượng của Mỹ và các nước thân hữu: Đại hàn, Thái
lan, Úc, Gia nã đại. Các lãnh tụ không có ảo tưởng
toàn thắng nhưng họ lại gây cho cán bộ cấp dưới,
nhất là cho binh sĩ của họ ảo tưởng đó để có thể
thúc đẩy những người nầy lao vào chỗ chết. Thực là
tàn nhẫn trò lừa bịp nầy. Họ đã lừa bịp binh sĩ
của họ.
- Nhưng trò lừa bịp đó đã
thành công vì các chiến binh Việt cộng đã lao vào các
thành phố như những con thiêu thân.
- Đúng là thành công, rất thành
công, làm cho thế giới phải ngạc nhiên.
Thiếu tá ngừng lại trầm ngâm
một chốc rồi nói tiếp:
- Họ thành công vì đường lối
tuyên truyền rất hữu hiệu. Họ vừa “giáo dục” vừa
kiểm soát tư tưởng binh sĩ vô cùng kỹ lưỡng. Binh sĩ
của Việt cộng thì chẳng hiểu gì cả. Điều tra mấy
tù binh trẻ tuổi mới từ Bắc xâm nhập vào thì mới
thấy rõ họ bị đảng bịt tai bịt mắt, nhồi nhét một
mớ lý thuyết, biến họ thành những cái bị thịt không
lý trí, không tình cảm, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh
của đảng mà thôi. Trong cái đầu của chúng nó, chỉ có
những cái mà đảng nhét vào thôi chứ không có gì riêng
cho mỗi người. Thực là thảm thương. Chúng không hề
biết rằng miền Nam nầy đang có một chính phủ Việt
Nam do dân bầu lên và hầu hết mọi người ở đây đều
bằng lòng sống với chính thể tôn trọng tự do đó.
Chúng cứ tin chắc rằng miền Nam đang là thuộc địa của
Mỹ, toàn quyền Mỹ đã thay thế cho toàn quyền Pháp để
cai trị xứ sở nầy.
Thế ngừng lại cầm ly nước
uống rồi hỏi:
- Anh trong ngành giáo dục, anh
phải nói với học sinh những điều có thực, đúng
không?
- Vâng, người làm giáo dục phải
luôn luôn tôn trọng chân lý, không bao giờ được dối
gạt học sinh.
- Ở miền Bắc, ông thầy không
có chức năng đó đâu. Ông thầy là công cụ của đảng,
chỉ có nhiệm vụ truyền đạt cho học sinh điều gì có
lợi cho đảng, cho chủ nghĩa cộng sản mà thôi. Ông thầy
không cần chân lý; thực hiện đúng đường lối của
đảng, ông thầy sẵn sàng bóp méo chân lý. Tôi đã có
dịp dự vài cuộc hỏi cung những tù binh Bắc Việt còn
trẻ, nguyên là học sinh và sinh viên ngoài đó và thấy
rõ ràng người ta đã dạy cho bọn trẻ rất nhiều điều
láo toét.
Tân buộc miệng than:
- Nền giáo dục ở miền Bắc
thực là méo mó.
- Vâng đúng như thế đó. Bọn
trẻ ngoài đó không còn biết gì ngoài những điều đảng
muốn nhồi nhét. Thế nên khi đảng bảo miền Nam nầy là
thuộc địa của Mỹ, dân chúng đang rên siết dưới gông
cùm của Mỹ thì giới trẻ tin ngay và sẵn sàng lao vào
để giải phóng miền Nam.
Tân gật đầu:
- Quả như anh nói, lính Bắc việt
vào đây chiến đấu rất hăng hái. Bây giờ trở lại
vấn đề mà tôi đang thắc mắc là tại sao lãnh tụ cộng
sản thí quân trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân nầy, dù
biết rằng không thể toàn thắng được?
- Một đại tá ở khối chiến
tranh chính trị giải thích thế nầy. Khi Mỹ và các nước
thân hữu của Việt Nam Cộng hòa bắt đầu đổ quân vào
đây đồng thời tăng cường sự oanh tạc ra khắp lãnh
thổ miền Bắc thì cộng sản thấy nguy cơ phải chấm
dứt cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và có thể mất
luôn cả miền Bắc. Nếu Mỹ không tham chiến thì họ có
thể thắng miền Nam vì, một mặt vũ khí của Liên xô và
Trung cộng đổ vào đây liên tu bất tận, mặt khác quân
số của cộng sản cũng áp đảo quân số Việt Nam Cộng
hòa. Thực vậy, ngoài Bắc có thể ngưng mọi sinh hoạt
dân sự, kể cả sản xuất vì gần một tỉ người Tàu
dư sức nuôi cả miền Bắc. Như thế, Việt cộng có thể
huy động một lúc nhiều triệu người đưa vào Nam với
đầy đủ vũ khí, cộng thêm với cả triệu người dân
trong các vùng mà họ đang kiểm soát ở miền Nam thì quả
thực là một lực lượng ghê gớm. Tuy nhiên dù đông
cách mấy, họ cũng không thể chống lại được quân đội
Mỹ nếu nước Mỹ thực sự muốn bảo vệ miền Nam tự
do. Kinh nghiệm chiến tranh Triều tiên vẫn còn nóng hổi.
Dù có liều lĩnh cách mấy đi nữa, cộng sản cũng không
chịu đựng nổi phương tiện chiến tranh tối tân của
Mỹ. Giải pháp duy nhất của họ là làm cho Mỹ nản
lòng, rút quân về để họ làm thịt miền Nam.
- Vì vậy, họ liều chết đánh
một trận cho quân đội Mỹ sợ mà rút về.
- Không đâu, Mỹ chẳng sợ đâu,
chính cộng sản biết như thế. Họ không thể đánh bại
quân đội Mỹ, họ tìm cách đánh bại dư luận Mỹ. Họ
biết rằng Mỹ thực sự là một nước dân chủ, chính
phủ Mỹ phải hành động theo ý muốn của đa số dân
chúng, nên đánh ngã được dư luận Mỹ là họ sẽ thắng
lớn. Lợi dụng sự cả tin của chúng ta về lệnh hưu
chiến, lợi dụng tiếng pháo của dân chúng đốt mừng
giao thừa, họ đã lén tấn công vào các thành phố. Thế
là họ đã gởi một thông điệp đến nhân dân Mỹ rằng
dù Mỹ có đổ quân vào đây cũng không giữ nổi miền
Nam, họ có thể tấn công vào bất cứ chỗ nào mà họ
muốn, kể cả tòa đại sứ Mỹ ở ngay thủ đô Sài gòn.
Vậy là dư luận Mỹ có thể bắt đầu mất tin tưởng
và chán nản. Quan trọng hơn nữa, trong dịp nầy họ cố
giết được một vài lính Mỹ dù phải trả bằng một
giá thực đắt. Đối với nước Mỹ ở quá xa chúng ta,
vài trăm hay vài ngàn Việt cộng bị giết chết, người
Mỹ cũng không quan tâm nhưng chỉ một anh Sam tử trận
thì lập tức làm cho cả nước Mỹ bàng hoàng.
Tân nói với giọng buồn rầu:
- Tôi công nhận suy luận của
các anh rất hợp lý. Điều đau đớn là chỉ để gây
bàng hoàng cho những người bên kia Thái bình dương mà
Việt cộng nỡ xua hàng chục ngàn thanh niên trai trẻ của
chúng ta vào chỗ chết ngay trong lúc toàn dân rước ông
bà về để ăn Tết. Thực là tàn nhẫn!
Thùy Liên nghe câu nói đó thì hạ
đũa xuống, nhìn sang thấy chồng mình rơm rớm nước mắt
làm nàng cũng gần khóc theo. Nàng đặt tay lên đùi chồng,
muốn nói một câu gì đó để an ủi, nhưng không tìm ra
lời nên đành im lặng cúi đầu.
Giọng thiếu tá Thế vẫn ôn
tồn:
- Anh Tân, bàn về hành động của
Việt cộng thì bao giờ chúng ta cũng căm tức lẫn đau
đớn. Đành chịu vậy thôi.
- Theo anh, sau cuộc tấn công ngày
Tết của Việt cộng, chính phủ mình sẽ có biện pháp
nào sắp tới hay không?
- Chắc chắn là có và đó chính
là điều tôi muốn thông báo với anh hôm nay.
Tân vội hỏi:
- Có liên can tới tôi?
Thế gật dầu:
- Đương nhiên. Bộ tổng tham mưu
dự trù kiến nghị với chính phủ ban hành lệnh tổng
động viên, gọi tất cả quân nhân trừ bị trở lại
quân đội, bãi bỏ tất cả các trường hợp miễn hoãn
dịch để đưa tất cả thanh niên còn ở bên ngoài vào
quân đội.
- Tại sao bộ tổng tham mưu đề
nghị như vây?
Thiếu tá Thế buông đũa dựa ra
thành ghế, trả lời bằng tiếng Pháp:
- La Patrie en danger, levée en masse.
- Nhưng Tổ quốc đã bị lâm
nguy đâu mà phải tổng động viên?
- Thủ đô và các thành phố lớn
bị tấn công. Như thế cũng đủ lý do để tuyên bố Tổ
quốc bị lâm nguy. Nhưng đó không phải là lý do thực sự
để tổng động viên.
- Thế thì lý do thực sự là gì?
- Có hai lý do. Thứ nhất là bộ
tổng tham mưu ước lượng rằng chiến dịch Tết Mậu
thân nầy của Việt cộng làm cho quân số của họ bị
thiệt hại rất nhiều, bên mình cũng bị thiệt hại
không ít. Cần phải tổng động viên để bù đắp thiệt
hại đó và hơn nữa bổ sung để tăng thêm quân số với
quyết tâm tiêu diệt Việt cộng, chấm dứt chiến tranh
luôn. Lý do thứ hai là hiện nay bên Mỹ, có một bọn
phản chiến biểu tình om sòm, bày ra trò đốt thẻ trưng
binh. Bọn đó đã bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản
đầu độc, không còn phân biệt được phải trái nữa.
Chúng rêu rao rằng từ khi Mỹ đổ quân qua đây thì lính
Việt Nam Cộng hòa không đánh nhau với Việt cộng nữa
mà giao cho Mỹ đánh. Chúng ta tổng động viên để trấn
an dư luận của Mỹ và nói cho bọn phản chiến đó hiểu
rằng chúng ta quyết tâm tự vệ và vẫn đảm nhiệm vai
trò chính yếu trong cuộc tự vệ nầy. Chúng ta biết ơn
những người lính Mỹ qua đây giúp đỡ chúng ta và bao
giờ họ cũng chỉ là những người giúp đỡ mà thôi.
- Tôi đồng ý với anh, phong trào
phản chiến đang rầm rộ. Ngay ở Sài gòn nầy cũng không
thiếu.
Thiếu tá Thế nhún vai:
- Đúng vậy, những người đó
không đi phản chiến với kẻ xâm lăng mà lại đi phản
chiến với người tự vệ. Phản chiến gì? Sợ chết
không dám ra chiến trường rồi ngụy tạo lý do. Sau nầy
lịch sử sẽ phán xét bọn nó cùng với kẻ xâm lăng.
Tân cố nén xúc động:
- Theo anh, đề nghị luật tổng
động viên của bộ tổng tham mưu sẽ được chính phủ
chấp thuận không?
- Chưa đề nghị chính thức, mới
dự định thôi. Chúng tôi còn phải thảo luận sâu hơn.
Hiện nay công việc chính yếu của tổng tham mưu là điều
động quân ra giải phóng Huế, truy quét tàn quân cộng
sản ở các thành phố. Nhưng tôi nghĩ, sớm hay muộn,
kiến nghị tổng động viên cũng được đệ trình chính
phủ. Sau đó chính phủ phải đưa ra quốc hội thảo luận
và biểu quyết mới thành luật được. Theo tôi, trước
sau gì rồi cũng sẽ có tổng động viên, anh và Thùy Liên
nên thu xếp chuyện gia đình trước đi.
Thùy Liên gục đầu vào vai chồng
nức nở:
- Anh Tân, thế là anh sắp bỏ em
lại đây để trở ra chiến trường rồi!
Bác Tư, thiếu tá Thế, Bạch Mai
và cả cháu Bình nữa, ngồi sững sờ nhìn Thùy Liên giọt
vắn, giọt dài trên vai chồng.
Bạch Mai đẩy ghế đứng dậy,
bước sang đỡ Thùy Liên ngồi ngay ngắn lại:
- Thùy Liên, Thùy Liên, đừng
khóc nữa. Chuyện anh Thế nói là chỉ mới bàn trong tổng
tham mưu thôi chứ chắc gì có tổng động viên.
Thùy Liên dùng tay áo lau nước
mắt:
- Xin lỗi bác Tư, xin lỗi anh
Thế, chị Mai. Em xúc động quá nên khóc làm gia đình mất
vui trong bữa cơm mừng năm mới. Bây giờ, em không khóc
nữa đâu. Tổ quốc lâm nguy thì mọi người phải trở
ra chiến trường chứ đâu phải riêng chồng em. Khi nãy
em không cầm được nước mắt vì nghĩ đến cái cảnh
em đi làm về mở cửa thui thủi vào nhà một mình, đêm
hôm tối tăm với đứa con đang lớn dần trong bụng.
Nàng lại nghẹn ngào ngừng nói,
nhìn xuống bụng mình. Bạch Mai đứng phía sau, vuốt tóc
Thùy Liên:
- Liên suy nghĩ xem, nếu quả thực
anh Tân trở lại quân đội, Liên xin nghỉ việc rồi về
quê sống với hai bác hay qua đây sống với gia đình anh
chị, được không?
Thùy Liên lắc đầu:
- Anh Tân tái ngũ thì chắc chắn
chúng em mất nguồn thu nhập trường tư và phụ cấp chức
vụ của anh Tân. Nếu em lại nghỉ không đi làm nữa thì
không thể nào đủ sống để nuôi con. Hơn nữa, Tổ quốc
lâm nguy, ai cũng phải có trách nhiệm, em không ra trận để
trực tiếp bảo vệ Tổ quốc thì cũng không thể từ bỏ
công việc mình ở tổng y viện được.
Thiếu tá Thế Thế gật đầu:
- Đúng là lời nói của con cháu
bà Trưng bà Triệu. Ngày mai tôi sẽ lặp lại lời nói
của Thùy Liên với đại tướng tổng tham mưu trưởng.
Thôi bây giờ tôi phải vào tổng tham mưu ngay.
Thùy Liên hỏi:
- Anh Thế, bữa sáng mồng hai,
anh bảo cứ đợi anh ở nhà, khi nào anh cho phép mới đi
làm. Hôm nay mồng năm rồi, ngày mai em có nên vào làm
việc không?
Thiếu tá Thế ngắt lời:
- Thôi chết, tôi quên mất. Ngày
mai cô vào làm việc đi. Mấy hôm nay, có lẽ thương binh
đưa vào nhiều lắm. Sáng mai, anh Tân đưa Thùy Liên vào
tổng y viện ngay đi, có lẽ người ta đang đợi cô trong
đó.
Bạch Mai ngắt lời:
- Nhưng Thùy Liên giữ kho thuốc
chứ đâu có nhiệm vụ săn sóc thuơng binh.
- Ừ, thương binh về nhiều thì
cũng phải xuất nhiều thuốc ra để điều trị chứ,
phải không cô Liên?
Thùy Liên đáp:
- Dạ phải.
Thế nói tiếp:
- Còn anh Tân thì vẫn nằm nhà.
Một số trường tiếp nhận những người tị nạn cộng
sản tấn công mấy ngày Tết, nay phải lo dọn dẹp. Luật
tổng động viên, nếu ban hành theo thủ tục khẩn cấp
thì anh cũng từ giã nhà trường luôn. Thôi, tôi đi đây.
Thế đứng dậy, mọi người
cũng đứng dậy theo. Tân và Thùy Liên chào cả nhà rồi
ra về.
Đêm đó, sau khi vào giường,
Thùy Liên chúi đầu vào ngực chồng khóc một chặp nữa
rồi mới chịu ngủ.
*
* *
Không bao lâu sau Tết Mậu Thân,
luật tổng động viên được ban hành theo thủ tục khẩn
cấp, đúng như sự tiên đoán của thiếu tá Thế. Thông
cáo của bộ quốc phòng được đọc nhiều lần trên đài
truyền thanh, truyền hình và đăng tải trên tất cả các
báo, ra lệnh tất cả quân nhân trừ bị phải đến trình
diện tại các trung tâm nhập ngũ.
Buổi chiều trước ngày Tân
quyết định lên đường, Bạch Mai mời hai vợ chồng
sang nhà dùng cơm để bàn bạc về sự sống của Thùy
Liên.
Thiếu tá Thế mở lời:
- Ngày mai, anh Tân đi trình diện
ở trung tâm Ba nhập ngũ. Anh biết chỗ đó không?
Tân đáp:
- Biết chứ, trại Quang trung.
Ngày tôi trình diện nhập ngũ cách đây sáu năm thì cũng
vào đó. Hình như đó là ngõ vào quân ngũ duy nhất của
vùng Ba Chiến thuật.
Thế gật đầu:
- Theo kế hoạch của tổng tham
mưu thì các anh vào đó, nằm đợi các sư đoàn lần lượt
đến nhận về bổ sung quân số cho họ. Sư đoàn nào về
nhận thì anh buộc phải đi theo. Sau đó, anh gửi thư về
báo tin cho tôi biết, tôi sẽ tìm cách rút anh về tổng
tham mưu sau. Tôi biết anh là người khí khái. Bạch Mai
nói với tôi rằng khi mới ra quân trường, anh đã từ
chối tất cả những lời gởi gắm và nhất định ra
chiến trường. Đó là cái chí khí rất đáng khen của
tuổi thanh niên. Tuy nhiên, lúc đó anh độc thân, ra chiến
trường không vướng bân gì. Bây giờ, anh có Thùy Liên,
lại sắp làm cha thì anh nên xét lại. Hai nhiệm vụ đối
với Tổ quốc và đối với gia đình, phải cân phân,
không nên bên trọng, bên khinh. Anh đồng ý chứ?
Tân im lặng gật đầu. Thùy Liên
nói với giọng đầy cảm xúc:
- Em cảm ơn anh Thế vô cùng. Anh
Tân không có gia đình từ thuở nhỏ. Em có gia đình nhưng
hiện ở xa. Gia đình của anh Thế và chị Mai chính là
gia đình của chúng em vậy.
Thế cười vui vẻ:
- Vì vậy anh chị lo cho Tân rồi
thì phải lo cho Thùy Liên nữa chứ. Sáng mai, sau khi người
chinh phu cất bước quân hành rồi thì người chinh phụ ở
nhà thế nào đây?
Thùy Liên cúi mặt thở dài:
- Em tính chưa ra nhưng em không
muốn rời khỏi ngôi nhà nhỏ của em đâu. Tuy em và anh
Tân mới sống ở đó có hơn nữa năm thôi nhưng thời
gian ngắn ngủi nầy là thời gian đẹp nhất trong cuộc
đời của chúng em. Em nói thực đó, anh chị đừng chế
nhạo em.
Thế nhìn Thùy Liên một cách dịu
dàng:
- Sao lại chế nhạo Thùy Liên
được. Lời lẽ đó đáng được ghi vào sưu tập những
chuyện tình đẹp nhất thế gian chứ.
- Đó, anh chế nhạo em rồi đó.
- Thôi được rồi, anh Tân đi
rồi, Thùy Liên có dám ở lại bên đó một mình hay
không. Đêm hôm, rủi có chuyện bất tường như kẻ trộm
đột nhập vào nhà thì sao? Rồi ngày sinh nở mỗi lúc
một đến gần, ai lo cho Thùy Liên? Chỉ còn hai giải pháp
phải chọn. Một là Thùy Liên xin nghỉ việc dài hạn về
quê sống với cha mẹ. Hai là Thùy Liên phải qua đây sống
với anh chị.
Bạch Mai tiếp lời:
- Thùy Liên sang đây với anh chị
đi. Chị sẽ thu xếp cho Liên một phòng. Khi sinh nở có
chị ở đây săn sóc.
Thùy Liên rất cảm động:
- Cám ơn anh chị. Nhưng em không
thích rời gian nhà của chúng em. Em sẽ ở lại bên đó
và em sẽ mời má em lên sống với em.
Thiếu tá Thế lẫn Bạch Mai đều
ngẩn người. Bạch Mai nói:
- Ừ nhỉ, vậy mà mình không
nghĩ ra. Tính như thế cũng ổn. Thùy Liên gửi thư về
nhà chưa?
- Dạ chưa. Em lần lữa vì hi
vọng lệnh tổng động viên không được ban hành. Nay có
rồi thì ngay tối nay em sẽ viết thư về nhà.
Bạch Mai nói tiếp:
- Theo chị, tính từ lúc Thùy
Liên gửi thư đi đến lúc bác gái lên tới đây phải
mất ít nhất một tuần lễ. Trong thời gian đó, nhất
định Liên phải sang đây ở tạm, không thể sống bên
đó một mình được. Thùy Liên tuy đã có chồng nhưng
vẫn là một người đàn bà rất đẹp thì không nên cẩu
thả ngủ một mình trong một căn nhà vắng vẻ. Về việc
nầy, chị nói Liên phải nghe lời. Sáng mai, trước khi
đi, anh Tân mang sang đây những đồ đạc quí giá. Nếu
chưa xong thì anh Thế và em sẽ qua tiếp. Ngày mai Thùy
Liên vẫn đi làm chứ?
- Em đã xin tổng y viện cho nghỉ
một ngày, anh Tân đi trình diện tái ngũ rồi, em sẽ đi
làm tiếp.
Thiếu tá Thế kết luận:
- Trước mắt, cứ như thế mà
làm đi. Sau đó tùy tình hình mà mình sẽ tính tiếp.
Sáng hôm sau, Tân đưa Thùy Liên
cùng một ít đồ đạc sang nhà Bạch Mai rồi thay quân
phục vào trình diện tại trại Quang trung.
Cậu ở chung với hàng trăm sĩ
quan khác. Hàng ngày, các sư đoàn đưa xe đến. Người ta
đọc danh sách trên loa phóng thanh và từng tốp sĩ quan
tái ngũ lên xe ra khỏi trại.
Đến ngày thứ ba, đoàn xe của
sư đoàn Mười Tám đến. Tân cùng mười bảy sĩ quan
khác, hầu hết là thiếu úy được gọi ra sân. Một
trung sĩ lễ phép mời tất cả lên một xe GMC và tất cả
lên đường. Người nào cũng buồn bã và tư lự nên
chẳng ai thích nói chuyện với người khác.
Xe ra khỏi thành phố, bon bon
trên xa lộ, qua thành phố Biên hòa rồi thẳng hướng
miền Trung. Các sĩ quan tái ngũ vẫn ngồi im lặng, thờ ơ
nhìn ngắm khung cảnh hai bên đường, lòng mỗi người
đều nặng trĩu lo âu cho cuộc sống của gia đình mà
mình vừa để lại sau lưng. Xe qua khỏi tỉnh lỵ Long
khánh một đoạn thì ngọn núi Chứa chan xuất hiện, to
dần và sau cùng trở thành một khối đồ sộ, cao ngất
nghểu giữa một vùng thảo nguyên bằng phẳng. Xe dừng
lại dưới chân núi tại tiền đồn một trung đoàn của
sư đoàn Mười tám Bộ binh.
Doanh trại gồm vài dãy nhà tôn
vách ván sơ sài và thấp lè tè. Mỗi khi có một ngọn
gió thổi qua, dãy nhà như biến mất sau đám bụi khổng
lồ. Mặt trời núp sau một đám mây to nhưng không khí
vẫn cứ oi nồng. Mọi người phải chịu đựng khí hậu
miền Đông trong tháng nóng nực và khó chịu nhất của
mùa xuân nhiệt đới.
Đoàn sĩ quan tái ngũ lặng lẽ
theo sau vị trung sĩ trưởng xa vào ngồi nghỉ trong một
dãy nhà tôn. Đến chiều, khi mặt trời ngả hẳn về
phương Tây, một đại úy mời tất cả ra sân tập họp
để trình diện trung đoàn trưởng. Một trung tá bước
ra với vẻ mặt tươi cười. Giọng ông thực dõng dạc,
đúng là giọng của một sĩ quan cao cấp:
- Chào các sĩ quan tái ngũ, những
người anh em vừa mới trở lại với gia đình quân nhân.
Tôi thay mặt sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của trung đoàn
đón tiếp các anh em và hoan nghênh sự có mặt của các
anh em tại tiền đồn heo hút nầy. Bây giờ, anh em hãy
lần lượt tự giới thiệu, tên, cấp bậc, đơn vị cũ,
huy chương đã có trước khi giải ngũ và nguyện vọng
hiện nay, sau khi tái ngũ. Về nguyện vọng của anh em thì
tôi xin nói rõ thế nầy. Nhu cầu của trung đoàn là bổ
sung các sĩ quan cán bộ trung đội và đại đội. Sẽ
không có sĩ quan nào được bổ sung cho bộ chỉ huy trung
đoàn. Tuy nhiên, tôi không ép buộc một người nào cả
vì cương vị chỉ huy của một trung đội trưởng hay đại
đội trưởng có liên quan mật thiết đến sinh mạng của
tất cả những người trong đơn vị; phải sẵn sàng
chiến đấu thì mới hoàn thành tốt chức năng chỉ huy
của mình. Tổ quốc đang lâm nguy, vì vậy mới có lệnh
tổng động viên và anh em phải từ bỏ nhiệm vụ dân sự
của mình để trở lại quân đội. Tôi kêu gọi anh em
hãy nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến nhưng ai
có hoàn cảnh đặc biệt, cứ thành thực trình bày. Tôi
là cấp chỉ huy của anh em nhưng tôi vẫn muốn anh em xem
tôi như một người anh trong gia đình.
Trung tá nói xong, nhìn mọi người
qua một lượt với ánh mắt đầy cảm tình. Tân nghĩ
thầm: “Một quân đội gồm những người như thế nầy
mà trời không cho chiến thắng thì thật là bất công”.
Trung tá trung đoàn trưởng nói
tiếp:
- Tôi giới thiệu với anh em đây
là đại úy Cho, trưởng phòng nhân viên của trung đoàn.
Sau khi anh em được phân công xong thì đại úy Cho sẽ cấp
sự vụ lệnh cho anh em về các tiểu đoàn. Bây giờ bắt
đầu nhé, đại úy hãy ghi chép. Nào, người anh em thứ
nhất ở đầu bên phải.
Trung tá đưa tay chỉ người đứng
ngoài cùng. Anh nầy đứng nghiêm:
- Tôi là thiếu úy Trần văn
Được, sĩ quan trừ bị khóa Mười ba Thủ đức. Trước
khi giải ngũ, tôi là sĩ quan ban Ba của tiểu đoàn thuộc
sư đoàn Bảy, có một anh dũng bội tinh với ngôi sao
đồng. Tôi tái ngũ, về đây với trung tá và sẵn sàng
nhận lệnh đi đến bất cứ nơi nào mà trung tá chỉ
định.
Trung tá gật đầu, tỏ vẻ hài
lòng:
- Đại úy cho ghi thiếu úy Được
về tiểu đoàn Một. Người tiếp theo.
Mười sáu người lần lượt
phát biểu gần như cùng một nội dung và được chia về
ba tiểu đoàn tác chiến của trung đoàn. Tân là người
thứ mười bảy và là người áp chót. Cậu đưa tay chào
và nói:
- Tôi là thiếu úy Phạm bá Tân,
khóa Mười bốn sĩ quan trừ bị Thủ đức. Trước khi
giải ngũ tôi là sĩ quan phòng hành quân của trung đoàn
Mười lăm thuộc sư đoàn Chín Bộ binh. Trước khi về
đó, tôi là trung đội trưởng tác chiến, có một anh
dũng bội tinh và một chiến thương bội tinh.
Trung tá ngắt lời:
- Thiếu úy có chiến thương bội
tinh hả? Bị thương ra sao, ở trận nào?
- Thưa trung tá, tôi bị bể xương
vai, ở mặt trận Vĩnh bình. Sau khi lành vết thương tôi
được giữ lại tại bộ chỉ huy trung đoàn.
Trung tá gật đầu:
- Thế à? Bây giờ, nguyện vọng
của thiếu úy thế nào?
- Nếu trung tá chỉ định tôi
làm trung đội trưởng hay đại đội trưởng tác chiến
thì tôi không từ chối nhiệm vụ. Tuy nhiên, tôi có một
hoàn cảnh riêng, nếu trung tá cho phép tôi mới dám trình
bày.
- Được được, thiếu úy cứ
trình bày, tôi đã cho phép trước khi nãy rồi. Cứ nói
thật như anh em trong gia đình.
- Thưa trung tá, vợ tôi là y tá
ở tổng y viện Cộng hòa. Cô ấy đang mang đứa con đầu
lòng của chúng tôi. Nó sẽ ra chào đời trong vòng bốn
tháng nữa. Tôi tha thiết được thấy mặt nó một lần.
Nếu tôi ra đi mà không trở về sau khi vợ tôi sanh con
thì….
Trung tá đưa tay ngắt lời:
- Thôi được, tôi hiểu hoàn
cảnh của thiếu úy. Đại úy Cho, đại úy làm giấy đề
nghị thiếu úy về công tác tại bộ tư lệnh sư đoàn.
Xin mời người anh em cuối cùng.
Cuộc trình diện diễn ra chóng
vánh và chấm dứt sau nửa giờ đồng hồ. Mọi người
vào ban Một để chờ lãnh sự vụ lệnh về đơn vị.
Mười bảy sĩ quan đi tác chiến lãnh giấy xong trước và
đã ra trước sân chờ nhập bữa tiệc đơn sơ do trung
đoàn khoản đãi. Tân là người cuối cùng đến nhận
giấy giới thiệu về bộ tư lệnh sư đoàn.
Đại úy Cho trao giấy cho Tân với
nụ cười:
- Mừng cho thiếu úy được về
nơi an toàn. Trong khi trung đoàn cần sĩ quan tác chiến,
thiếu úy có biết tại sao trung tá chấp nhận ngay cho
thiếu úy về bộ tư lệnh không?
Tân lắc đầu. Đại úy Cho giải
thích:
- Thực là một sự trùng hợp ly
kỳ.
Tân ngạc nhiên:
- Thưa đại úy, trùng hợp thế
nào?
- Đầu năm 1954, trước khi hòa
hội Genève bắt đầu, trung tá trung đoàn trưởng của
chúng mình đây còn là thiếu úy và đang ở mặt trận
Hòa bình tuốt ngoài Bắc. Lúc đó vợ ông ấy cũng đang
có mang được năm tháng. Ông rất tha thiết trông thấy
mặt đứa con đầu lòng một lần. Rồi ông bị thương
và được chở về Hà nội. Sau đó toàn thể đại đội
của ông bị Việt minh tiêu diệt. Nhờ vết thương mà
ông còn sống và thấy được mặt con gái mình. Năm nay,
cô bé được mười bốn tuổi rồi, xinh lắm, đang học
lớp đệ ngũ trường trung học Long khánh. Gia đình trung
tá đang ở Long khánh, sáng chúa nhật ông ta thường về
thăm. Nếu bận quá thì nhờ tôi chở vợ con lên đây cho
gia đình sum họp tại tiền đồn nầy rồi chiều lại
trở về Long khánh. Tôi là cấp dưới trực thuộc mà
cũng là bạn thân của trung tá. Đó là một người chồng,
người cha rất tốt đối với vợ con và là một vị chỉ
huy giỏi nhưng rất nhân từ đối với cấp dưới. Thiếu
úy trình bày hoàn cảnh của mình lại giống như của
trung tá xưa kia nên trung tá quyết định ngay cho thiếu úy
về nơi an toàn để chắc chắn trông thấy mặt đứa con
gái đầu lòng của mình
Tân tỏ vẻ cảm động:
- Sáng mai, tôi trở về Long khánh
trình diện bộ tư lệnh sư đoàn nên không gặp riêng
được trung tá. Xin đại úy vui lòng chuyển lời cho tôi
gởi đến trung tá lòng biết ơn, sự tôn kính và cảm
tình chân thật của tôi.
- Được, tôi sẽ chuyển lời
giúp cho thiếu úy. Thỉnh thoảng, trung tá vẫn về bộ tư
lệnh để họp hay nhận lệnh nên thiếu úy có thể gặp
mặt để chuyện trò. Đó là một người rất dễ mến.
Sáng hôm sau, Tân theo xe liên lạc
của trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn đóng tại Long
khánh. Người ta đưa cậu vào trình diện thiếu tá Bảo,
tham mưu phó chiến tranh chính trị. Thiếu tá hỏi:
- Thiếu úy có ý định ở lại
ngành chiến tranh chính trị không?
- Thưa thiếu tá, tôi không có ý
định gì cả. Nếu thiếu tá cần người làm việc thì
tôi xin ở lại đây.
- Được rồi, tôi đang thiếu
một sĩ quan cấp úy. Thiếu úy nguyên là giáo sư trung học
thì có thể giúp cho khối chiến tranh chính trị được.
Bây giờ thiếu úy nên đi một vòng cho biết vị trí các
phòng ban của bộ tư lệnh và ghé nói với trưởng phòng
Một rằng thiếu úy tạm thời ở lại khối chiến tranh
chính trị cho hết ngày hôm nay. Sáng mai tôi sẽ chính
thức báo cho biết có quyết định giữ thiếu úy lại
đây hay không.
Tân bước ra khỏi phòng, đi dài
theo một con đường đất đỏ đầy bụi bặm chạy giữa
hai dãy nhà tôn vách ván. Trong các dãy nhà, nhiều quân
nhân trong quân phục tác chiến lui tới rộn ràng. Ở đây,
nơi nào cũng có vẻ khắc khổ, khác hẳn với cuộc sống
sang trọng và xa hoa ở chốn thị thành mà cậu vừa mới
giã từ. Cậu thấy bùi ngùi cho thân phận của những con
người đang đem sinh mạng của mình ra để đổi lấy sự
sống bình an và tự do của hai mươi triệu người miền
Nam.
Sau khi trình diện ở phòng Một
xong, cậu trở lại khối chiến tranh chính trị. Trong căn
phòng rộng, chỉ có hai người. Ngoài thiếu tá Bảo, còn
một trung sĩ đang ngồi đánh máy ở chiếc bàn cuối
phòng. Một lát sau, có một binh sĩ vào, bưng trên tay một
khay gỗ bẩn thỉu, đựng một bình nước trà và vài
chén tách.
Chiến cuộc Mậu thân vừa chấm
dứt nhưng chiến sự trong cả nước đang sôi sục. Thế
mà bước vào phòng chiến tranh chính trị nầy, Tân có
cảm giác như rơi vào một ốc đảo bình yên, biếng
nhác, vô công rồi nghề. Thiếu tá Bảo đang đứng lúi
húi bên tủ đựng hồ sơ. Ông quay lại tươi cười:
- Thiếu úy ngồi uống nước đi,
tôi bận chút việc.
Tân ngồi xuống ghế nhìn quanh.
Cậu bỗng thấy hối hận vì đã không ở lại tiền cứ
trung đoàn để sau đó cùng tham gia chiến đấu với các
sĩ quan đồng hành. Cậu cảm thấy việc mình được trở
về đây như một sự hèn nhát đáng hổ thẹn.
Thiếu tá Bảo đóng cửa tủ,
bước lại ngồi xuống ghế đối diện với Tân. Ông
chậm rãi rót hai tách nước trà nóng hổi, đẩy về phía
cậu một tách và nói:
- Mời thiếu úy. Tôi vừa mới
đọc sơ qua lý lịch của thiếu úy và biết rằng thiếu
úy là giáo sư sử địa. Với sự hiểu biết về giáo
dục cùng kiến thức về lịch sử, tôi hi vọng thiếu úy
sẽ giúp tôi nhiều việc. Trước đây, thiếu úy đã từng
tác chiến và đã bị thương rồi phải không?
- Vâng, tôi nghĩ rằng tốt hơn
hết là nên tiếp tục nhiệm vụ tác chiến đó.
Thiếu tá thoáng ngạc nhiên:
- Thiếu úy không thích về làm
việc tại đây à? Thiếu úy cho rằng chỉ có đánh nhau
bằng súng đạn mới cần thiết thôi sao?
- Thưa thiếu tá, không đâu.
Trong những ngày còn đi chiến đấu, tôi nhận thấy chúng
ta mới sử dụng có riêng vũ khí giết người còn vũ khí
thứ hai, vũ khí chính trị thì chúng ta rất ít chú tâm
đến. Thế mà chính cái vũ khí chính trị sẽ quyết định
cho sự thành bại chung cuộc. Cộng sản đang tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân nghĩa là hai tay cầm hai loại
vũ khí, một là súng đạn và hai là lòng dân. Chúng ta
đánh nhau với họ chỉ với một tay thôi mà lại là tay
trái. Nếu kéo dài thế nầy, phần bất lợi sẽ thuộc
về mình.
Thiếu tá nở nụ cười rạng
rỡ:
- Đó, thiếu úy thấy vấn đề
sống chết trong cuộc chiến tranh nầy rồi đó. Hiện tại
ngành chiến tranh chính trị thiếu người làm việc còn
hơn cả chiến trường nữa. Nếu thiếu úy chứng tỏ
rằng mình có khả năng trong lĩnh vực nầy thì nên vui
lòng ở đây phục vụ, còn ích lợi hơn ra mặt trận
nữa.
- Thưa thiếu tá, nhưng mà tôi
xuất thân là sĩ quan bộ binh, chưa từng được đào tạo
chuyên môn về tâm lý chiến.
- Không sao, những lớp chuyên môn
đó chẳng đào tạo được gì. Ngành nầy không thể đào
tạo như cách người ta dạy bắn súng đâu. Thiếu úy vẫn
có thể ở lại đây nếu thiếu úy thích và chứng tỏ
rằng mình có khả năng. Còn nếu không thì tôi sẽ trả
thiếu úy lại cho trung đoàn.
Tân vẫn tỏ ra ái ngại:
- Ở lại đây, tôi không biết
có giúp gì nhiều cho thiếu tá và cho ngành chiến tranh
chính trị hay không.
- Vì vậy hôm nay tôi muốn thấy
được điều đó. Thiếu úy hãy thành thực nói hết ý
kiến của mình cho tôi nghe.
- Thưa thiếu tá, về vấn đề
gì ạ?
- Khi nãy thiếu úy có nói rằng
trong cuộc chiến nầy, chúng ta chưa sử dụng vũ khí
chính trị. Vũ khí đó có cần thiết để đi đến chiến
thắng không và làm thế nào để quân đội mình có thể
sử dụng vũ khí đó?
Vừa lúc đó, một người binh sĩ
bước vào nói:
- Thưa thiếu tá, có điện thoại
của ông tướng gọi thiếu tá.
Thiếu tá quay qua nói với Tân:
- Thiếu úy cứ suy nghĩ về hai
vấn đề tôi vừa nêu ra, chốc nữa tôi sẽ trở lại.
Nói xong, ông theo người lính đi
ra ngoài.
Ngồi lại một mình, Tân im lặng
suy nghĩ. Cậu hiểu rằng, ông thiếu tá tham mưu phó nầy
đang trắc nghiệm khả năng của cậu để có thể dứt
khoát giữ cậu lại đây và giao nhiệm vụ. Cậu cảm
thấy khó chịu vì ý nghĩ nầy. Cậu nghĩ rằng, nếu giờ
nầy, cậu đang sống cùng trung đội hay đại đội tác
chiến của mình, đang sửa soạn hành quân thì đầu óc
cậu sẽ được thảnh thơi. Tuy nhiên, hình ảnh của Thùy
Liên hiện ra mỗi lúc một rõ hơn làm cho lòng cậu cực
kỳ xao xuyến. Cậu nghĩ đến Thùy Liên đang vò võ một
mình trong nỗi nhớ thương, cậu nghĩ đến đứa con sắp
ra đời và có thể không bao giờ trông thấy mặt cha nếu
cậu sa cơ ngoài chiến trường. Cậu cứ để cho mặt
tình cho số phận cuốn trôi hay cố gắng chọn câu trả
lời thế nào để được giữ lại ở chốn bình yên
nầy?
Ông thiếu tá vừa trở lại
phòng. Nét mặt và lời nói của ông vẫn hết sức điềm
đạm:
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện
nhé. Nào thiếu úy hãy phát biểu ý kiến của mình cho
tôi nghe đi. Có lẽ nãy giờ, thiếu úy đã suy nghĩ xong
hai vấn đề tôi vừa nêu ra rồi, phải không?
Tân lắc đầu. Quả thực, cậu
không hề suy nghĩ gì khác hơn là vợ con và thân phận
của mình trong hiện tại. Cậu hiểu rằng đây là giờ
phút quyết định. Nều lời phát biểu làm vừa lòng ông
thiếu tá thì cậu sẽ được giữ lại ở chốn bình yên
nầy. Nếu ông thiếu tá nầy không vừa lòng thì cậu
phải trở ra chiến trường, đối đầu với hiểm nguy
nhưng tâm hồn sẽ thanh thản. Trong hai phía, cậu nên chọn
phía nào đây? Mặc kệ. Cậu cứ nói ra một cách thẳng
thắng ý nghĩ của mình. Sự ngay thẳng là bản tánh của
cậu. Chính sự ngay thẳng nầy, trước đây là một trong
các nguyên nhân đã đẩy cậu ra khỏi tổ chức của cộng
sản. Bây giờ, liệu sự ngay thẳng có đẩy cậu ra khỏi
phòng chiến tranh chính trị, nơi trú ẩn tương đối an
toàn hiện nay trong khi cuộc chiến mỗi ngày thêm ác liệt?
Tân hít một hơi dài rồi nói một cách thận trọng:
- Thưa thiếu tá, tôi chưa hề ở
trong ngành nên quan điểm của tôi về hoạt động chiến
tranh chính trị trong quân đội e không đầy đủ. Tôi chỉ
có thể nói khía cạnh nầy đối với các đơn vị tác
chiến mà tôi đã tham gia trên chiến trường.
Đôi mắt thiếu tá sáng lên:
- Đó, tôi muốn thiếu úy nói
lên nhận xét của mình ở chỗ đó. Cứ nói thẳng thắng
đi. Tôi không ưa những lời nói ra chỉ với mục đích
làm vừa lòng cấp trên. Trong mọi cuộc chiến tranh, đơn
vị tác chiến là thành phần chủ yếu. Mọi hoạt động
của quân đội và của quốc gia đều phải nhắm vào sự
yểm trợ cho thành phần đó. Ngành chiến tranh chính trị
của chúng ta cũng thế thôi. Đã từng là chiến sĩ ngoài
mặt trận, quan điểm của thiếu úy về chiến tranh chính
trị thì rất có giá trị. Thiếu úy cứ nói, đừng dè
dặt gì cả. Ở đơn vị tác chiến thiếu úy thấy công
tác tâm lý chiến của quân đội mình thế nào?
- Thưa thiếu tá, chẳng có gì
cả.
Thiếu tá Bảo gật gù:
- Đó là một nhận xét ngay thật,
đáng khen. Theo thiếu úy, đó có phải là một khuyết
điểm đáng kể không?
- Một khuyết điểm rất quan
trọng không thể bỏ qua được. Cộng sản đang tiến
hành một cuộc chiến tranh nhân dân nghĩa là một cuộc
chiến tranh mà vũ khí chính là nhân dân, tôi xin nhắc
lại.
- Nhưng Việt cộng bắn chết
chúng ta bằng những viên đạn đồng mà.
- Nếu không có nhân dân thì
những viên đạn đó khó đến tay họ được. Hoặc nếu
súng đạn có đến tay họ bằng cách nào đó mà họ
không được nhân dân che chở và nuôi nấng thì họ không
thể nào tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược nầy được.
Vì vậy, từ đầu cuộc chiến tranh, họ đã chú tâm
chiếm lấy lòng dân và họ đã thành công trong việc đó.
Chúng ta chưa quan tâm đến việc nầy hoặc có quan tâm
thì quá ít. Biện pháp duy nhất mà chúng ta có, cho đến
ngày nay, là ấp chiến lược. Tuy nhiên, đó chỉ là biện
pháp thụ động, chỉ cốt yếu ngăn chận không cho họ
gần gũi với dân chứ chưa lôi cuốn nhân dân chống lại
họ. Thậm chí, ấp chiến lược còn gây ra ít nhiều bất
mãn trong nhân dân vì đã giới hạn tự do của dân nữa.
Ấp chiến lược chỉ giữ được người dân chứ không
giữ được lòng dân.
Thiếu tá Bảo ngồi nghe một
cách lý thú. Ông hỏi:
- Theo thiếu úy, việc dẹp bỏ
ấp chiến lược là đúng đắn sao?
- Không, hiện nay dẹp bỏ ấp
chiến lược là điều sai lầm vì chúng ta chưa có một
biện pháp gì để thay thế nghĩa là ngăn chận sự liên
lạc giữa nhân dân với họ. Nếu cứ để họ tiếp xúc
dễ dàng với dân thì họ sẽ chiếm được lòng dân. Lúc
đó lợi thế trong cuộc chiến nhất định phải nghiêng
về phía họ.
- Nhưng sau Tết Mậu thân, rõ
ràng chiến thắng đang nghiêng về phía chúng ta mà.
- Đúng, chúng ta đang thắng thế
về quân sự và đang có ưu thế rất lớn về quân số
cũng như vũ khí. Nhưng ưu thế đó không bền vững. Họ
sẽ san phẳng cách biệt đó không mấy khó khăn. Quân số
thì họ sẽ bổ sung từ miền Bắc vào. Nếu cần thì
ngay lập tức có vài triệu lính Trung cộng tràn qua như
đã xảy ra ở Triều tiên. Về vũ khí, Liên xô và Trung
cộng có đủ sức trang bị cho mỗi người lính Việt
cộng hai, ba, bốn khẩu súng, tha hồ mà bắn. Vậy, ưu
thế về quân số và vũ khí là ưu thế không bền vững.
Ưu thế bền vững là lòng dân thì chúng ta chưa có được.
Nếu chiến tranh cứ tiến triển như thế nầy thì khó
tiêu diệt được Việt cộng và chúng ta sẽ có nguy cơ
bại trận và mất nước về tay họ.
Thiêu tá Bảo mỉm cười:
- Trong thời chiến, nếu một sĩ
quan dám nói đến bại trận và mất nước thì có thể
bị lột lon và truy tố ra tòa vì tội làm mất tinh thần
chiến sĩ. Nhưng ở đây, lời nhận xét ngay thẳng đó
đáng được khen thưởng. Bây giờ, thiếu úy hãy cho tôi
biết ý kiến của thiếu úy về hai vấn đề nầy. Một
là làm thế nào để tiến hành một cuộc chiến tranh
nhân dân để chống lại cộng sản, hai là liệu chúng ta
có thể thắng cộng sản trên mặt trân nầy không?
- Vâng, thưa thiếu tá, tôi có ý
kiến về vấn đề thứ nhất, vấn đề tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân thế nào. Trước hết, chúng ta phải
làm sao cho mỗi quân nhân, từ sĩ quan đến binh sĩ đều
hiểu rõ thế nào là chiến tranh nhân dân. Sau đó, dạy
cho họ cách thức lấy lòng dân. Không ai được làm công
việc đó thay cho họ vì các chiến sĩ mới là những
người trực tiếp tham gia vào chiến tranh và trực tiếp
gặp gỡ nhân dân trong các cuộc hành quân. Mỗi chiến sĩ
phải là một cán bộ dân vận.
Thiếu tá Bảo lắc đầu:
- Đó là điều rất khó khăn.
- Vâng, vô cùng khó khăn vì quân
đội của mình được đào tạo theo khuôn mẫu của một
quân đội chuyên nghiệp kiểu phương Tây, chỉ biết làm
nhiệm vụ đánh nhau theo lệnh cấp trên. Nay bảo quân đội
phải làm một cuộc chiến tranh nhân dân thì rõ ràng, đó
là một sự thay đổi rất quan trọng, một cuộc cách
mạng đúng nghĩa. Muốn thành công, phải bỏ ra rất nhiều
công sức của toàn thể quân đội, trong đó ngành chiến
tranh chính trị phải là lực lượng nồng cốt chứ không
phải là một cái bóng mờ như ngày nay. Trong hiện tại,
ở các tiểu đoàn tác chiến, sĩ quan nào quá kém về khả
năng, không dùng được vào việc gì thì cho làm sĩ quan
chiến tranh chính trị.
- Đúng rồi, hiện tại ngành
chiến tranh chính trị của chúng ta rất bất lực. Nhưng
nếu chúng ta cố gắng thì liệu chúng ta có giành lại
được lòng dân từ tay cộng sản hay không?
- Chắc chắn là được. Tôi xin
đơn cử với thiếu tá một thí dụ cụ thể. Trong một
cuộc hành quân ở Thất sơn, chuẩn úy Bính, một người
bạn thân của tôi đã vào nhà dân ngồi nghỉ và chuyện
vãn với một bà già khi đại đội dừng quân để ăn
trưa, trong một vùng bị Việt cộng kiểm soát từ lâu.
Sự lễ phép và cách nói chuyện dễ thương của bạn tôi
đã gây được cảm tình nơi bà già đó. Bà ta đã nói
nhỏ cho chuẩn úy Bính biết đêm rồi Việt cộng đã
thiết lập cả một bãi mìn trên đường chúng tôi sắp
đi qua. Nhờ đó, đại đội đã thoát chết. Vậy đó,
lòng dân không phải là một thứ đã được định đặt
trước cho một bên nào. Ai tỏ ra tử tế thì dân theo,
thế thôi. Với cuộc chiến tranh nầy, rõ ràng chúng ta có
chính nghĩa vì chúng ta tự vệ còn cộng sản thì phi
nghĩa vì gây chiến để xâm lăng và để áp đặt một
chủ nghĩa phi nhân. Thế mà một khi họ tìm cách chiếm
được lòng dân rồi thì họ đã làm được một cuộc
đảo lộn chính nghĩa với phi nghĩa trong dư luận quốc
nội và cả quốc ngoại nữa.
Thiếu tá Bảo đứng dậy, bước
đến vỗ vai Tân một cách thân mật:
- Tôi thích những điều thiếu
úy vừa nói. Đó là những điều tôi đã suy nghĩ từ lâu
và đã làm cho tôi xốn xang trong lòng. Khổ nỗi, tôi
không đủ sức thuyết phục cho những ông tướng nghe
theo. Mấy ông ấy chỉ muốn bàn tới một chiến thắng
thuần túy quân sự mà thôi. Hôm nay được nghe chính
thiếu úy trình bày, tôi cảm thấy an ủi một đôi phần.
Ít nhất cũng có được một sĩ quan suy nghĩ như mình và
nếu sau nầy có thua Việt cộng đi nữa thì vẫn còn có
người cùng hiểu lý do thất trận với mình. Thôi, cậu
cứ ở đây với tôi, bàn đó là của cậu ngồi mà suy
ngẫm chuyện đời. Thỉnh thoảng có cuộc họp nào về
chiến tranh chính trị thì cậu chịu khó viết tham luận
cho tôi đọc. Thế thôi, sĩ quan chiến tranh chính trị thì
bao giờ cũng chỉ là sĩ quan chiến tranh chính trị mà
thôi!
Tân mỉm cười, cảm thấy vui
lòng với thái độ dễ mến của người chỉ huy của
mình. Cậu hỏi:
- Thưa thiếu tá, ở đây, việc
ăn ở của tôi thế nào?
- Thiếu úy có gia đình hay bà
con ở Long khánh không?
- Thưa không.
- Tốt, thế thì cứ yên tâm ở
lại trong nầy với chúng tôi. Cấm trại một trăm phần
trăm, có gia đình cũng phải vào đây. Tí nữa, cậu gặp
hạ sĩ nhất Cử để nhận giường nằm và chăn màn. Hầm
núp ngay trong phòng đây, không phải để đề phòng Việt
cộng tấn công đâu. Để làm gì, biết không?
- Dạ biết. Để tránh đạn
pháo của Việt cộng.
Thiếu tá gật đầu:
- Đúng vậy. Sau khi bị thất bại
với âm mưu tấn công các thành phố miền Nam, Việt cộng
rút về mật khu nhưng thỉnh thoảng vẫn bò về thụt hỏa
tiễn 122 ly vào bất cứ nơi nào trong các thành phố để
khủng bố tinh thần dân chúng và rêu rao rằng chúng chưa
rút lui hẳn mà vẫn còn có khả năng quay trở lại tấn
công thành phố. Hỏa tiễn của Trung cộng rất thuận lợi
cho âm mưu khủng bố nầy. Nó dễ mang đi, có thể phóng
với một thiết bị rất thô sơ tìm được ngay tại chỗ,
không chính xác, nhưng sức tàn phá rất lớn. Thôi bây
giờ thì cậu tự do, muốn làm gì thì làm, khi nào cần
thì tôi sẽ nhờ đến cậu. Ban đêm, cậu muốn ngủ
trong phòng nầy hay qua phòng bên ngủ chung với các sĩ
quan khác để trò chuyện cho vui cũng được.
Thiếu tá nói xong thì ra khỏi
phòng. Tân đi tìm hạ sĩ nhất Cử để nhận quân trang,
quân dụng rồi trở lại phòng, ngồi cắm cúi viết thư
cho Thùy Liên.
Cuộc sống trong hậu cứ của sư
đoàn 18 thực là buồn chán. Quanh quẩn chỉ mấy dãy nhà
bụi đỏ bám đầy từ mái tôn đến chân vách. Đang giữa
mùa nắng nên đường đi trong trại ngập một lớp đất
bột đỏ, tung bụi lên mù mịt khi có một ngọn gió thổi
qua. Ra phố cũng chán phèo. Tỉnh lỵ mới được hình
thành vài năm nay, nên thành phố còn rất nhỏ, gặp thời
buổi chiến tranh nên chẳng ai buồn nghĩ đến việc xây
dựng thêm. Một cái chợ kế bên bến xe, hai bên là hai
dãy phố dùng làm các cửa tiệm vừa ăn uống, vừa buôn
bán. Trung tâm thành phố chỉ có bấy nhiêu. Tuy vậy, mỗi
ngày Tân đều mượn xe đạp của anh em binh sĩ ra phố
một lần để mua báo và tạp chí về ngồi đọc từ tin
tức cho đến dòng quảng cáo cuối cùng cho qua ngày.
Nỗi nhớ nhung Thùy Liên luôn
luôn dày vò lòng cậu. Cậu không dám trốn về thăm vì
lệnh nghiêm nhặt của bộ tư lệnh, cấm tất cả quân
nhân trực thuộc ra khỏi tỉnh nếu không có quân vụ
lệnh. Các sĩ quan trong bộ tư lệnh cũng nói cho cậu biết
trên con đường về Sài gòn, Việt cộng thường ẩn núp
trong các khu rừng và trong các vườn cao su, hoặc vườn
cây rậm rạp hai bên và bắn vào các xe chạy trên đường.
Thỉnh thoảng, ban đêm họ cũng đắp lên một mô đất
trên mặt lộ làm tắt nghẽn giao thông cả nửa ngày
trời.
Người ta cũng kể rằng có lần
Việt cộng mang súng mò ra giữa ban ngày, chận xe đò, lùa
khách vào rừng, xét giấy căn cước, bắt tất cả quân
nhân và công chức dẫn đi mất biệt. Tất cả những tin
tức đó làm cho mọi quân nhân có ý định trốn về Sài
gòn thăm nhà cũng phải thối chí.
*
* *
Một tuần lễ sau khi gửi đi lá
thư đầu tiên, Tân nhận được thư trả lời của vợ.
Cậu mừng rỡ, bóc ra ngay, đọc ngấu nghiến.
Anh yêu,
Chiều nay em vừa về đến nhà
thì bác Sáu Rô bước ra hiên gọi to:
- Cô Liên, có thư của thầy Tân
gởi về đây.
Em chạy vội đến và ôm lá thư
của anh vào lòng. Em cứ đứng yên như vậy, nước mắt
trào ra. Bác Sáu gọi bác gái ra. Bà dìu em về nhà, mở
cửa giúp rồi đưa em vào ngồi trên ghế. Bà cầm tay em
và nói:
- Mặt cô xanh lét như tàu lá. Cô
nghỉ một chút đi. Tôi đưa cô vô giường nằm nghe?
Em lắc đầu từ chối. Em bảo
bà đừng lo. Em mong thư anh quá, lo lắng cho anh quá, nên
được thư thì em xúc động một chút rồi sẽ khỏi
thôi. Em hỏi má em đi đâu vắng nhà. Bà bảo má vừa đi
chợ Vườn chuối, về nhà lại trở ra ngay vì quên một
món gì đó. Tội nghiệp, chiến tranh làm cho má chóng già
và đâm ra lẩm cẩm, quên trước quên sau.
Ngay sau khi anh đi rồi, em đánh
điện báo tin cho má biết và nhờ má lên ở trên nầy
với em. Má kể rằng khi được điện thì má cứ chạy
lui chạy tới, không biết chuẩn bị thứ gì để đi Sài
gòn. May nhờ có chị Hai hay kịp, qua giúp má soạn áo
quần và hôm sau đưa má ra xe. Em là con gái cưng, còn anh
là chàng rể quí của má, anh biết không? Thế là em chỉ
ở bên nhà chị Bạch Mai đúng một đêm rồi trở về
sống trong tổ ấm của chúng mình cùng với má.
Em vẫn đi làm ở tổng y viện
Cộng hòa. Mỗi ngày em đi về bằng phương tiện gì, đố
anh đoán được.
Em đi bằng xe đưa rước sĩ
quan! Anh thấy hay chưa? Lý do là thế nầy. Buổi sáng, hôm
anh lên đường, em đã xin nghỉ một ngày để đưa tiễn
anh. Nhưng sau khi anh đi rồi, em ở nhà một mình buồn
quá, đi ra nhớ anh, đi vào nhớ anh, qua bên chị Mai chơi
cũng nhớ anh. Em chịu không nổi nên thay áo quần rồi
ngồi xích lô đến sở làm.
Thấy em vào, đại úy dược sĩ
trưởng khoa rất ngạc nhiên, hỏi em rằng anh không đi
trình diện tái ngũ sao. Mới nghe câu hỏi là em đứng yên
khóc ròng, làm cả khoa phải xúm lại an ủi. Từ khi về
với anh, hình như em dễ khóc hơn cả khi còn là con gái,
có phải vậy không anh?
Anh chị em trong phòng hỏi thăm
anh, hỏi thăm sự sống của em sau khi anh đi rồi và biết
em bây giờ đi làm không ai đưa rước. Lập tức đại úy
trưởng khoa lên gặp ngay trung tá giám đốc và đề nghị
chiếc xe đưa đón sĩ quan hằng ngày, thay đổi lộ trình
đi ngang qua đường Vườn chuối để đón em. Trung tá
chấp thuận. Thế là, mấy hôm rồi em đều ra sớm, đứng
đợi xe trước cửa tiệm của chị Mai. Chị Mai cũng
thường ra đứng đó với em. Xe dừng lại, luôn luôn có
một sĩ quan quân y bước xuống đỡ em lên và nhường
chỗ cho em ngồi. Trong xóm nhiều người nhìn em lên xe.
Anh biết họ nói thế nào không? Chị Mai kể lại cho em
nghe, họ nói rằng anh đi chinh chiến thì vợ ở nhà phải
được mọi người săn sóc tận tình.
Đó, người chung quanh nói như
thế, đối xử với em như thế thì làm sao em không nhớ
anh quay quắt cho được.
Đọc thư anh, em vui mừng vô kể
vì anh được về bộ tư lệnh sư đoàn, không phải ra
chiến trường. Em rất cảm động vì những điều anh kể
về hai sĩ quan, trung tá trung đoàn trưởng và thiếu tá
tham mưu phó chiến tranh chính trị của anh. Ở miền Nam
nầy, ngay nơi nóng bỏng nhất, sự đối xử giữa những
con người với nhau vẫn tràn đầy tình cảm. Tự nhiên,
em nhớ lại một ý nghĩ xưa cũ đã nói với anh: “Nếu
miền Bắc đừng vào đây quấy phá, để cho người miền
Nam mình sống với nhau thì cuộc đời nầy xinh đẹp biết
bao”.
Anh yêu,
Trong thư anh viết cho em, anh bảo
rằng luôn luôn bị ray rứt vì mặc cảm hèn nhát trốn
tránh chiến trường; đọc tới đó, em lo quá. Đừng nên
mặc cảm như thế, anh yêu nhé. Anh đã từng tình nguyện
xông pha trên trận mạc trong nhiều năm trước đây, thế
thì anh đâu có hèn nhát. Máu anh đã đổ trên chiến
trường, thế thì anh cũng đã góp công một cách xứng
đáng cho Tổ quốc rồi. Bây giờ con anh cần anh sống để
nuôi nấng và dạy dỗ để nó trở nên người hữu dụng
cho đất nước sau nầy. Em không có ý lấy cái “nhi nữ
thường tình” mà ràng buộc kẻ “anh hùng” đâu, nhưng
quả thực, sự sống của anh bây giờ không phải của
riêng anh nữa. Một phần cuộc sống đó là của em và
phần lớn hơn là của đứa con sắp ra chào đời của
chúng mình. Mấy hôm nay, đứa bé bắt đầu cử động
nhiều trong bụng em. Có lẽ nó biết cha nó vừa khoác
chiến y trở lại rồi. Đêm nằm, em phải vỗ về nó:
- Con của mẹ hãy ngoan. Ba con đi
dẹp giặc ngoài biên cương và sẽ về khi chiến tranh lụi
tàn. Ba sẽ nuôi nấng cho con lớn lên. Con sẽ vào học
trong chính ngôi trường mà ba dạy dỗ. Rồi con sẽ rời
ngôi trường nầy để lên đại học và trở thành một
công dân xứng đáng như ba vậy.
Nó nghe lời em nên nằm yên để
em ngủ tới sáng. Em tin rằng, tuy còn trong bụng mẹ, đứa
bé vẫn nghe được những lời nói thực thân yêu. Vì vậy
các nhà y học và tâm lý học vẫn khuyên mọi người cố
tạo điều kiện cho người phụ nữ mang thai được sống
trong một môi trường êm dịu luôn luôn có những lời
nói hiền hòa.
Đáng lẽ, em cũng được sống
trong một môi trường như thế vì em là vợ của anh và
tình yêu của chúng mình là một trong những điều tuyệt
diệu nhất của thế gian. Nhưng cuộc chiến tàn khốc
buộc anh lại phải lên đường, con chúng mình không được
nghe những tiếng vỗ về của cha nó trong một thời gian.
Em hứa sẽ thay lời anh nói chuyện với nó hằng đêm.
Tay em sẽ thay tay anh vuốt ve cái bụng căn phồng, nơi trú
ngụ đầu tiên của đứa con chúng mình.
Thôi, đêm đã khuya rồi, em dừng
bút tại đây. Em chúc anh đêm nay có được một giấc mơ
thực đẹp, giấc mơ của người chinh phu trở về mái ấm
gia đình sau khi chiến tranh chấm dứt.
Người vợ yêu quí của
anh.
Đặng thị Thùy
Liên
Tân xếp lá thư lại, chậm rãi
cho vào phong bì, thẩn thờ nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ
rộng. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng đầu xuân làm cho
mọi vật sáng lên một cách rực rỡ. Lá thư của Thùy
Liên làm cho cậu bồi hồi xúc động. Thư của nàng bao
giờ cũng thực hay, cậu đọc đi đọc lại nhiều lần
không thấy chán. Đôi khi cậu nghĩ rằng Thùy Liên phải
là nhà văn thì đúng hơn là cô y tá tầm thường. Nhưng
dù cho là nhà văn hay y tá thì tâm hồn của Thùy Liên
cũng là một tặng phẩm quí giá nhất mà Thượng đế có
thể ban phát cho một người!
Với bức thư khôn khéo nầy của
người vợ thân yêu, cậu hoàn toàn yên tâm với chỗ
ngồi tương đối an lành hiện tại, không còn vướng mắc
về một mặc cảm hèn nhát mà cũng không còn tơ vương
về nếp sống sôi nổi và hào hùng trên những chiến
trường đầy gian nguy.
Cuộc sống trong dãy nhà dành
cho khối chiến tranh chính trị vẫn trôi đều đều một
cách nhàn nhã. Mỗi ngày cậu mặc bộ quân phục ủi
thẳng nếp, mang đôi giày đen bóng loáng, hai bông mai vàng
lấp lánh hai bên cổ áo. Hai buổi sớm chiều, cậu ngồi
vào bàn đọc sách báo, tài liệu hoặc văn thư từ các
nơi gởi về. Cậu ghi lại những điều quan trọng để
buổi chiều trình lại với thiếu tá tham mưu phó. Thỉnh
thoảng, cậu cũng theo thiếu tá đi dự họp với các sĩ
quan chiến tranh chính trị của các đơn vị khác. Cậu
thường viết diễn văn cho thiếu tá, đôi khi cho cả
thiếu tướng tư lệnh nữa. Diễn văn cậu viết được
nhiều người khen vì lời văn mạnh bạo và sáng sủa,
dẫy đầy những dẫn chứng trên chiến trường.
Dần dần, cậu quen biết với
nhiều sĩ quan thuộc các phòng ban của bộ tư lệnh và đi
đâu cũng nhận được những nụ cười thân ái và cởi
mở của người khác. Cuộc sống trong những ngày nầy
thực dễ chịu. Tất cả những tình huống tốt đẹp
trên đều được cậu mô tả kỹ lưỡng trong những lá
thư gởi về cho Thùy Liên làm cho tinh thần nàng phấn
chấn lên rất nhiều.
*
* *
Tân đã xa nhà vừa đúng
hai tháng. Tuần nầy, nhất định cậu phải về Sài gòn
để thăm Thùy Liên. Cậu không thể chịu đựng hơn nữa
nỗi nhớ nhung của mình. Cậu chỉ về một ngày thôi và
sẽ trở lại vào chiều hôm sau. Cậu không muốn xin phép
thiếu tá Bảo vì cậu không muốn đặt vị chỉ huy mình
vào tình trạng khó xử trong khi lệnh cấm trại một trăm
phần trăm vẫn còn hiệu lực. Cậu hiểu rằng lệnh cấm
trại nầy sẽ còn duy trì lâu lắm vì sau khi rút khỏi
các thành phố, Việt cộng nổ lực pháo kích vào các khu
đông dân cư bằng hỏa tiễn 122 ly làm cho tất cả các
đơn vị và cơ sở quân sự trên toàn quốc luôn luôn bị
đặt vào tình trạng báo động và ứng chiến.
Mặc kệ, cậu phải về thăm
Thùy Liên. Còn chưa đầy hai tháng nữa nàng sẽ sinh con.
Cậu phải về để tận mắt trông thấy sức khỏe của
nàng đồng thời chứng tỏ cho nàng thấy nỗi thương nhớ
của cậu không sao kể xiết và sẵn sàng chịu đựng mọi
bất trắc để được gần gũi nàng dù chỉ trong một
đêm ngắn ngủi.
Trưa thứ bảy, cơm nước xong,
cậu thay áo quần dân sự và nói với viên hạ sĩ quan
trong phòng rằng cậu muốn ra phố chơi suốt buổi chiều
và đêm nay. Nghe cậu nói, viên hạ sĩ quan cười:
- Hôm nay thiếu úy đi “xả xui”
phải không?
Đó là tiếng lóng trong quân đội
ám chỉ hành động đi tìm gái để giải quyết nhu cầu
sinh dục của người lính chiến xa nhà lâu ngày. Thông
thường, ở chung quanh bất cứ chỗ đóng quân nào cũng
một số gái giang hồ, sẵn sàng để cho quân nhân mua vui
trong chốc lát. Viên hạ sĩ quan của phòng là một tay
sành điệu ăn chơi. Anh ta chỉ cho Tân một cách cặn kẽ
địa chỉ của các “lầu xanh”ngoài phố, đặc điểm
của mỗi “nàng Kiều” và giá biểu rõ ràng.
Tân cố kiên nhẫn đứng nghe và
đợi lúc anh hạ sĩ quan ngưng nói là cậu từ giã đi
ngay. Cậu ra thành phố, leo lên chiếc xe đò đã đầy
khách, xe khởi hành ngay tức thì.
Đường đi không có vẻ gì là
nguy hiểm dù phải đi qua vài nơi vắng vẻ. Rải rác trên
đường vẫn còn dấu vết của chiến cuộc Tết Mậu
thân: những cây cao su ngã xuống vì đạn pháo, những
ngôi nhà sụp đổ, những bức tường đen thui đầy vết
đạn ngay cửa ngõ vào thành phố Biên hòa.
Xe chạy chậm, lại phải dừng
nhiều nơi nên đến hơn ba giờ mới về tới Sài gòn.
Cậu nhảy lên taxi và đốc thúc bác tài chạy nhanh về
nhà. Cậu nôn nao, cậu hồi hộp khi đi vào con hẻm quen
thuộc, mới xa cách có hai tháng mà tưởng như lâu lắm
rồi.
Cửa nhà đang mở. Cậu hiểu
rằng giờ nầy Thùy Liên chưa đi làm về, ở nhà chỉ có
mẹ của nàng mà thôi. Cậu bước vội vào, gọi lớn:
- Má ơi, má.
- Ai đó?
Có tiếng bà già từ dưới bếp
vọng lên.
- Con đây má.
Trả lời xong, cậu đứng yên
rảo mắt khắp phòng. Đồ đạc vẫn y nguyên không có gì
thay đổi. Chỉ có thêm một giường nhỏ trong phòng
khách, có lẽ dành làm chỗ ngủ cho mẹ của Thùy Liên.
Bà cụ xuất hiện ở cửa buồng
ngủ, đứng sững lại, ngạc nhiên:
- Tân đó phải không con? Về hồi
nào vậy?
- Dạ con vừa mới xuống xe. Má
có khoẻ không?
- Khỏe. Con đi tắm rửa thay áo
quần đi.
Bà nhìn đồng hồ:
- Mới hơn ba giờ. Sáu giờ con
Liên mới về tới. Con về nghỉ phép được mấy ngày?
- Dạ không có phép vì tất cả
quân nhân phải túc trực tại trại. Con trốn về thăm
Thùy Liên được một ngày thôi.
- Tội nghiệp dữ hôn. Con Liên
sắp sinh rồi, không biết tới lúc đó con có được về
hay không.
- Dạ phải về. Lúc đó còn cấm
trại hay không thì chưa biết được nhưng nhất định
con phải về vài hôm với Liên, đi phép hay trốn, nhất
định phải về.
- Ừ, phải đó con. Nó sinh con so
mà không có chồng bên cạnh thì tủi thân lắm. Trong giờ
phút đó, mẹ ruột cũng không bằng chồng được.
- Ba và gia đình dưới Cần thơ
có khỏe không má?
- Khỏe hết. Con Hai mới lên thăm
cách nay nửa tháng.
- Tình hình dưới đó thế nào
hả má?
- Sau Tết Mậu thân, mấy ổng
rút đi hết rồi, dân làm việc lại bình thường, sửa
chữa những chỗ hư hỏng, sụp đổ do bom đạn gây ra.
Ban ngày thì sinh sống vui vẻ nhưng ban đêm cứ lo mấy
ổng pháo kích vô thành phố. Nghe đùng một cái là ai nấy
cũng vội vàng tuột khỏi giường, nằm xuống sát đất.
Giải phóng cái gì mà cứ pháo riết vô nhà dân. Dân chết
hết rồi thì giải phóng vô đây mà sống với ai. Trước
đây, nhiều người cũng còn giữ cảm tình với mấy ổng.
Bây giờ, lo sợ bị pháo mà cảm tình đó mất hết.
Tân bước vào phòng rồi xuống
bếp, tần ngần đứng nhìn mọi thứ đã từng chứng
kiến những ngày hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Tắm rửa, thay áo quần xong, cậu
nói với mẹ vợ:
- Thùy Liên đi làm chưa về, con
qua thăm gia đình Bạch Mai một lát.
- Ừ, con qua thăm đi. Cả gia đình
bên đó tốt lắm. Cô Mai với con Liên nhà mình tuy là
người dưng mà đối xử với nhau còn hơn chị em ruột
thịt. Cả cậu Thế, chồng cô Mai cũng vậy, người sao
mà phúc đức. Làm tới thiếu tá chớ có phải người
thường đâu. Vậy mà mấy ông cách mạng dưới chỗ má
cứ bảo rằng sĩ quan Cộng hòa ác ôn.
Tân cười:
- Sĩ quan mà không đàng hoàng thì
làm sao cưới được con gái cưng của má.
Bà cười theo:
- Ừ hé, con cũng là sĩ quan mà
má quên mất, cứ tưởng con vẫn còn là giáo sư. Thôi
con qua thăm cô Mai đi rồi về. Má lo làm cơm. May quá,
sáng nay má đi chợ mua được con cá chim ngon lắm. Để
má chưng cà chua cho hai vợ chồng tụi bây ăn.
Tân chào mẹ rồi ra đường đến
nhà Bạch Mai. Cậu bước vào tiệm, chỉ có bé Thảo đang
ngồi trên ghế. Nó la to như một phản xạ:
- Má, có khách mua hàng.
Rồi nó khựng lại, trố mắt
nhìn Tân, tỏ vẻ ngạc nhiên và vui mừng. Có tiếng Bạch
Mai dưới bếp vọng lên:
- Ừ, con thưa với khách đợi má
một tí. Mời khách ngồi chơi hay lựa hàng đi.
Tân bước đến bế bé Thảo lên
tay. Con bé thực dễ thương và đẹp, có lẽ giống mẹ
nhiều hơn giống cha. Nó tiếp tục nhìn Tân rồi nhoẻn
miệng cười.
Giọng Mai từ dưới bếp vọng
lên tiếp:
- Thảo, khách còn đó không con?
Con bé im lặng không trả lời.
Có tiếng guốc hấp tấp đi lên. Bạch Mai đứng khựng
lại ở cửa, giọng nàng như nghẹn lại:
- Trời ơi, anh Tân. Trời ơi, anh
Tân thực đó hả?
Tân cười:
- Tân thực đây, không phải hồn
ma đâu mà sợ.
Bạch Mai đến gần, chắp hai tay
sau mông, nghiêng đầu nhìn Tân như quan sát một món hàng:
- Anh đi lính mà trông trắng trẻo
như đi dạy vậy.
- Tôi làm lính chiến tranh chính
trị như anh Thế thì có phải dầm sương dãi nắng gì
đâu, suốt ngày ngồi trong phòng đọc sách và bàn chuyện
trên trời dưới đất còn sướng hơn đi dạy nữa. Bác
Tư có nhà không?
- Ba em dẫn thằng Bình đi hớt
tóc rồi. Dạo nầy hai ông cháu thường dẫn nhau đi dạo
ngoài đường. Anh có khỏe không? Trông anh hơi ốm đó,
có lẽ vì nhớ vợ rồi ăn không được, ngủ không được
phải không?
- Tôi vẫn khỏe nhưng xứ đó
bụi bặm nhiều quá nên tôi có cảm giác như khó thở.
Nhưng không sao, dần dần quen đi thôi.
- Anh về phép được mấy ngày?
- Không ai dám cấp phép đâu,
đang cấm trại một trăm phần trăm trên toàn quốc. Trốn
về thăm nhà rồi đi ngay.
- Tội nghiệp cho Thùy Liên, lúc
nào cũng nhắc đến anh, càng tới ngày sinh, càng có vẻ
mong anh hơn. Sinh con đầu lòng mà không có chồng bên cạnh
thì tủi thân lắm, như em hồi đó sinh thằng Bình. Đến
bây giờ, đôi khi sực nhớ lại lúc đó còn thấy thương
thân muốn khóc.
Nàng cúi mặt xuống, nói tiếp
nho nhỏ:
- Nếu hồi đó, em không dại dột
nghe lời anh Đảnh bỏ đi trốn thì bây giờ cuộc đời
em chắc khác hẳn phải không anh Tân?
Nàng ngước lên, trong cái nhìn
thoáng có chút biến đổi. Tân vội quay mặt đi chỗ
khác:
- Mọi việc trên thế gian nầy
đều do một sự sắp đặt nhiệm mầu, người trần tục
chúng ta làm sao lường được. Tuy nhiên, những người
nhân đức như Bạch Mai bị đấng thiêng liêng bắt phải
chịu một nỗi bất hạnh nào đó để thử tấm lòng rồi
sau đó sẽ được đền bù xứng đáng. Với Bạch Mai thì
thiếu tá Thế và bé Thảo không phải là một đền bù
xứng đáng sao?
- Cám ơn anh, em cũng nghĩ như anh
vậy.
Nàng quay sang con, đưa hai tay ra:
- Thảo, qua mẹ để bác Tân nghỉ
ngơi.
Con bé bỗng xoay lại ôm chặt
lầy cổ Tân. Bạch Mai cười to:
- Con bé nầy hay chưa? Thôi được,
anh Tân ngồi chơi với cháu, em xuống bếp một tí. Cứ
tới giờ làm cơm, nếu không có ông ngoại thì cháu Thảo
phải trông nhà cho em. Có ai vô thì lập tức cháu la lên:
“Mẹ, có khách mua hàng”. Có hôm, nó đang mãi chơi, ba
nó đi làm về bước vào cửa, nó giật mình cũng la lên
như vậy làm cho anh Thế gần như lăn ra đất mà cười.
Bạch Mai xuống bếp một chốc
rồi trở lên. Tân ngồi nói chuyện với nàng một lát
rồi ra về.
Cậu vào nhà gặp mẹ, nói qua
loa vài chuyện rồi ra hiên đứng nhìn ra. Cứ mỗi lần
có tiếng xe hơi chạy qua ngoài đường nhựa, cậu lại
nhóng cổ về phía đó. Cuối cùng Thùy Liên của cậu
cũng xuất hiện với chiếc áo dài trắng, bên ngoài có
chiếc áo khoác mỏng dành cho phụ nữ mang thai.
Thùy Liên đứng khựng lại. Tân
chạy đến nắm tay:
- Thùy Liên!
- Anh Tân!
Hai người cùng thốt lên một
lượt. Tân đưa vợ vào nhà. Nàng đứng yên cho Tân hôn
nhẹ vào môi. Mắt nàng rưng rưng:
- Anh Tân, em nhớ anh quá chừng.
Tối nào vào giường nằm một mình, em cũng ước mơ có
phép mầu nào đó đưa anh về với em….
Nàng ngừng nói vì có tiếng guốc
của mẹ từ dưới bếp bước lên. Bà hỏi:
- Liên, con về rồi đó hả? Nãy
giờ thằng chồng của con cứ trông đứng, trông ngồi.
Thiệt là khổ, chiến tranh làm gì cho vợ xa chồng, con xa
cha, giải phóng làm gì cho dân khốn đốn. Thôi, đi thay
áo quần rồi ăn cơm. Tao đi qua chị Sáu xin trái ớt. Đi
chợ, cứ quên trước, quên sau.
Bà cụ bước ra cửa. Tân dìu vợ
vào buồng, khép cửa lại. Cậu giúp Thùy Liên cởi nút
áo ra. Khi tấm thân của nàng phơi ra lồ lộ, Tân quỳ
xuống áp mặt mình vào cái bụng to tướng của nàng.
Thùy Liên thay áo quần xong, Tân
định ở nhà để vợ chồng quấn quít với nhau nhưng
Thùy Liên bảo:
- Anh phải qua thăm gia đình chị
Bạch Mai.
- Anh qua gặp Bạch Mai khi nãy
rồi.
- Lúc đó anh Thế đi làm chưa về
phải không?
Tân gật đầu. Thùy Liên nói
tiếp:
- Không được, anh phải qua thăm
anh Thế. Trong thời gian anh vắng mặt cả hai anh chị ấy
thương em, chăm sóc còn hơn anh chị ruột nữa. Có hôm
anh Thế vào tổng y viện Cộng hòa xem em làm việc có vất
vả lắm không. Gặp ai trong đó, từ giám đốc đến y
tá, anh ấy đều dặn phải giúp đỡ em vì em là vợ của
chiến binh. Từ đó người ta không kêu em là y tá Liên
nữa mà gọi là “cô vợ chiến binh”.
- Thôi được, anh đồng ý đi
thăm. Anh cũng muốn gặp anh Thế để hỏi thăm tình hình
chiến sự ở ngoài Trung một chút. Nhưng anh chỉ đi với
điều kiện…
- Điều kiện gì?
- Em cùng đi với anh.
Thùy Liên cười khúc khích:
- Anh có muốn đi một mình em
cũng không cho đâu.
Hai vợ chồng trẻ nắm tay nhau
ra khỏi nhà. Dài theo con hẻm nhỏ, họ phải nhiều lần
đáp lại những câu chào thân ái của những người cùng
xóm.
Thiếu tá Thế đón ở cửa
trước, giọng vồn vã:
- Nghe anh về, tôi tính qua thăm.
Chưa kịp đi thì hai ông bà đã qua tới rồi. Xin mời
vào.
Bạch Mai gọi lớn:
- Anh Tân và Thùy Liên vào trong
nhà đi. Ba ơi ba, có anh Tân đến thăm.
Tân vội bảo:
- Đừng gọi bác xuống. Để tôi
lên trên phòng thăm bác.
Bạch Mai gật đầu:
- Anh Tân lên lầu một mình đi,
Thùy Liên xuống đây với chị. Bụng to rồi, không được
lên xuống cầu thang nguy hiểm.
Tân lên lầu gặp bác Tư, chào
hỏi rồi trở xuống. Thiếu tá Thế hỏi vợ:
- Tối nay mình mời anh Tân và
Thùy Liên dùng cơm nhé?
Thùy Liên vội từ chối:
- Hôm nay thì không được vì má
em đang làm cơm ở nhà, chúng em phải về dùng bữa với
bà.
Thế nói:
- Thôi được, hai ông bà ngồi
đây uống nước trà vậy. Bạch Mai cho hay anh Tân về làm
việc ở khối chiến tranh chính trị của sư đoàn, thế
là cùng ngành với tôi. Anh về đó làm gì?
- Chẳng có công việc gì rõ rệt.
Thiếu tá tham mưu phó sai đâu làm đó. Vào đó rồi mới
thấy chiến tranh chính trị là ngành hoạt động yếu
nhất trong quân đội, có phải vậy không anh Thế?
- Nói yếu là quá nhân nhượng.
Phải nói chẳng được việc gì thì đúng hơn.
- Thiếu tá Bảo cũng nói như
thế. Tất cả quân đội cũng đánh giá như thế. Cho nên
dưới cái nhìn của mọi người thì sĩ quan chiến tranh
chính trị chẳng có ích lợi gì cho quân đội.
Thế gật đầu:
- Đó là điều tôi ưu tư. Cuộc
chiến tranh mà ta đang chịu đựng là một bộ phận của
cuộc tranh đấu một mất một còn giữa chủ nghĩa cộng
sản và chủ nghĩa tư bản, giữa độc tài và dân chủ,
giữa kìm kẹp và tự do. Thế mà cứ thử hỏi bất cứ
binh sĩ nào của mình rằng anh đi chiến đấu vì cái gì
thì chắc chắn chẳng có câu trả lời nào nghe được.
Còn ở miền Bắc thì sao? Mọi người từ anh binh nhì,
anh công nhân hạng bét cho đến ông thủ tướng đều
phát biểu một cách trôi chảy mọi vấn đế chính trị
cùng với một luận điệu y như nhau. Cuộc chiến tranh
nầy có hai mặt trận. Chúng ta chỉ đáp ứng được mặt
trận quân sự, còn mặt trận chính trị tư tưởng thì
chúng ta bỏ ngỏ mặc cho đối phương tung hoành.
Tân góp ý:
- Anh nói đúng quá. Trong thời
gian nhập ngũ, tôi đã qua nhiều nơi. Nơi nào cũng vậy,
từ binh sĩ đến sĩ quan, ai cũng chỉ quan tâm đến lệnh
hành quân, ngoài ra chằng còn để tâm đến tình hình
quốc nội, quốc tế gì cả.
Mắt Thế sáng lên vì gặp được
người đồng điệu:
- Đúng rồi, cái chuyện thời sự
nóng hổi chính là chuyện khai quật những hố chôn tập
thể những nạn nhân mà Việt cộng thảm sát ở Huế
trong Tết vừa rồi. Thế mà ngày hôm qua, gặp một trung
úy sư đoàn Bảy, tôi hỏi có biết chuyện thảm sát đó
không, anh ta lắc đầu bảo rằng không biết. Trời đất
hỡi, cái tội ác tày trời của cộng sản đối với
đồng bào ruột thịt của mình, cả thế giới đều biết
mà một sĩ quan của chính quân đội mình lại không biết.
Chuyện khó tin như thế mà có thực. Rõ ràng đó là lỗi
của ngành chiến tranh chính trị của chúng ta. Anh có biết
rõ cuộc thảm sát đó không?
Tân trả lời:
- Có, tôi có nghe nói rằng trong
một tháng chiếm được thành phố Huế, cộng sản đã
biến chốn cố đô xinh đẹp đó thành một địa ngục
trên trần gian.
- Đúng là địa ngục của trần
gian. Họ đã giết chết quân nhân công chức mà họ bắt
được đã đành, ngay cả đồng bào vô tội cũng bị họ
bắn chết và chôn vào các hố tập thể với cả trăm
mạng người mỗi hố.
Tân hỏi:
- Nghe nói lúc đầu mới vào, họ
tỏ ra tử tế và sau nhiều ngày mới bắt đầu hành động
giết người. Có phải vậy không?
- Đúng vậy, dân ở Huế đều
kể lại như thế, và đó là điều đáng phải suy nghĩ.
Trong lịch sử chiến tranh của loài người, việc thảm
sát thường dân không phải là hiếm nhưng những vụ giết
chóc đó là do sự tức giận, sự điên cuồng của những
người lính. Thí dụ rõ ràng nhất là sự tàn ác của
quân Mông cổ dưới thời Thành cát Tư hản. Có nhiều
thành phố bị họ giết gần hết sau khi thất thủ. Nhưng
họ chỉ giết cư dân những thành phố nào đã chống lại
họ một cách quyết liệt. Còn những thành phố sớm đầu
hàng thì thôi, dân không bị giết. Ngược lại, ở Huế
trong ngày Tết vừa rồi, dân có chống Việt cộng đâu
mà chúng cũng giết. Hơn nữa, trong lịch sử, sự tàn
sát, nếu có, chỉ xảy ra ngay sau khi thành phố đó thất
thủ, chứ không phải là vào đó một thời gian, sống
chung với người ta và sau đó đem người ta ra mà giết
một cách lạnh lùng như cộng sản ở Huế sau ngày Tết
Mậu thân.
Tân gật đầu:
- Vâng, giết người từ từ sau
khi chiếm được thành phố thì thực là man rợ. Chuyện
đó cũng đã từng xảy ra dưới thời Đức Quốc xã.
- Nhưng anh nên nhớ rằng Đức
quốc xã giết Do thái là muốn tiêu diệt một dân tộc
không phải là Đức mà là một chủng người mà bọn
phát xít cho là có hại cho nền văn minh của dân tộc
chúng. Còn ở Huế thì chính người Việt giết người
Việt, không vì một lý do nào rõ rệt, mà chỉ vì nghi
ngờ không thích họ mà thôi. Họ giết đồng bào mà bình
tĩnh và khéo léo lạ lùng. Thí dụ như ở sân trường
Gia hội, trong một đêm họ lùa vào hàng trăm người, sau
đó tách ra một nhóm nhỏ khỏe mạnh và bảo rằng mọi
người ở đây đều bị chính quyền cách mạng lên án
tử hình, tuy nhiên đến giờ chót thì riêng nhóm nhỏ nầy
được lệnh khoan hồng với điều kiện là phải ra sức
đào một cái hố khá sâu trong sân trường. Thế là cái
hố nhanh chóng được hoàn thành. Sau đó mọi người bị
bắn chết hết kể cả những người đào hố. Quả thực
là tài tình!
- Nhưng chết hết rồi thì lấy
ai mà kể lại chuyện đó?
- Đó là lời khai của một chú
dân quân Việt cộng đêm đó có tham gia vụ thảm sát và
bị bắt sau đó, khi ta chiếm lại được thành phố Huế.
Nghe nói, ít lâu sau, cậu dân quân nầy đã thừa dịp tự
tử chết trong khám rồi. Cái hố chôn tập thể đó đã
được khai quật. Gần hai trăm xác! Thối kinh khủng vì
thịt chưa tan hết, nhưng sự nhận diện cũng vô cùng khó
khăn. Hố đó phải khai quật gấp để lấy chỗ cho các
em bé vào học trở lại. Còn nhiều hố khác đang được
định vị trí và chuẩn bị khai quật. Nhiều nhất là
trên đường rút lui của chúng sau khi bị chúng ta đẩy
khỏi thành phố. Đó là các hố tập thể, còn các hố
cá nhân do đồng bào tự chôn cất người chết thì nhiều
vô số kể. Trong các khu vườn, bên ven đường, dọc theo
chân tường của thành nội, đâu đâu cũng dẫy đầy
những mô đất sơ sài, bên dưới có một, hai xác chết
không biết của ai. Người Huế tin rằng khi trời chập
choạng tối thì linh hồn người chết trở về tìm lại
xác mình nên vào đầu hôm, người ta lại đốt nhang lên
đầu các ngôi mộ. Lúc đó thành phố chìm trong cảnh ma
quái rùng rợn nhưng vô cùng thương tâm. Khắp nơi trong
thành phố, những đốm lửa lập lòe, khẽ sáng lên khi
từng ngọn gió thổi qua. Người dân Huế vốn rất hiền
lành và đức độ vì chịu ảnh hưởng của Phật giáo,
thế mà sau Tết Mậu thân vừa rồi, nhiều người phải
nghiến răng thề trả cho được mối thù Mậu thân nầy.
Mồng một Tết được chọn làm ngày giỗ tập thể của
thành phố. Từ nay, ngày Tết không còn là ngày vui của
thành phố nên thơ đó nữa.
- Tôi nghe nói đài phát thanh Hà
nội và đài Giải phóng vẫn gọi cuộc tổng công kích
Tết mậu thân là một chiến thắng vĩ đại.
- Tất nhiên là chúng phải luôn
luôn nói như thế để lừa gạt dư luận, nhất là dư
luận quốc tế. Cơ quan tuyên truyền của họ nói hăng
quá nên ở nước ngoài, nhiều người tin rằng chúng đã
chiến thắng thực sự chứ đâu có biết chúng đã bị
thiệt hại quá nhiều trong một ý đồ cực kỳ ngu xuẩn
về mặt quân sự rồi trút thù hận lên đầu dân chúng.
- Theo anh thì trong nội bộ, họ
có nhận đó là một thất bại to lớn hay không?
- Không thể biết được. Về
mặt công khai chúng vẫn lớn tiếng rêu rao chiến thắng
và có vẻ như muốn biện minh việc rêu rao đó bằng cách
tiếp tục tạo áp lực vào các thành phố.
- Nghĩa là mở một chiến dịch
khác như Tết Mậu thân?
- Không đánh như Tết Mậu thân
nữa đâu, hết yếu tố bất ngờ rồi. Từ nay trở đi,
chắc chắn sẽ không có thỏa thuận ngầm về hưu chiến
trong mấy ngày Tết nữa. Có lẽ nay mai chính phủ sẽ ban
hành lệnh cấm đốt pháo trong ngày Tết.
- Thế thì anh nói Việt cộng tạo
áp lực vào các thành phố bằng cách nào?
- Trước hết là lén đem hỏa
tiễn 122 ly thụt vào các khu dân cư đông đúc. Rồi sau
đó là gì nữa thì chưa biết. Chúng ta đang tích cực
khai thác những tin tình báo để xác định ý đồ của
Việt cộng hầu đánh tan những âm mưu đen tối của
chúng, trước khi chúng thực hiện một cách bất ngờ như
cách làm vào dịp Tết Mậu thân vừa rồi.
- Theo anh thì trong những ngày sắp
tới Việt cộng sẽ hoạt động thế nào?
- Việt cộng đã chịu quá nhiều
tổn thất trong Tết Mậu thân vừa qua nên chúng phải gấp
rút bổ sung lực lượng bằng cách tăng cường sự xâm
nhập người và vũ khí từ miền Bắc vào. Hoạt động
trên đường mòn Hồ chí Minh đã rộn rịp nay lại càng
rộn rịp hơn nữa. Trong miền Nam, chúng sẽ ra sức bắt
lính ở những vùng mà chúng kiểm soát. Đó là những
vùng thưa dân cư nên chúng sẽ bắt cả trẻ em cầm súng.
Ở thành thị thì chúng dụ dỗ thanh niên ra chiến khu,
nhưng có lẽ không thành công vì nhiều tổ chức nằm
vùng đã bị lộ mặt khi lính Việt cộng vào các thành
phố trong dịp Tết vừa qua.
- Còn phía chúng ta?
- Chính phủ đã ban hành lệnh
tổng động viên rồi nhưng cũng phải duy trì các sinh
hoạt dân sự. Chúng ta không thể áp dụng phương châm
“tất cả cho tiền tuyến” như Việt cộng được. Bản
chất của chế độ của chúng ta là nhân đạo nên chúng
ta không thể hi sinh mọi quyền lợi dân sự cho hoạt động
quân sự được. Tôi nghe nói bộ giáo dục đang vận động
với văn phòng tổng thống và với bộ quốc phòng trả
các sĩ quan gốc giáo chức trở về dạy học lại. Các
trường đang thiếu thầy một cách trầm trọng. Chúng ta
không thể để con em mình thất học được. Chúng ta khác
với cộng sản chỗ đó.
Thùy Liên tự nãy giờ ngồi nghe
bỗng lên tiếng:
- Anh Tân, thôi về đi, mẹ đang
đợi cơm ở nhà đó.
Tân đứng dậy từ giã rồi cùng
vợ trở về nhà.
Hôm sau là chúa nhật, Thùy Liên
được nghỉ. Hai vợ chồng đi dạo phố cả buổi sáng.
Phố xá Sài gòn nhộn nhịp, người mua bán kẻ dạo chơi
vui vẻ, thảm cảnh của tết Mậu thân không còn lưu lại
ảnh hưởng nào. Sau bữa cơm trưa, Tân từ giã gia đình,
Thùy Liên rưng rưng nước mắt tiễn chồng ra tận đầu
ngõ hẻm.
Tân về đến Long khánh khi nắng
vẫn còn chói chang.
*
* *
Cuộc sống lại kéo dài một
cách buồn chán. Tin tình báo của các nhóm biệt kích cho
hay một số binh lính Việt cộng xuất hiện trong các vườn
cao su bạt ngàn. Bộ tư lệnh sư đoàn ra nhật lệnh nhắc
nhở toàn thể quân nhân phải canh gác cẩn thận, sửa
lại các hố phòng thủ, đào thêm giao thông hào, tăng
cường trực gác và tuần tiểu. Râm ran trong quân đội
và trong dân chúng, người ta đồn đãi rằng Việt cộng
đang chuẩn bị tấn công đợt hai. Tin đồn nầy làm cho
nhiều người lo lắng.
Một hôm, vào giữa khuya, có
tiếng súng nổ ran ở một địa điểm nào đó thuộc
ngoại ô thành phố. Trong bộ tư lệnh, kẻng báo động
vang lên. Tân thức dậy, ngồi trên miệng hầm trú ẩn,
nghe bên ngoài tiếng bước chân rầm rập của lính ra
tuyến phòng thủ. Trung úy Quá vẫn nằm trong mùng nói
vọng ra:
- Anh Tân vào giường ngủ tiếp
đi. Chúng đánh chỗ khác chứ chưa đánh chỗ mình thì cứ
ngủ, bên ngoài có lính canh gác rồi. Đừng lo, tuyến
phòng thủ của sư đoàn vững chắc lắm; chui vào đứa
nào là chết đứa đó.
Trung úy Quá là sĩ quan của khối
tiếp vận. Anh ta có vẻ gan dạ, bất cần đời, gần bốn
mươi tuổi mà vẫn còn độc thân. Anh làm việc ở đây
nhiều năm rồi.
Tân trả lời:
- Được, không sao, tôi ngồi
ngoài nầy cho đúng với qui định của bộ tư lệnh. Vả
lại, súng nổ thế này, có nằm trên giường cũng không
ngủ được. Anh ở đây lâu quen với địa phương, thử
đoán xem chúng tấn công vào đâu, có phải tiểu khu
không?
- Hướng súng nổ không phải là
tiểu khu, có lẽ ở một đồn địa phương quân nào đó.
Kìa, anh nghe không, có tiếng nổ của đại bác 105 ly.
Trung úy Quá im lặng một chút
rồi nói tiếp:
- Kỳ quá, y như tiếng đại bác
trực xạ.
Tân ngạc nhiên:
- Đại bác bắn thẳng à?
- Đúng rồi, tiếng súng bắn đi
và tiếng đạn nổ rất gần nhau, hai tiếng nổ liền
nhau từng phát một. Thế là chúng nó đánh vào căn cứ
pháo binh rồi.
- Pháo binh của sư đoàn?
Trung úy chui ra khỏi mùng, đưa
tay chỉ về một hướng:
- Không, tiểu đoàn pháo binh của
sư đoàn ở về hướng nầy và gần đây lắm. Đây có
lẽ là căn cứ pháo binh trực thuộc vùng Ba Chiến thuật,
ở cách chúng hơn ba cây số. Kìa, phi cơ lên. Tiếng trực
thăng vũ trang. Đó “rẹt ùm, rẹt ùm”. Máy bay bắn hỏa
tiễn xuống đó. Thứ nầy mà lâm trận thì Việt cộng
tan xác. Chúng mình ra sân xem.
Hai người bước ra cửa, nhìn
thấy ánh hỏa châu sáng rực một góc trời. Hỏa châu từ
một phi cơ vận tải bay trên cao thả xuống. Dưới thấp
thì hai trực thăng bay rề rề theo vòng tròn, ẩn hiện mờ
mờ ảo ảo trong ánh sáng khi lu khi tỏ của hỏa châu.
Đạn đại liên loại bắn nhanh từ phi cơ rót xuống từng
hồi dài. Thỉnh thoảng, có tiếng hỏa tiễn xé gió, tiếp
theo là tiếng nổ vang rền.
Trung úy Quá lắc đầu:
- Da thịt con người làm sao chịu
nổi hỏa lực của những con quỉ biết bay nầy.
Tiếng súng nổ dồn dập khoảng
hơn một giờ đồng hồ rồi giảm dần. Không còn tiếng
đại bác trực xạ nữa, mấy chiếc phi cơ cũng biến mất
trong bóng đêm. Súng trường dưới đất còn tiếp tục
nổ rời rạc. Thỉnh thoảng, một trái hỏa châu được
bắn lên cao, sáng rực, chậm chậm rơi xuống rồi tắt
ngấm.
Trung úy Quá và Tân trở vào nhà,
leo lên giường. Không bao lâu, trung úy Quá ngáy đều đều
còn Tân thì nằm thao thức cho đến khi gà gáy sáng.
Bình minh đến với những tia
sáng đầu tiên làm cho đám mây ở phương Đông hồng lên
rực rỡ.
Trung úy Quá bước xuống giường
và vội vàng ra khỏi phòng. Độ nửa giờ sau, anh trở
lại gọi to:
- Tân ơi Tân, đi xem không?
- Xem gì?
- Xem xác Việt cộng, nhiều lắm,
nhiều lắm. Tôi mới đi hỏi thăm tin tức trên trung tâm
hành quân. Đúng như mình đoán khi hôm, Việt cộng về
đánh căn cứ pháo binh trực thuộc quân đoàn. Đi xem đi.
Có một chiếc xe Dodge của phòng Ba sắp chạy đến đó,
mình xin đi nhờ, nhanh lên.
Tân phóng xuống giường, mặc
vội áo quần rồi theo trung úy Quá. Hai người bước lên
thì xe khởi hành. Thành phố vừa thức dậy với cái vẻ
thản nhiên thường ngày của công chúng. Dân ở cái thành
phố bé nhỏ nầy, sát nách với mật khu Việt cộng, đã
quá quen với chiến tranh; tiếng súng nổ, tiếng bom rền
không làm cho họ nao núng nữa. Rất nhiều người tuôn ra
đường, rủ nhau đi xem nơi vừa xảy ra trận đánh tại
vùng ngoại ô thành phố.
Xe tiến gần đến khu vực căn
cứ pháo binh phải nhấn còi inh ỏi thì mới lách qua được
đám đông người hiếu kỳ đổ về trân địa đêm rồi.
Căn cứ pháo binh nằm kế cận
một nghĩa trang, chỉ cách bằng một khoảng đất trống
độ một trăm mét. Trên khoảng đất đó, có la liệt
những xác chết, cái nằm ngửa, cái nằm sấp, cái nằm
thẳng, cái nằm co quắp, máu đọng thành từng vũng đen
sì. Khiếp đảm hơn nữa, trên hàng rào kẽm gai, vắt vẻo
mấy xác chết, hai tay buông thỏng, cây súng AK nằm dưới
đất, nòng súng ghếch lên khỏi đám cỏ rậm rạp. Trong
nghĩa trang, cảnh tượng càng ghê rợn hơn. Xác chết nằm
đầy trong các khoảng trống giữa các ngôi mộ. Ở đầu
nghĩa địa, có một cái huyệt trống mà gia đình nào đó,
có lẽ hôm nay sẽ đặt quan tài của người thân xuống
đó; đất mới chung quanh bị đạn cày nát, trong huyệt
có ba hay bốn xác chết nằm chen chúc nhau. Tựa vào tấm
bia ở đầu một ngôi mộ, một đứa bé ngồi bất động,
cây súng AK gác lên hai đùi, hai tay vòng trên cây súng, bợ
lấy cả một đống ruột thoát ra từ cái bụng bị xé
rách toang; đầu của nó cúi xuống, mắt mở trừng trừng.
Có lẽ cậu ta đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ruột
mình đổ ra và tắt thở trong nỗi ngạc nhiên đó.
Mùi máu, mùi tử khí xông lên
nồng nực. Những người hiếu kỳ phải đứng xa xa, lấy
khăn hoặc vạt áo che kín mũi và miệng, mắt láo liêng
trong một nỗi kinh hoàng tột độ.
Cùng với nhiều sĩ quan và binh
sĩ khác, trung úy Quá nắm tay Tân lôi đến gần hơn. Bấy
giờ, Tân mới nhìn rõ mặt các xác chết. Tất cả còn
rất nhỏ, ít có xác nào tuổi quá mười tám. Nhiều xác
có nét mặt rất hồn nhiên, hai mắt nhắm nghiền như
đang thản nhiên trong một giấc ngủ ngây thơ và vĩnh
viễn. Tân cảm thấy, trong nỗi sợ hãi cùng cực, lòng
cậu quặn thắt vì đau đớn và phẫn nộ.
Một đại úy có mang phù hiệu
pháo binh nói với trung úy Quá:
- Anh xem nầy, miếng đất trống
thế nầy mà bọn con nít cứ xổng lưng ôm súng chạy
vào. Lính trong lô cốt và trong giao thông hào cứ nhắm
mắt mà ria đạn cũng trúng. Đứa trước ngã xuống thì
đứa sau đạp trên xác mà lao tới. Đêm tối, dưới ánh
sáng hỏa châu lập lòe, thấy những đứa trẻ phóng tới,
mình không tin rằng đó là những con người bằng xương
bằng thịt được, và cũng không thể tin rằng đó là
cảnh có thực trên trần thế, mà cứ ngỡ như chuyện
xảy ra trong một phim giả tưởng.
Trung úy Quá chỉ những cái xác
vắt vẻo trên hàng rào kẽm gai, hỏi:
- Còn những đứa nầy sao leo
được lên cao vậy?
- Đó là những đứa vào trước
tiên. Khi những cái lon báo động ở hàng rào rung leng
keng thì lính gác rọi đèn trông thấy và nổ súng.
- Hình như có tiếng đại bác
trực xạ phải không?
- Có, một cây 105 ly đặt trên
mô cao không bị các dãy nhà che khuất đã bắn thẳng
nhiều phát ra nghĩa địa.
- Có lẽ vô số xác chết ngoài
đó là do đại bác trực xạ?
- Không phải do đạn đại bác
đâu mà do đại liên và hỏa tiễn của phi cơ trực
thăng. Tụi nó núp giữa các ngôi mả thì tránh được
đạn bắn ngang từ trong đồn ra chứ làm sao tránh được
đạn và hỏa tiễn từ trên phi cơ rót cuống. Tôi không
thể nào hình dung được sự dốt nát và tàn nhẫn của
cái bọn chỉ huy cộng sản. Mấy đứa con nít nầy bị
chết oan nầy vì bọn đó.
Anh tiếp tục nói với giọng
trầm xuống, ngậm ngùi:
- Đêm rồi, thấy tụi nó chạy
vào, mình cứ mãi mê bóp cò, giết chết bọn tấn công
để bảo vệ căn cứ và mạng sống của mình. Sáng ra,
thấy toàn con nít nằm chết, mình thấy ruột gan như muốn
lộn ra ngoài. Đây quả là một chiến thắng tuyệt đối
của đơn vị mình, giết được cả trăm địch quân, thu
được mấy chục cây súng và lính mình thì hoàn toàn
bình yên vô sự. Chiến thắng như thế mà mình chẳng
thấy vẻ vang chút nào, trái lại mình còn cảm thấy một
nỗi đau đớn không thể nào tả được. Có lẽ sau nầy
chết xuống âm phủ, mình sẽ phải trả lời với diêm
vương về cái tội giết chết cả trăm đứa con nít đáng
thương nầy.
Đại úy chỉ vào bên dưới hàng
rào phòng thủ:
- Anh có nhìn thấy cái miệng
cống đó không? Cái cống thoát nước mưa trong đồn ra.
Lính vừa lôi được hai đứa con nít chui vào trong đó.
- Chết mà còn chui được vào
trong cống à?
- Không, còn sống nhăn, không bị
chút thương tích nào cả. Hai đứa đó hoảng quá vứt
súng chui tọt vào đó nên còn sống. Anh xem, cái lỗ như
vậy mà hai đứa chui vào lọt. Đó, chiến sĩ cách mạng
vĩ đại như thế đó.
Tân cảm thấy nôn nao khó chịu.
Cậu quay lui, chậm rãi tránh xa nơi tử địa, leo lên xe
và ngồi gục mặt vào hai gối. Một lát sau, xe nổ máy
đưa mọi quân nhân của bộ tư lệnh sư đoàn về căn cứ
của mình. Tân xuống xe đi thẳng về phòng làm việc của
khối chiến tranh chính trị. Giờ nầy, cậu muốn ngồi
một mình, không muốn gặp ai khác vì cậu biết mọi
người đang bàn tán xôn xao về trận đánh đêm rồi ở
căn cứ pháo binh, về hàng trăm xác chết đa số là trẻ
em còn phơi nắng sáng bên ngoài đồn.
Cậu cố xua đuổi ra khỏi trí
óc cảnh ghê rợn vừa mới chứng kiến. Cậu lấy giấy
ra và gắng tập trung ý nghĩ để viết một bài tham luận
về công ước Genève trong chiến tranh Việt Nam mà thiếu
tá tham mưu phó sẽ đọc trong hội nghị chiến tranh chính
trị cấp trung ương. Cậu cúi xuống, ngòi bút lướt
nhanh trên trang giấy. Cậu sửng sốt đọc lại giòng chữ
vừa mới viết xong: “Công ước Genève về vấn đề sử
dụng trẻ em trên chiến trường”. Cậu quăng bút xuống
bàn, đọc lại giòng chữ một lần nữa và hoảng hốt
khi thấy giòng chữ như nhảy múa một cách ma quái trên
những xác chết lòi ruột lòi gan, đầu vỡ toang, óc vắng
tung tóe, bên ngoài căn cứ pháo binh của Vùng Ba chiến
thuật.
*
* *
Cảnh hãi hùng tiếp tục ám ảnh
Tân nhiều đêm liên tiếp. Cậu muốn đi khỏi thành phố
đất đỏ nầy một vài hôm. Cậu nhẩm tính, chưa đầy
một tháng nữa, Thùy Liên sẽ sanh con. Trong lá thư sau
cùng mà nàng gởi cho cậu, nàng nói vừa mới gởi đơn
xin nghỉ hộ sản để chuẩn bị cho đứa bé chào đời.
Cậu phải về với vợ ít nhất là ba ngày để giúp Thùy
Liên thu xếp công việc. Đi lâu như thế thì nhất định
phải nói cho thiếu tá Bảo biết rồi sau đó dù ông có
cho phép hay không thì cậu cũng lên đường.
Cậu vào gặp thiếu tá, trình
bày ý định và không quên nói đến đứa con đầu lòng
sắp ra đời của mình. Thiếu tá nhìn cậu một chút rồi
nói với giọng ôn tồn:
- Anh sắp có con đầu lòng à?
Thế thì anh hãy về thu xếp công việc đi. Tôi đồng ý
cho anh vắng mặt tối đa là bốn ngày nhưng không thể
cấp giấy phép được vì lệnh cấm trại một trăm phần
trăm vẫn còn hiệu lực. Khi đi, anh cũng nên cẩn thận,
tình hình đang căng thẳng. Rán tránh đừng để cho bên
nay cũng như bên kia bắt được. Việt cộng bắt thì tàn
cuộc đời, còn quân cảnh bắt thì cũng phiền phức lắm
đó. Nhớ thu xếp công việc cho nhanh và về cho sớm. Nếu
anh đi quá lâu và xảy ra việc gì không tốt thì tôi khó
che chở cho anh được.
- Vâng, thưa thiếu tá, tôi sẽ
cố sức cẩn thận và vắng mặt tối đa bốn ngày mà
thôi.
- Được rồi, chúc anh đi đường
may mắn. Cho tôi gởi lời thăm bà xã nhé.
- Dạ, cám ơn thiếu tá.
Tân về phòng thay thường phục
rồi ra bến xe đò. Chiếc xe chạy chậm, lại dừng nhiều
nơi nên đến xế chiều cậu mới về tới Sài gòn. Cậu
bước vào nhà, Thùy Liên và mẹ đang ngồi ở phòng
trước. Cả hai mẹ con hết sức mừng rỡ. Thùy Liên
trông khỏe mạnh nhưng đi đứng chậm chạp vì cơ thể
nặng nề.
Nàng cầm tay cậu áp vào mặt
mình:
- Anh Tân, sao anh được về? Anh
về trong bao lâu?
Tân vuốt tóc vợ:
- Anh xin phép thiếu tá về thăm
em trong ba hoặc bốn ngày. Em được nghỉ rồi phải
không?
- Dạ, em nghỉ được ba hôm rồi
ở nhà lo may tả và áo quần cho em bé. Em định đem ra
ngoài tiệm thuê người ta may, nhưng má không cho. Má bảo
thuê thì chắc chắn sẽ may bằng máy, đường chỉ cứng
lắm. Mình may tay, đường chỉ mềm hơn, em bé mặc được
êm ái. Thế là hai mẹ con, ngày nào cũng cặm cụi ngồi
may.
Mẹ Thùy Liên nói:
- Tân, con đi rửa mặt rồi nói
chuyện. Con ăn gì chưa?
- Con ăn bánh trên xe rồi. Má có
khỏe không?
- Ừ, má khỏe.
Tân xuống bếp, Thùy Liên theo
sau. Cậu rửa mặt xong, bước đến ôm hôn vào môi nàng.
Xong, cậu hỏi:
- Em tính kỹ chừng nào sanh?
- Bác sĩ bảo không thể nào tính
cho chính xác được. Em đoán sẽ sanh trong vòng từ hai
mươi đến hai mươi lăm ngày nữa.
Cậu nhìn nàng với cặp mắt lo
lắng:
- Lúc đó một mình má, làm sao
săn sóc em cho chu đáo được?
Thùy Liên nhìn chồng, cười chúm
chím:
- Mấy hôm trước em cũng đang lo
chuyện đó thì được thư chị Hai gởi lên bảo rằng
chị đã thu xếp xong việc nhà để lên phụ với má lo
cho em và cho con chúng mình. Chị dặn hễ bắt đầu cảm
thấy chuyển bụng là nhờ người đánh điện tín về,
chị Hai lên ngay lập tức.
Tân tỏ vẻ mừng rỡ:
- Vậy thì tốt lắm. Anh đang lo
lắng nhưng nghe em nói có chị Hai sẽ lên thì anh mừng và
yên tâm.
Thùy Liên tiếp lời một cách
phấn khởi:
- Nhưng chưa hết.
- Còn gì nữa?
- Chị Bạch Mai cũng bảo khi nào
em sinh, chị ấy sẽ đóng cửa nghỉ bán nửa tháng để
nuôi em.
- Trời đất! Làm vậy sao được?
- Em không chịu và nói rằng
thỉnh thoảng chị sang thăm em, chỉ dạy thêm cho em cách
nuôi con và tự săn sóc mình là quí lắm rồi. Nhưng cũng
chưa hết.
- Lại còn gì nữa?
- Bà Sáu Rô cũng nói, khi em sinh,
nếu cần thì bà sẽ sang đây phụ giúp má. Rồi nhiều
bà, nhiều chị trong xóm đến thăm em và dặn, nếu cần
cứ gọi, họ sẵn sàng đến giúp đỡ. Anh Tân, ai cũng
tỏ lòng thương em làm em cảm động và sung sướng lắm.
Anh có biết tại sao ai cũng thương em không?
- Vì em dễ thương đối với mọi
người.
Thùy Liên lắc đầu:
- Không phải lý do đó. Em đã
nói với anh rồi, lý do chính yếu, em là vợ của anh, vợ
của người lính đang phục vụ quân ngũ nơi xa nhà. Đó
là điều an ủi cho em.
- Thế thì em đâu có cần anh gần
gũi nữa.
Thùy Liên nũng nịu:
- Không, anh đừng nói như thế.
Không có tình thương nào thay thế được tình thương của
anh. Nếu ngày em sinh không có anh bên cạnh thì em sẽ tủi
thân lắm. À nầy, anh Tân.
- Gì vậy em?
- Em nghe anh Thế bảo rằng, chính
phủ đã chấp thuận đề nghị của bộ giáo dục cho các
sĩ quan gốc giáo chức trở về trường. Ở đơn vị anh,
người ta không nói gì về chuyện đó à?
Tân lắc đầu:
- Không, ở đó người ta chỉ
bàn chuyện đánh nhau với Việt cộng thôi.
- Vậy thì chốc nữa anh sang hỏi
anh Thế việc nầy đi.
- Ừ, ăn cơm xong, chúng mình cùng
đi thăm anh chị Thế.
Sau bữa ăn tối, Thùy Liên sung
sướng khoác tay chồng qua nhà Bạch Mai. Bên đó cũng vừa
dùng bữa xong, trên bàn còn ngổn ngang chén bát. Bạch Mai
vui mừng chào hỏi và vội vàng thu dọn. Nàng bưng bình
nước trà nóng ra để trên bàn. Mọi người tíu tít hỏi
thăm sức khỏe và công việc của nhau. Sau cùng, Thế hỏi
Tân câu mà Thùy Liên vừa nói ở nhà:
- Ở bộ tư lệnh của anh, người
ta chưa nhận được công văn của thủ tướng về việc
biệt phái sĩ quan gốc giáo chức về huấn luyện quân sự
học đường à?
- Tôi không biết gì cả. Anh vừa
nói biệt phái sĩ quan về làm gì?
- Huấn luyện quân sự học
đường, nghĩa là dạy cho tất cả sinh viên học sinh làm
lính.
- Đưa tất cả sinh viên học
sinh vào quân trường à? Chỗ nào chứa cho đủ?
- Không đưa vào quân trường mà
huấn luyện tại chỗ, ngay trong các trường mà các em
đang học.
- Thế thì làm sao trở thành
chiến sĩ được?
Thế cuời:
- Chiến sĩ gì mà chiến sĩ. Đổ
mồ hôi, sôi nước mắt nhiều tháng trong quân trường
thì mới có thể thành chiến sĩ được. Bày cái trò huấn
luyện quân sự học đường nầy để có cớ đưa các
thầy giáo trở về trường để dạy học cho sinh viên và
học sinh mà thôi.
- Tại sao lại phải tìm cớ như
vậy? Chính phủ chỉ cần ra chỉ thị là xong.
- Đâu có được. Làm như thế
là vi phạm sắc luật tổng động viên do quốc hội biểu
quyết.
- Thế thì tại sao lại ban hành
luật tổng động viên rồi lại tìm cách trả sĩ quan về
với dân sự?
- Tổng động viên ở đây không
cốt đưa tất cả thanh niên ra tiền tuyến mà đúng hơn
là một biện pháp đối phó.
Tân vỗ hai tay vào nhau:
- À, tôi nhớ ra rồi. Chúng ta
cần đối phó với phong trào phản chiến bên Mỹ, anh có
giải thích một lần rồi.
- Đúng vậy, bọn phản chiến
nầy muốn miền Nam phải ngưng cuộc chiến đấu tự vệ
để mặc cho miền Bắc tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược. Sắc lệnh tổng động viên là một cái tát vào
mặt bọn phản chiến đó, cho chúng thấy rằng sự rêu
rao ngu xuẩn của chúng không làm nhụt ý chí bảo vệ
miền Nam của chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Phải công nhận sự tuyên truyền của cộng sản có khả
năng đổi trắng thay đen trong dư luận thế giới.
- Bây giờ tôi hiểu rồi. Chúng
ta vừa chiến đấu vừa đối phó với sự tuyên truyền
của cộng sản.
- Rồi còn phải duy trì mức sống
văn minh của xã hội, trong đó giáo dục phải được đặt
lên hàng đầu. Do đó, trước mọi cơ quan dân sự khác,
ngành giáo dục được ưu tiên nhận lại các thầy giáo
từ quân ngũ trở về. Các thầy đã trở về nhiều đợt
và đang dạy cho sinh viên học sinh vài động tác quân sự
cơ bản để chờ ngày trở lại với các lớp học. Tại
sao sư đoàn anh không biết chuyện đó? Hay là họ nhận
được văn thư rồi không phổ biến vì muốn giữ anh lại
làm việc với họ. Tôi đề nghị hôm nào trở về, anh
hỏi thẳng đơn vị trưởng của anh xem sao.
- Tôi không hỏi đâu. Sau khi tái
ngũ, tôi đã tránh né chiến trường để về bộ tư lệnh
sư đoàn là nơi an toàn, không nguy hiểm, nay lại có ý
xin ra khỏi quân ngũ nữa thì tôi không thể làm được.
Nếu quân đội gọi tôi lên bảo tôi về với giáo dục
thì tôi tuân lệnh, còn nếu không nói gì cả thì tôi vẫn
ở lại với quân đội.
Thiếu tá Thế nhìn thẳng vào
mặt Tân:
- Anh Tân, anh là người khí khái,
tôi rất khâm phục tư cách làm người của anh. Nhưng tôi
cũng xin lưu ý anh rằng hiện giờ cô Thùy Liên rất cần
sự gần gũi của anh trong lần sinh nở đầu tiên. Theo
tôi, đó là nguyện vọng vô cùng chính đáng của một
người sắp trở thành người mẹ.
Tân buồn rầu cúi đầu im lặng.
*
* *
Vì cơ thể của Thùy Liên đã
quá nặng nề nên hai ngày hôm sau, Tân không dẫn nàng đi
dạo phố. Suốt ngày cậu chỉ quanh quẩn ở nhà, ngồi
bên vợ trong khi nàng cắm cúi may những chiếc quần áo
xinh xinh cho em bé. Nàng đề nghị Tân đặt tên cho con.
Cậu không suy nghĩ, nói ngay:
- Anh đã suy nghĩ mấy tháng rồi.
Nếu là con trai thì mình sẽ đặt tên là Phạm văn Hòa
Bình. Hoà bình, đó là ước mơ và niềm hi vọng lớn
nhất của anh.
Thùy Liên quay sang nắm tay chồng:
- Anh Tân, em hiểu anh. Anh là một
chiến sĩ dũng cảm nhưng lại có lòng yêu chuộng hòa
bình vô cùng tha thiết. Còn nếu con mình là gái thì đặt
tên gì?
- Anh mong nó sẽ giống em như
đúc. Anh đặt tên con là Phạm thị Thùy Dung.
- Tên đẹp lắm. Em phải ghi vào
giấy, sợ lúc sinh xong, mất bình tĩnh thì quên mất. Phải
chi có mặt anh lúc đó để nhìn con ra chào đời và khai
sinh cho con thì hay biết mấy.
Tân vuốt tóc vợ:
- Vì ý muốn của em, anh sẽ tìm
cách xin biệt phái về dạy học.
Giọng nàng nhỏ nhẹ:
- Anh Tân, điều đó có làm anh
buồn lắm không? Em rất muốn có anh bên cạnh nhưng anh
ngại xin về thì thôi. Ở nhà có mẹ, chị Hai và nhiều
người khác rồi.
Tân chưa kịp trả lời thì Bạch
Mai từ ngoài cửa bước nhanh vào gần như chạy. Nàng nói
to:
- Anh Tân ơi, anh Thế mới nhắn
tin về. Việt cộng đang tập trung nhiều nơi gần các
thành phố. Hiện chúng đã cắt đứt nhiều tuyến đường
giao thông bằng cách đắp mô, gài mìn và chận xe đò,
lùa hành khách vào rừng. Có lẽ nội trong đêm nay, chúng
sẽ tấn công mạnh vài nơi. Tỉnh lỵ Long khánh có thể
là một địa điểm mà chúng nó chọn lựa. Anh Thế bảo
anh hãy tìm cách trở về đơn vị ngay.
Tân hỏi:
- Anh Thế có ở nhà không?
- Không, anh ấy đang ở trong tổng
tham mưu và đang làm việc căng thẳng lắm, không về nhà
được.
- Bạch Mai thấy trên đường phố
thế nào?
- Vẫn bình thường. Chưa ai biết
gì cả. Chỉ có người trong tổng tham mưu biết mà thôi.
Bây giờ anh tính thế nào?
- Tôi phải về Long khánh ngay bây
giờ, không thể trì hoãn được.
Thùy Liên gần như khóc:
- Trời ơi, anh Tân! Đứt đường
rồi làm sao anh đi được?
Tân cầm tay vợ để trấn an
nàng:
- Em đừng lo. Anh sẽ tìm cách
tới đơn vị một cách an toàn. Chắc chắn, hơn nửa đoạn
đường, nghĩa là từ đây lên Trảng bom thì Việt cộng
không thể chận được. Đến đó, nếu không thể đi
tiếp được thì anh sẽ trở về và lúc đó chịu sự
thi hành kỷ luật của quân đội.
Bạch Mai nói nhanh:
- Thôi anh Tân lên đường nhé.
Chúc anh đi bình an. Em phải về ngay để trông nhà. Thùy
Liên đừng quá lo lắng. Tí nữa ba chị ngủ dậy, chị
sẽ nhờ trông hàng và qua đây chơi với em.
Thùy Liên nói trong nước mắt:
- Cám ơn chị.
Bạch Mai vừa ra khỏi nhà, Thùy
Liên cầm tay Tân mếu máo:
- Anh Tân, hay là anh cứ ở nhà
rồi mình sẽ chịu kỷ luật. Anh đi, em lo lắm. Nếu anh
bị rủi ro thì em cũng chết mất.
Tân cố nén xúc động. Cậu rán
tươi cười để giảm bớt lo lắng cho Thùy Liên:
- Em đừng lo, số anh lớn lắm,
không dễ gì rơi vào tay cộng quân được. Đường từ
đây lên Long khánh cũng không xa xôi gì lắm. Anh phải đi
ngay. Có lẽ giờ nầy quân nhân thuộc các phòng ban của
bộ tư lệnh đang túc trực đầy đủ. Sự vắng mặt của
anh có thể liên lụy đến thiếu tá Bảo vì ông đã cho
phép anh về. Anh không muốn xảy ra điều nầy.
Tân thay áo quần xong, giấu kỹ
thẻ sĩ quan trong giày. Xong, cậu hôn vợ, từ giã mẹ vợ
và vội vã lên đường.
Bến xe đò đi các tỉnh miền
Đông rộn rịp khác thường. Người rất đông đúc vì
tất cả các chuyến xe đều ngưng chạy. Hành khách nhốn
nháo, bàn tán với vẻ mặt đầy lo lắng. Cuối cùng, Tân
cùng với một số người khác thuê một chiếc xe Lam để
về Long khánh.
Xe chở đầy người phóng ra xa
lộ, băng qua Biên hòa, đến Trảng bom thì buộc phải
ngừng lại. Nơi đó có nhiều xe đậu trên một khoảng
đường khá dài. Người tài xế tắt máy xe, bước xuống
đi đâu một lúc rồi trở lại, chán nản lắc đầu:
- Ở Bàu cá, cách đây mười cây
số, Việt cộng chặt cây kéo ra chận đường rồi núp
hai bên rừng rậm, thỉnh thoảng bắn ra. Không thể nào
đi được. Phải đợi hành quân giải tỏa, không biết
bao giờ mới thông đường được. Bây giờ phải trở
lại Sài gòn.
Một người đàn bà la lên, giọng
hốt hoảng:
- Trời ơi, làm sao bây giờ, tôi
không có nhà quen ở Sài gòn. Tôi phải về Long khánh nội
trong ngày. Có đường nào khác đi không?
Bác tài trả lời:
- Có thể đi lánh vào các đường
đất trong vườn cao su, nhưng chỉ xe hai bánh đi được
thôi vì đường xấu lắm. Thôi, tôi trở về Sài gòn. Ai
muốn theo tôi thì ngồi yên trên xe, tôi không lấy tiền
trở về đâu.
Có hai người bước xuống. Tân
cũng xuống theo dù cậu chẳng biết xuống để làm gì.
Cậu trông thấy hai chiếc xe gắn máy nối đuôi nhau chạy
vào vườn cao su. Một người nói với cậu:
- Họ đi vào đó để tránh chỗ
Việt cộng phục kích trên đường lộ.
Tân bước tới mươi bước nhìn
con đường đất đỏ sâu hun hút giữa hai hàng cao su xanh
um, lòng bồn chồn lo lắng. Giờ nầy có lẽ người ta
đang điểm danh tất cả quân nhân thuộc bộ tư lệnh sư
đoàn.
- Anh muốn về Long khánh phải
không?
Tiếng nói làm Tân giật mình.
Cậu quay lại thấy một người đàn bà trẻ và khá xinh
đứng sau lưng mình không biết tự lúc nào. Tân gật đầu:
- Tôi cần về Long khánh ngay
chiều nay nhưng không biết làm cách nào đi được.
- Tôi cũng phải về Long khánh
ngay. Con tôi còn bú mẹ chưa ăn uống gì được.
- Có xe gắn máy thì có thể đi
được, nhưng làm sao có xe ở đây?
Người đàn bà vội trả lời:
- Tôi có xe gắn máy. Sáng nay,
tôi có việc cần thiết nên đi từ Long khánh đến Biên
hòa rất sớm, lúc Việt cộng chưa chận đường. Xong
việc rồi trở về đây mới biết bị đứt đường.
- Có xe gắn máy sao chị không đi
vòng vào vườn cao su để tránh chỗ phục kích như hai
chiếc xe vừa chạy đó?
- Tôi không dám đi một mình. Nếu
anh đồng ý thì tôi cùng đi với anh. Anh có biết lái xe
không?
- Biết chứ. Xe chị để ở đâu?
- Đằng kia kìa. Anh đồng ý chở
tôi đi nhé.
Tân mỉm cười:
- Ở đây có nhiều người muốn
đi, tại sao chị lại đề nghị tôi?
Người đàn bà đáp với giọng
thành thực:
- Tôi trông tướng anh có thể
tin cậy được.
- Nhưng tôi không biết đường,
có thể đi lạc vào mật khu của mấy ông cách mạng mất.
- Không sao, tôi đã hỏi thăm kỹ
rồi. Cứ theo con đường đất rộng nhất mà chạy,
khoảng chừng hai mươi cây số là ra đường nhựa ở
Hưng lộc. Từ đó có thể thẳng về Long khánh dễ dàng.
Nếu cần thì hỏi thăm dân vì trên đường đất, rải
rác có nhà dân ở.
Chị đàn bà nhìn Tân có vẻ e
thẹn:
- Nầy, có điều nầy tôi nói
anh đừng cười tôi nhé. Nếu gặp dân hay gặp mấy ông
Việt cộng thì anh bảo rằng tôi với anh là vợ chồng
làm rẫy ở Long khánh, chưa tới mùa thu hoạch nên phải
về Biên hòa thăm bà con và mua gạo lên để ăn. Cái bao
nầy là bao gạo đó.
- Được rồi, tôi là chồng của
chị, chị là vợ của tôi. Đi về nhà chúng mình cho
nhanh lên.
Chị đàn bà cười lỏn lẻn:
- Đi thì đi nhưng nhớ làm vợ
chồng giả bộ thôi đó nghen. Tôi có chồng con đàng
hoàng rồi đó.
Tân nín cười đi theo người đàn
bà. Cậu leo lên xe Honda, chờ người đàn bà ngồi lên
phía sau xong thì đạp nổ máy. Cậu quay lui nói:
- Tôi sẽ chạy nhanh, chị vịn
vào tôi cho chặt. Đừng ngại gì cả, tôi không làm gì
chị đâu.
Người đàn bà cười hì hì:
- Được rồi, anh cứ chạy đi.
Tân sang số rồi phóng xe trên
con đường đất gồ ghề. Càng đi sâu, khung cảnh càng
vắng vẻ đến rợn người. Tân nghiến răng siết tay ga,
chiếc xe lao tới, nhảy chồm trên đường mấp mô. Chị
đàn bà ngồi sau phải ôm chặt lấy cậu.
Xe tiếp tục lướt tới, hết
vườn cao su đến rừng chồi, hết rừng chồi đến nương
rẫy xác xơ trong mùa nắng hạn. Từ xa, có một xe gắn
máy chạy ngược chiều trở lại. Tân cho xe chạy chậm
và đưa tay làm hiệu. Hai xe dừng lại. Tân hỏi dồn:
- Đường đi thế nào?
- Tốt, êm thắm, ít nhất là lúc
nầy. Còn đường anh chị vừa đi qua thì thế nào?
- Cũng tốt. Thôi, lên đường.
Chiếc xe lại rú máy và lao thẳng
về phía trước. Không bao lâu, xe ra khỏi đường đất
và bắt đầu lăn bánh trên đường nhựa. Tân quay mặt
lui sau, nói to:
- Vợ chồng mình thoát nạn rồi!
Người đàn bà cười khúc khích:
- Chưa thoát nạn thì còn là vợ
chồng. Thoát nạn rồi thì hết vợ chồng, nghe chưa?
Tân cười to, nhìn về phía trước
siết mạnh tay ga. Đoạn đường nầy thường ngày có
nhiều xe cộ qua lại, hôm nay cũng trở nên vắng vẻ. Qua
một khúc quanh, thành phố Long khánh hiện ra trước mặt.
Tân dừng xe lại, quay mặt lui, nói:
- Chúng ta thực sự thoát nạn
rồi. Cám ơn chị. Bây giờ chị có thể về nhà một
mình không còn sợ gì nữa.
Người đàn bà tiếp tục ngồi
trên xe, hỏi:
- Nhà anh ở trong thành phố hay
trong rẫy?
- Ngay trong thành phố nầy. Tôi
có thể đi bộ đến đó.
- Thế thì anh cứ lái xe tiếp về
nhà anh đi. Đến đó rồi anh trả xe cho tôi cũng được.
Tân im lặng sang số rồi rú máy
cho xe lướt tới. Cậu dừng xe trước cổng bộ tư lệnh
sư đoàn. Hai người cùng xuống. Tân trao xe cho người đàn
bà và nói:
- Một lần nữa, cám ơn chị rất
nhiều.
Người đàn bà nhìn cậu, mỉm
cười:
- Anh ở trong nầy à?
Tân gật đầu. Chị hỏi tiếp:
- Anh là sĩ quan của sư đoàn
phải không?
Tân ngạc nhiên:
- Sao chị biết tôi là sĩ quan?
- Nhìn nét mặt và thái độ của
anh rồi thấy anh vào ở đây thì tôi đoán anh là sĩ
quan.
Tân cười:
- Khi nãy ở Trảng bom, nếu chị
biết tôi là sĩ quan thì chị có dám đi chung với tôi
không?
- Dám chứ. Sĩ quan thì đàng
hoàng đáng tin cậy hơn người khác nữa. Tôi biết rõ tư
cách của sĩ quan mà.
- Chắc chị có người thân là
sĩ quan nên biết rõ.
- Có, chồng tôi là sĩ quan ở
tiểu khu Long khánh.
- À, thì ra thế! Anh ấy là đồng
nghiệp của tôi. Chị cho tôi gởi lời thăm anh với nhé.
- Cám ơn anh.
Người đàn bà cười thật tươi
rồi cho xe từ từ lăn bánh. Tân đứng nhìn theo cho đến
khi chị ta khuất bóng. Cậu trở vào và đi nhanh về nơi
làm việc của mình. Trung sĩ Ký là người đầu tiên
trông thấy cậu. Anh ta reo lên:
- Trung úy Tân về rồi.
Cậu đến gần hỏi vội:
- Thiếu tá có trong phòng không?
- Có, thiếu tá đang ở trong
phòng, từ sáng giờ cứ nhắc trung úy mãi. Trung úy vào
đi.
Tân lấy làm lạ khi nghe anh trung
sĩ gọi mình là trung úy. Tuy nhiên cậu chẳng có thì giờ
để hỏi. Cậu bước vào phòng. Thiếu tá đang viết
ngẩng lên:
- Tân về rồi à. Cậu đi cách
nào đến đây?
Tân kể chuyện đi nhờ xe của
vợ một sĩ quan tiểu khu và phải làm chồng hờ của chị
ta trên đoạn đường nguy hiểm. Thiếu tá cười ngất:
- A ha, một bà vợ sắp đẻ rồi
thêm một bà vợ đang nuôi con. Sao mà đắt hàng thế.
Nầy, cậu vừa được thăng cấp trung úy. Sáng mai đến
phòng Một để lấy bản sao nghị định. Sao, bà xã ở
nhà có khỏe không? Bao giờ thì sinh con?
- Thưa thiếu tá, độ một tháng
nữa.
- Cậu mồ côi từ nhỏ và hai vợ
chồng không có bà con thân thuộc gì ở Sài gòn phải
không?
- Dạ phải. Nhưng sao thiếu tá
biết vậy?
Thiếu tá cười vui vẻ:
- Đơn vị trưởng phải biết
hoàn cảnh gia đình của thuộc cấp chứ. Cậu ngồi xuống
đây để nói chuyện.
Tân vâng lời ngồi xuống chiếc
ghế cạnh bàn làm việc của thiếu tá. Ông hỏi:
- Tình hình ở Sài gòn hiện nay
thế nào?
- Vẫn yên tĩnh, dân chúng chưa
biết Việt cộng đang lăm le tấn công vào các thành phố.
- Nhưng sao cậu biết mà về đây
đúng lúc vậy?
- Tôi có người quen làm việc ở
tổng tham mưu.
- À, thì ra thế.
- Theo thiếu tá thì kỳ nầy Việt
cộng có thể đánh mạnh như Tết Mậu thân không?
Thiếu tá lắc đầu:
- Có lẽ họ không đánh mạnh
được vì chưa đủ thì giờ bổ sung quân số bị tiêu
hao quá nhiều trong những trận chiến điên cuồng vừa
qua. Nhưng họ cũng cố sức làm một cái gì đó để nhắn
cho thế giới nhớ rằng họ đã từng xâm nhập được
vào tất cả các thành phố của chúng ta. Cộng sản không
hề biết thương tiếc mạng sống của con người kể cả
binh lính của họ. Họ đã đẩy những thanh niên đáng
thương của miền Bắc vào chỗ chết chỉ để gây tiếng
vang về chính trị mà thôi.
- Nhưng họ có thực sự gây được
tiếng vang hay không? Tết Mậu thân họ bị thiệt hại
quá nhiều, phải rút sâu vào mật khu mà.
- Dân chúng trên thế giới, và
cả Việt Nam nữa, mấy ai chứng kiến sự thất bại quân
sự đó đâu. Mọi người đều nghe nói chiến thắng của
họ vì họ tập trung tất cả các phương tiện truyền
thông để bóp méo sự thực.
- Chắc gì người ta tin hẳn
những điều họ tuyên truyền.
- Không tin hoàn toàn thì cũng tin
một phần. Con người có khuynh hướng theo “chủ nghĩa
bình quân”.
- Là gì, thưa thiếu tá?
- Khi nghe nói một điều gì đó
không thể biết rõ thì người ta không tin hẳn cũng không
bài bác hẳn mà thường tin vào phân nửa những điều
nghe được. Thí dụ, trong Tết Mậu thân vừa rồi, Việt
cộng nói đã chiếm được trọn vẹn 100% các thành phố
miền Nam thì người ta cho rằng họ chiếm được 50%
trong khi chỉ duy nhất một thành phố Huế rơi vào tay họ
mà thôi. Thế đã là một thành công vĩ đại trong sự
tuyên truyền của họ rồi. Họ bảo rằng trên mặt trận
nào đó họ giết được 1000 lính địch và bị thiệt
hại 50 binh sĩ mà thôi. người ta bèn cộng hai số đó
lại rồi chia hai và cho rằng mỗi bên đều có 525 người
chết. Lại là một thành công vĩ đại của sự tuyên
truyền vì trên các mặt trận số tử vong của họ nhiều
gấp bốn hay năm lần bên ta. Cứ như thế, họ đã bẻ
cong dư luận, gây bất lợi rất lớn về chính trị cho
chúng ta.
- Tại sao mình không dùng ngay
phương pháp tuyên truyền của họ để chống lại họ?
Thiếu tá dựa ngửa ra sau ghế,
lắc đầu:
- Chúng ta không làm được như
thế vì hai lý do. Lý do thứ nhất là chúng ta không thể
nói láo một cách trơ trẽn như họ được. Cái chất
quân tử của văn hóa Á đông vẫn còn tồn tại trong
lòng chúng ta.
- Còn lý do thứ hai, thưa thiếu
tá?
- Quân đội của chúng ta chưa
thấy được tầm quan trọng của mặt trận chính trị
của cuộc chiến tranh nầy vì vậy các sĩ quan của mình
không quan tâm đến tuyên truyền. Cậu là số ít sĩ quan
tỏ ra hiểu biết những điều tôi vừa trình bày. Chúng
ta không thể làm gì hơn được. Về tương lai của cậu….
Thiếu tá đột ngột ngưng nói.
Tân ngồi im nhìn thiếu tá, chờ đợi ông nói tiếp cái
điều mà cậu đoán rằng có liên quan đến số phận của
cậu. Thiếu tá chợt ngồi thẳng dậy, chống hai cùi tay
lên bàn:
- Tân nầy, cậu về Sài gòn có
lẽ biết được bộ quốc phòng đã chấp thuận đề
nghị của bộ giáo dục trả các sĩ quan gốc giáo chức
về dạy học trò trở lại?
- Thưa thiếu tá, tôi có biết và
nghĩ rằng sư đoàn mình chưa nhận được công văn đó.
- Nhận được rồi nhưng không
phổ biến cho những người nào xét ra cần thiết cho sư
đoàn.
- Trong đó có tôi?
Thiếu tá gật đầu cười:
- Đúng vậy, phòng chiến tranh
chính trị đang cần cậu. Những bài tham luận của cậu
về khía cạnh chính trị của cuộc chiến tranh tự vệ
nầy đã được đọc tại một số hội nghị và được
cử tọa chú ý. Tôi dự định cho cậu đi học một khóa
chiến tranh chính trị để được chính thức sát nhập
vào ngành nầy. Rồi ông tướng tư lệnh sư đoàn cũng
bảo tôi đưa cậu lên làm sĩ quan tùy viên để viết
công văn và diễn văn cho ông ấy. Ông tướng rất thích
phát biểu trong các cuộc họp và rất thích lối viết
của cậu. Ông bảo rằng lời văn của cậu vừa sáng
sủa, vừa mạnh mẽ, rất thích hợp với lời nói của
một ông tướng trong quân đội. Nhưng mà….
Thiếu tá lại ngừng nói làm cho
Tân hồi hộp chờ đợi. Vài phút sau, thiếu tá mới nói
tiếp:
- Sáng nay tôi đã đề nghị với
ông tướng và đã được chấp thuận. Chúng tôi đồng ý
cho cậu được biệt phái trở về dạy học.
Giọng Tân như nghẹn lại:
- Tại sao như vậy?
- Vì vợ cậu sắp sanh con đầu
lòng. Đối với người đàn bà, lần sinh con đầu tiên
luôn luôn cần sự gần gũi của chồng. Hơn nữa cô ấy,
tức là vợ của cậu lại là một y tá của tổng y viện
Cộng hòa, một nhân viên của bộ quốc phòng, một trong
số ân nhân của thương bệnh binh. Chúng tôi không thể
giữ cậu lại đây để cho cô ấy chịu thiệt thòi.
- Nhưng thưa thiếu tá, nhu cầu
của quân đội phải đặt trên hết.
- Không, lòng nhân đạo mới đặt
trên hết. Chính đó là bản chất của chế độ chúng ta
và vì bản chất đó mà chúng ta hi sinh để giữ lấy chế
độ miền Nam nầy. Thôi, cậu chuẩn bị về Sài gòn để
trình diện bộ giáo dục đi. Tôi đã yêu cầu phòng quản
trị đánh công văn và chứng chỉ ngưng lương cho cậu
rồi. Cậu nên về cho sớm để ổn định công việc dưới
đó rồi còn lo đón nhận đứa con đầu lòng nữa. Không
có gì vui sướng bằng có được đứa con đầu lòng. Tôi
nhớ khi vợ tôi sanh ra đứa con trai lớn, tôi nhảy dựng
lên làm mấy bà mụ trong nhà bảo sanh cười ngất. Thằng
con tôi năm nay được mười lăm tuổi rồi. Thời gian
trôi qua thực là nhanh.
- Cám ơn thiếu tá. Nhưng mà tôi
chưa thể về ngay được. Đường bị đứt rồi. Thiếu
tá biết chưa?
- Biết rồi, Việt cộng cắt đứt
đường ở Bàu cá. Các trung đoàn của chúng ta đang tấn
công vào chiến khu của chúng nên chúng làm như vậy để
buộc chúng ta rút lui, giải tỏa bớt áp lực cho chúng.
Đáng lẽ chúng ta phải thông đường nội hôm nay nhưng
không có đơn vị nào rút về kịp. Nội sáng mai là ta sẽ
đánh đuổi chúng nó đi, không thể để lâu làm trở
ngại lưu thông và sinh hoạt của dân chúng. Họ luôn luôn
tìm cách làm hại dân, mình cần nhanh chóng ra tay phá vỡ
mưu đồ đó.
- Nhưng kỳ nầy, nghe nói họ
đang có quyết tâm cao để mở chiến dịch Mậu thân đợt
hai.
- Họ rêu rao thế thôi, chứ
không làm gì được đâu. Tết vừa rồi, tất cả các
thành phố của chúng ta gần như bỏ ngỏ mà họ chẳng
làm nên trò trống gì, huống chi bây giờ chúng ta đã đề
phòng cẩn mật rồi. Thôi bây giờ, trung úy hãy đến
phòng nhân viên lãnh giấy tờ rồi đi chia tay với anh em.
- Cám ơn thiếu tá. Chúc thiếu
tá ở lại mạnh khỏe.
- Chúc cậu ngày mai lên đường
may mắn. Gởi lời thăm bà xã và đứa con đầu lòng của
cậu.
Tân trở về Sài gòn, đúng vào
dịp các trường tư đang sắp xếp giáo sư để chuẩn bị
khai giảng năm học mới. Cậu nhận được nhiều giờ
dạy nên lập tức đời sống vật chất được ổn định
ngay.
Đúng ba tuần lễ sau khi cậu trở
về đời sống dân sự, Thùy Liên bắt đầu chuyển bụng
vào buổi chiều. Cậu cùng mẹ vợ đưa nàng vào bảo
sanh viện. Đến nửa đêm, một đứa bé gái ra chào đời.
Cậu theo cô y tá bước vào phòng
sinh. Căn phòng sáng rực và mát mẻ. Thùy Liên nằm trên
một chiếc giường đặt ngay giữa phòng, đắp tấm ra
trắng đến cổ. Mặt nàng trông có vẻ mệt nhọc, mấy
sợi tóc dính vào trán chứng tỏ nàng vừa đổ mồ hôi
dù phòng sinh mát lạnh nhờ máy điều hòa không khí. Tuy
vậy khi trông thấy chồng thì nét mặt nàng thực tươi
và thực dịu dàng.
Cậu dừng lại cách nàng độ
hai mét, nhìn một cách ngớ ngẩn gian phòng chỉ có toàn
đàn bà.
Thùy Liên gọi nhỏ:
- Anh Tân, đến đây với em đi.
Tân bước vội đến cúi xuống
hôn mắt Thùy Liên. Nàng nói tiếp qua hơi thở:
- Anh xem Thùy Dung của anh có đẹp
không? Nó đang nằm dưới chân em đó.
Cậu giật mình như vừa được
nhắc nhở để nhớ lại một chuyện quan trọng. Cậu vội
quay xuống cuối giường. Giữa hai chân của Thùy Liên, ló
ra một cái mặt nhỏ xíu, đôi mắt nhắm nghiền. Cậu
dùng hai ngón tay kéo tấm đắp và ngạc nhiên thấy cái
hình hài bé nhỏ được bó chặt trong một chiếc khăn,
trông tròn tròn như một đòn bánh. Cậu kéo tấm đắp
lại rồi quay lên. Thùy Liên lặp lại câu hỏi:
- Con của chúng mình có đẹp
không anh?
Cậu ấp úng:
- Ừ ừ, lớn lên có lẽ nó đẹp
như em vậy.
Nàng cười :
- Sao lại như em? Em đâu có đẹp.
- Nếu em mà bảo rằng không đẹp
thì thế gian nầy toàn là ma lem hết.
Câu nói khôi hài của chính mình
làm cho cậu trở nên bình tĩnh. Cậu lẩm bẩm: “Phạm
thị Thùy Dung! Bây giờ mình thực sự làm cha rồi”. Cậu
thấy trong lòng mình bừng lên một tình cảm vừa vui
sướng, vừa ngạc nhiên và lo âu.
Một cô y tá bước đến mỉm
cười:
- Xin chúc mừng ông bà có con gái
đầu lòng. Bây giờ, chúng tôi đưa bà và em bé về
phòng. Xin mời ông theo chúng tôi.
Thùy Liên ở bảo sanh viện trong
một tuần lễ thì được về nhà. Tân vẫn tiếp tục đi
dạy không nghỉ giờ nào, nhưng hễ về đến nhà, cậu
cứ quanh quẩn trong buồng, hết nhìn vợ đến nhìn con.
Tình cảm của cậu đối với
sinh vật nhỏ bé nầy lần lần nẩy nở. Da mặt bé bắt
đầu căng lên và đỏ hồng chứ không nhăn nheo xấu xí
như lúc mới ra chào đời. Mỗi ngày cậu thấy con mình
xinh hơn một tí. Rồi cậu bắt gặp nụ cười của bé
trong giấc ngủ. Ôi chao, nụ cười đẹp làm sao! Nụ cười
trên khuôn mặt sáng rỡ như của thiên thần! Bỗng bé
giật mình co hai chân lên, mắt mở ra, khờ khạo nhìn.
Tân nghĩ thầm: “Đôi mắt nầy, đúng là đôi mắt của
mẹ rồi!”.
Bé chúm chím miệng rồi khóc ré
lên. Thùy Liên cúi nhìn con rồi nhìn chồng:
- Bé đói rồi đó. Em cho con bú.
Nàng nằm nghiêng lại, lần cởi
nút áo, hai bầu sữa trắng nõn nà lộ ra ngoài. Miệng bé
ngậm vào đầu vú hồng, nút vội vàng. Tân đứng dòm
một cách sững sờ. Thùy Liên nhìn lên, mặt ửng hồng:
- Anh dòm gì vậy, lạ lắm sao?
Con bé nầy tham lam như cha nó mấy tháng trước đây vậy.
Từ phòng ngoài, có tiếng mẹ
reo to:
- Kìa con Hai lên. Vào đây con.
Thùy Liên vội nói với chồng:
- Chị Hai lên tới rồi đó, anh
ra đón chị vào đi.
Tân bước ra thì chị vừa tới
cửa. Giọng chị oang oang:
- Sao? Hai mẹ con có khỏe không?
Tân vội đáp:
- Dạ khỏe.
- Chị được điện tín cả tuần
rồi mà không đi được. Một phần vì công việc độ
rày quá nhiều, phần khác ba bị bệnh, không ai săn sóc,
chị không dám đi.
Bà mẹ lo lắng:
- Ông bệnh làm sao?
- Dạ bị tiêu chảy và sốt. Bữa
nay hết bệnh rồi nhưng còn yếu lắm. Con nóng ruột với
con Liên quá nên đi đại lên đây. Con xin nghỉ phép hàng
năm, tính ở lại đây thay má cho hết phép. Má về dưới
đó săn sóc cho ba đi. Ổng bệnh nằm một chỗ mà ngày
nào cũng nhắc má. Má về dưới đi, chừng nào ba mạnh
hẳn rồi lên.
- Ừ, mai má về sớm. Nghe ổng
bệnh, tao lo quá. Con vào với em đi.
Chị Hai bước vào buồng, Thùy
Liên mừng rỡ:
- Chị Hai, em mong chị quá.
- Ừ, chị cũng mong lên thăm em.
Nào cục cưng của dì đâu nào?
Dì cúi xuống bế bé lên, hôn
chùn chụt. Thùy Liên mỉm cười:
- Chị hôn cháu nhè nhẹ thôi,
cháu vừa bú xong.
Chị Hai đặt bé trở lại
giường. Chị hỏi:
- Em có đủ sữa cho cháu bú
không?
- Bữa đầu thì thiếu, hôm nay
đủ lắm rồi. Nó tham ăn như….
Nàng kịp ngắt ngang câu nói, hỏi
sang chuyện khác:
- Ở dưới mình có yên không?
- Thỉnh thoảng có nghe đụng
trận đâu trong miệt vườn.
- Còn ở thành phố?
- Ban ngày thì vẫn mua bán rộn
rịp nhưng ban đêm thì sợ pháo kích.
- Pháo kích có thường xuyên
không?
- Thì cũng như trên nầy. Lâu
lâu, mấy cha nội mang hỏa tiễn 122 ly thụt vào vài trái,
giết chết vài người dân rồi bỏ chạy. Cứ rót pháo
vào đầu dân mà gọi là giải phóng, thiệt hết chỗ
nói.
Chị ngưng nói, nhìn sang Tân và
hỏi:
- Cậu Tân, vợ đẻ xin nghỉ
được bao lâu?
- Dạ, em chẳng xin phép gì cả.
May là trường công chưa khai giảng, chỉ phải đi dạy
trường tư, tuần lễ mươi giờ, và vài giờ huấn luyện
quân sự cho sinh viên thôi.
- Sao cậu không xin nghỉ vài hôm?
- Dạ cái nghề dạy học của em
thì khó xin nghỉ lắm. Thông báo cho học sinh biết vợ
thầy đi đẻ thì khó nghe lắm.
Chị Hai cười ha hả:
- Thầy nghỉ dạy vì vợ đẻ,
còn trò không có vợ đẻ cũng phải nghỉ học hay sao?
Thôi được, có má săn sóc, rồi bây giờ có chị rồi,
cậu cứ yên tâm dạy học đi. Chị rất mừng cho cậu
được biệt phái cho bộ giáo dục, chứ còn đi hành quân
thì khổ và nguy hiểm lắm. Nghe nói, sau thất bại của
Việt cộng trong chiến dịch Mậu thân, Liên xô và Trung
cộng viện trợ sang vũ khí tối tân lắm nên gần đây
bên mình cũng chịu nhiều thiệt hại.
Sáng hôm sau, Tân dùng xe gắn máy
đưa mẹ vợ ra bến xe rồi đến trường. Cậu dạy suốt
ngày, chiều mới về nhà. Tắm rửa xong, cậu vào buồng
và ở luôn trong đó với vợ con, ngoại trừ giờ cơm.
Mỗi bữa ăn, chị Hai bưng một
mâm cơm vào buồng cho Thùy Liên ăn riêng với khẩu phần
đặc biệt dành cho sản phụ. Sau đó chị và Tân cùng
ngồi ăn trên chiếc bàn dưới bếp. Một hôm, chị hỏi
cậu:
- Sao? Đến bữa nay, cậu có cảm
tưởng thế nào đối với con bé?
- Chị muốn nói đến cảm tưởng
gì?
- Thì cái lòng thương đối với
con Thùy Dung ấy mà.
Tân gật đầu:
- Dạ bữa nay, em thấy thương nó
nhiều rồi đó. Ở trường cứ mong cho mau hết giờ để
về nhìn nó ngủ trong nôi.
Tân ngập ngừng một chút rồi
thú thật:
- Chị Hai, lúc đầu khi bé mới
ra đời, em cảm thấy đó là một cái gì rất xa lạ và
xấu xí trong khi Thùy Liên tỏ ra cực kỳ thương yêu và
hãnh diện về đứa bé. Lúc đó em muốn làm một cử chỉ
nào đó đối với đứa bé để cho vui lòng Thùy Liên
nhưng không biết làm cách nào vì, do bản tính, em không
thể làm bất cứ chuyện gì không thực bụng. Nghĩ lại
tâm trạng lúc đó, đến bây giờ em vẫn còn cứ thấy
bứt rứt vì không an ủi được Thùy Liên lúc vợ em vừa
trải qua giờ phút nhọc nhằn để cho bé ra đời.
Chi Hai cười ha hả:
- Đàn ông thì ai mà chẳng vậy.
Đàn bà thì thương con, không phải chỉ từ lúc nó ra đời
đâu mà trước nữa, lúc nó còn trong bụng mẹ. Cưu mang
nó, gần gũi nó trong suốt hơn chín tháng trời, làm sao
không thương được. Còn đàn ông thì đâu có gần gũi
mà thương yêu. Có người còn căm ghét nữa là khác vì
chính nó làm cho cơ thể vợ mình trở nên xồ xề khó
coi và không còn được gần gũi thường xuyên. Nhưng rồi
dần dần người đàn ông mới ý thức được vai trò làm
cha của mình và tình thương nảy nở.
Chị trầm ngâm vài giây rồi nói
tiếp:
- Cái gì đến từ từ, mỗi ngày
một chút thì thường rất sâu đậm. Tình thương của
cha đối với con cũng thế. Về lâu về dài, tình thương
của cha nhiều khi còn mãnh liệt hơn tình thương của mẹ
nữa.
- Nhưng em cũng nghe nói có không
ít người đàn ông chẳng quan tâm đến con cái mà lại
chạy theo cờ bạc, rượu chè, chơi bời, trác táng.
- Đúng vậy, giữa tình thương
của cha và tình thương của mẹ còn một chỗ khác nhau,
chính là điểm xuất phát. Mẹ thương con một cách tự
nhiên, không cần điều kiện. Đó là tình thương bẩm
sinh. Còn cha chỉ thương con với điều kiện là người
đàn ông phải vượt qua một ngưỡng đạo đức làm
người. Người nào có đạo đức mới biết thương con
và đảo lại người thương con là người đạo đức.
Tân cãi lại:
- Nhưng cũng có một số đàn ông
trông rất đạo đức về lối sống nhưng rõ ràng không
có chút lòng thương đối với con cái.
- Chị khẳng định đó là những
người đạo đức giả. Thương con là một khía cạnh đạo
đức hoàn toàn chân thật. Chị tin rằng đó là một qui
luật xác đáng nhất về vấn đề đạo đức của con
người. Ông tổng thống, ông chủ tịch hay ông gì đi nữa
mà không thương con, không quan tâm đến đời sống của
con mình thì cái ông đó cũng chẳng ra gì. Thậm chí có
người còn dám không thừa nhận con mình để bảo vệ
cái danh giá xã hội của mình; đó là người đạo đức
giả, đáng chê.
Tân hỏi chị:
- Em nghe Thùy Liên bảo anh Hai
thương con lắm phải không chị?
Chị Hai gật đầu:
- Ảnh cưng con hết chỗ nói,
cưng đến nỗi nhiều khi chị phát bực mình. Người ta
thường bảo “con hư tại mẹ”, thực ra, “con hư tại
cha” cũng không phải là hiếm.
Chị bỗng bật cười:
- Chị còn nhớ, lúc sinh thằng
con đầu, ổng cứ đứng dòm lấm lét, chị gọi hai ba
lần ổng mới nhích gần một chút trong dáng điệu thủ
thế, dường như sợ thằng bé nhảy lên táp cho một
miếng. Thế mà đến khi đầy tháng, ổng cứ ôm riết
con vào lòng, đi khắp nhà khoe với người nầy, người
kia, làm như chỉ một mình ổng có con nhỏ mà thôi.
Chị dừng một chút rồi nói
tiếp:
- Nè, chị thấy cậu còn thương
con hơn anh Hai nữa. Lớn lên con bé tha hồ làm nũng với
cha.
Câu nói đó của chị làm Tân
cảm thấy vui thích. Cậu cũng ngạc nhiên về những nhận
xét sâu sắc của chị dù bề ngoài chị trông như những
người đàn bà nhà quê chất phác.
Quả như lời chị Hai nói, mỗi
ngày, cậu thấy lòng mình khắn khít với bé Thùy Dung
hơn. Cậu cẩn thận bế nó trên tay, ôm nó vào ngực, khẽ
nâng lên hít mạnh cái khăn bông quấn quanh mình nó. Từ
cái khăn ấy tỏa ra một hương thơm ngào ngạt. Ôi, cái
mùi hương toát ra từ cơ thể nhỏ bé của Thùy Dung trộn
lẫn với mùi sữa thơm chảy ra từ bộ ngực trắng nõn
nà của Thùy Liên, làm cậu ngây ngất trong tình thương
mênh mang.
Thùy Dung bú nhiều, chóng lớn
nhưng ngày thì ngủ còn ban đêm hay thức và khóc nhè.
Thùy Liên thường mất ngủ ban đêm để dỗ con vì nàng
biết chồng mình ban ngày phải đi dạy vất vả. Tuy vậy,
ít khi bé chịu nín ngay mà cứ tiếp tục khóc. Lạ một
điều là nếu bé được cha bế đi lui đi tới thì nín
ngay. Vì vậy, rất nhiều đêm, Tân phải thức với con.
Dưới ánh sáng lờ mờ của đèn chong, Tân thấy bé nhìn
cha bằng đôi mắt long lanh và nhoẻn miệng cười. Nụ
cười ngô nghê của trẻ thơ làm cho người cha vui sướng,
quên cả nhọc mệt vì những giờ mất ngủ ban đêm.
Trong những lúc như vậy, Thùy Liên ngồi trên giường,
nhìn chồng con và thấy ngập tràn niềm hạnh phúc vô
biên.
*
* *
Thùy Liên nghỉ hộ sản trong ba
tháng rồi trở lại nhiệm sở. Trông nàng khỏe mạnh,
tươi tắn và xinh đẹp hẳn ra.
Ngày hai lần, Tân dùng xe đưa
đón vợ. Những buổi không có giờ dạy, Tân ở nhà phụ
giúp mẹ săn sóc bé Thùy Dung. Hôm nào dạy cả sáng lẫn
chiều thì trưa cậu cũng chạy ngay về nhà bế con một
chút rồi lại đi, có khi không kịp ăn phải nhịn luôn
bữa cơm trưa. Khi Thùy Liên biết chuyện nầy, nàng cự
nự chồng:
- Anh đi dạy học vất vả mà cứ
nhịn ăn như thế, đổ bệnh thì khổ. Thương con thì tối
về nhà chơi với nó được rồi, trưa phải nghỉ ngơi
tại trường cho có sức mà dạy.
Tân cười, giọng giả lả:
- Xa nó từ sáng tới chiều, anh
thấy thời gian dài quá. Có hôm đứng giảng bài mà đầu
óc cứ lẩn quẩn bên nó và tự hỏi: “Không biết giờ
nầy bé bú chưa, thức hay ngủ, bà ngoại có nhớ cho cháu
uống nước không?”. Trưa về nhìn nó một chút anh cảm
thấy yên tâm và thêm hứng thú trong các giờ dạy.
Thùy Liên nhìn chồng, cảm động:
- Chị Hai bảo ít thấy người
cha nào thương con bằng anh. Em nói với chị Hai rằng em
biết tại sao anh thương con nhiều như thế.
- Tại sao? Em nói lý do anh nghe
thử có đúng không?
- Vì anh thường hay nghĩ về cái
quá khứ và thương cái thời thơ ấu của anh. Anh mồ côi
cha mẹ quá sớm. Cái lỗ hổng tình cảm trong tuổi thơ
cứ làm cho anh xót xa mãi. Anh tìm cách lấp lỗ trống đó
bằng tình yêu dành cho em và tình thương dành cho bé Thùy
Dung. Có phải vậy không anh?
Tân không trả lời. Cậu ôm vợ
vào lòng và đặt lên môi nàng nụ hôn dài. Thùy Liên
ngước lên nhìn chồng, mắt long lanh:
- Anh Tân, em và con sẽ gắng sức
lấp đầy cái lỗ trống tình cảm đó của anh.
Nàng nắm lấy bàn tay chồng áp
vào mặt mình:
- Anh Tân, em không ngờ có được
hạnh phúc như ngày nay. Lúc anh Tạo bị tử trận, em
tưởng đời em tiêu tan rồi vì nghĩ rằng không thể tìm
được tình yêu nơi nào khác nữa. Ngờ đâu trời còn
thương em nên đưa anh về gặp em. Tới khi anh bị tái ngũ
và bị đưa về đơn vị tác chiến, em lại lâm vào một
cơn khủng hoảng mới. May mắn một lần nữa lại đến
với em khi anh được biệt phái về dạy học.
Nàng trầm ngâm một chút rồi
nói tiếp:
- Nếu thiếu tá Bảo cứ tiếp
tục giữ anh lại ở bộ tư lệnh sư đoàn thì giờ nầy,
không có anh ở đây, em không biết xoay xở cách nào? Anh
Tân, hôm nào anh đưa em lên Long khánh để em gặp mặt
thiếu tá và đích thân em cám ơn thiếu tá. Được không
anh?
Tân lắc đầu:
- Con còn nhỏ, mỗi tuần em đi
làm sáu ngày còn anh đi dạy đủ bảy ngày, làm sao mà đi
Long khánh được?
- Em đâu có nói đi ngay bây giờ.
Đợi ít lâu nữa cho con lớn rồi mới đi.
Tân cười:
- Em hãy nhớ chúng ta đang ở
thời chiến, tình hình thay đổi từng ngày từng tháng.
Trong quân đội, sự thuyên chuyển xảy ra thường xuyên.
Đợi khi con lớn lên, anh trở lại đó thì gặp toàn
người xa lạ.
- Nhưng em không thể quên được
ơn của thiếu tá đối với vợ chồng mình.
- Nhớ ơn trong lòng và tìm cách
làm ơn cho người khác, đó là cách trả ơn hay nhất. Em
đồng ý không?
Thùy Liên im lặng một chút rồi
gật đầu:
- Dạ, em nghe lời anh, nhưng em
vẫn mong có ngày đến thăm thiếu tá.
Thùy Dung lớn nhanh, mỗi ngày một
ngoan hơn. Từ hai tháng trở đi, bé không khóc đêm nữa
mà chỉ dậy bú mẹ một lần rồi ngủ. Nhờ vậy, không
khí gia đình càng đầm ấm và hạnh phúc hơn.
Bà ngoại ở nuôi cháu đến bốn
tháng thì về quê. May mắn ở gần nhà có một gia đình
nhận giữ vài đứa trẻ. Gia đình nầy khá thân thiết
với Bạch Mai nên vợ chồng Tân cũng yên tâm khi giao bé
Thùy Dung cho họ chăm sóc từ sáng đến chiều.
Thấm thoát bé được gần tròn
một năm. Bé khỏe mạnh và tính tình thực dễ thương.
Bé được sinh ra bằng tình yêu đậm đà của cha mẹ và
lớn lên trong tổ ấm tràn đầy hạnh phúc. Càng lớn
lên, bé càng xinh. Bé giống cả cha lẫn mẹ. Giống cha ở
đôi mắt sáng và hiền lành, giống mẹ ở khuôn mặt
trái xoan và nụ cười như đóa hoa nở buổi bình minh.
Thùy Liên hoàn toàn hạnh phúc
nên trông nàng xinh đẹp hơn cả lúc chưa có con. Nàng
thường bế con cho ngủ trong lòng mình. Tân đúng im, say
sưa nhìn mẹ rồi nhìn con, lòng vui như mở hội.
Kể từ khi trở về đời sống
dân sự sau lần giải ngũ trước đây, Tân không còn phải
cầm cây súng, không còn phải thường xuyên chứng kiến
cảnh máu đổ thịt rơi nhưng lòng cậu chưa bao giờ yên
ổn mà vẫn thường xuyên bị ray rứt do âm vang của cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn ở những chiến trường
xa xôi vọng lại. Tuy nhiên, từ một năm nay, sự có mặt
của bé Thùy Dung gần như xóa tan niềm ray rứt đó. Cậu
thường nói với vợ:
- Em là tất cả tình yêu thương
của anh, còn con là tất cả lẽ sống của anh trong hiện
tại. Hai mẹ con là chỗ dựa tinh thần của anh trong cuộc
đời nầy.
Thùy Liên sung sướng tựa vào
vai chồng, thủ thỉ:
- Ngày anh còn nhỏ, anh đi theo
cộng sản vì một lẽ sống mênh mông là cái thế giới
đại đồng của toàn thể nhân loại. Bây giờ, ở tuổi
chín muồi, lẽ sống của anh co lại, chỉ còn trong nụ
cười của một đứa trẻ thơ mà thôi.
- Điều đó có lẽ đúng cho mọi
người, em ạ. Đời của mỗi người gồm nhiều giai
đoạn. Giai đoạn chính đáng nhất là đi tìm một nơi
trú ẩn. Lúc mới sinh ra đời, người ta choáng ngợp vì
cái vũ trụ bao la. Người ta thèm muốn bay đi khắp vũ
trụ và hãnh diện rằng cái vũ trụ bao la đó là của
chính mình. Tới một tuổi nào đó người ta mới nhận
ra rằng cái rộng lớn mênh mông chỉ chứa toàn ảo tưởng
và con người hóa ra mê sảng trong khối ảo tưởng đó.
Nếu còn giữ được một chút lương tri thì người ta
vội quay về đi tìm nơi trú ẩn và rất nhiều người
nhận ra rằng trong cái vũ trụ bao la nầy, tìm được một
nơi trú ẩn nhỏ xíu cũng không phải là dễ dàng.
- Anh Tân, cái ý nghĩ có tính
triết lý đó của anh nghe buồn lắm. Hôm nay mình phải
vui để bàn bạc tổ chức ngày con chúng mình được tròn
một tuổi. Theo anh thì mình nên làm lễ đầy năm hay lễ
sinh nhật?
- Hai cái đó khác nhau à?
- Khác chứ. Đầy năm là lễ cổ
truyền của ông bà mình. Khi đứa trẻ được đúng một
năm âm lịch thì mình cúng để đền ơn mười hai bà mụ
đã phù chộ cho trẻ lớn lên và khỏe mạnh. Còn sinh
nhật đầu tiên là theo văn hóa tây phương được tính
tròn một năm dương lịch kể từ khi trẻ chào đời . Vì
năm dường lịch dài hơn năm âm lịch nên lễ đầy năm
đến trước sinh nhật đầu tiên đến mười ngày.
- Theo em thì mình nên tổ chức
ngày nào?
- Em phân vân nên mới hỏi anh.
Nếu tổ chức ngày đầy năm thì đúng với phong tục
Việt Nam nhưng đời người chỉ có một lần đó thôi.
Còn tổ chức sinh nhật thì được lặp đi lặp lại hằng
năm ngày kỷ niệm lớn nhất của đời người
Tân vỗ nhẹ vào đôi má đáng
yêu của vợ:
- Em thích tổ chức ngày nào, anh
chiều theo ý em.
Thùy Liên lắc đầu:
- Em rất phân vân vì hai ngày đều
có ý nghĩa quan trọng.
- Thế thì tổ chức cả hai ngày.
- Ừ nhỉ, mình tổ chức cả hai
ngày, thế mà em không nghĩ ra. Ngày đầy năm âm lịch thì
mình sẽ mời ông bà ngoại, gia đình anh chị Hai và ngày
sinh nhật đầu tiên của Thùy Dung thì có thể mời thêm
vài bạn thân của anh và của em nữa.
- Còn gia đình chị Bạch Mai?
- Dĩ nhiên là tham gia cả hai
ngày. Từ lâu, chúng ta đã coi anh chị Thế như cùng một
gia đình với mình rồi mà.
- Được rồi, anh đồng ý tất
cả mọi điều sắp xếp của em.
Ngay chiều hôm đó, Thùy Liên
viết thư gởi về cho cha mẹ ở Cần thơ. Một ngày trước
lễ đầy năm của Thùy Dung, ông bà và cả gia đình chị
Hai đã đến đầy đủ. Căn nhà nhỏ đầy ắp người,
tiếng nói tiếng cười rộn rã. Thùy Dung được chuyền
tay từ người nầy sang người kia. Lúc đầu bé ngạc
nhiên và hoảng sợ khi thấy đông người nên cứ níu lấy
mẹ. Chỉ một lúc sau bé quen dần với mọi người và
chơi đùa vui vẻ với đứa con nhỏ của chị Hai.
Ngày hôm sau, từ sáng sớm, Bạch
Mai đã sang nhà Thùy Liên để cùng đi chợ với nàng. Đến
trưa, lễ bắt đầu. Mẹ của Thùy Liên buộc hai vợ
chồng trẻ phải cúng kiến cho nghiêm chỉnh. Tân vui vẻ
vâng lời. Cậu dọn dẹp tất cả sách vở, mang chiếc
bàn làm việc ra giữa nhà làm bàn cúng.
Cậu lên nhang đèn rồi quì xuống
lâm râm khấn vái. Thùy Liên cũng bế con quì sau lưng
chồng, với vẻ mặt thành kính. Cả nhà im lặng và cảm
động nhìn hai vợ chồng trẻ với đứa con nhỏ trước
những sợi khói nhang nhè nhẹ bay lên trần nhà.
Bỗng có tiếng reo của Bạch
Mai:
- Ủa anh Thế về kìa. Sao anh lại
về giờ nầy? Lại có ông bạn nào đi theo.
Tân và Thùy Liên đã cúng xong,
đứng dậy nhìn ra cửa. Thiếu tá Thế bước vào hàng
hiên. Bạch Mai tiếp tục hỏi:
- Anh về dự đầy năm của bé
Dung phải không?
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Anh về vì có anh Thảo đây.
Bạch Mai quay lại người đàn
ông mang lon thiếu tá theo sau, gật đầu chào. Thiếu tá
Thế giới thiệu:
- Đây là vợ tôi.
Anh quay vào nhà nói to:
- Chào hai bác, chào anh chị Hai,
chào cả nhà. Anh Tân đâu, có bạn cũ về thăm đây.
Tân bước ra cửa và dừng lại,
sửng sốt:
- Trời đất, anh Thảo đó phải
không?
- Vâng, tôi là Thảo đây. Tám
năm xa cách rồi. Anh có khỏe không?
- Khỏe, khỏe lắm.
Tân nói xong, nhào tới nắm chặt
hai tay của Thảo, rối rít hỏi:
- Anh Thảo, sao anh biết tôi ở
đây mà đến?
Thảo quay sang thiếu tá Thế:
- Tôi đi công tác về tổng tham
mưu gặp thiếu tá Thế mới biết anh ở đây.
Thiếu tá Thế tiếp lời:
- Thiếu tá Thảo về họp chiến
tranh chính trị ở tổng tham mưu. Tôi nói chuyện mới
biết thiếu tá xuất thân khóa Mười bốn Thủ đức. Tôi
hỏi anh Thảo có biết chuẩn úy Bính không. Anh bảo rằng
Bính là bạn chí thân ở quân trường. Khi tôi nói Bính
tử trận từ lâu rồi thì anh Thảo tái mặt và nhất
định đòi về nhà để xem có phải bạn mình hay một
anh Bính nào khác. Thế là tôi đưa Thảo về nhà, mở cửa
đưa anh lên chỗ thờ Bính. Thảo đứng yên nhìn ảnh
Bính một hồi rồi gục đầu vào bàn thờ. Một phút
sau, Thảo ngẩng đầu lên, nước mắt lưng tròng. Anh nói
với tôi: “Trong suốt hơn mười tháng ở quân trường,
chúng tôi có ba anh em rất thân nhau. Nay Bính chết rồi,
còn một người nữa tên là Tân không biết phiêu bạt
nơi đâu”. Tôi đáp ngay: “Tân vẫn khỏe mạnh, ở gần
đây thôi”. Thế là tôi kéo anh Thảo sang đây.
Thiếu tá Thảo quay sang Tân:
- Tôi nhớ khi ra quân trường Thủ
đức, tôi tình nguyện đi biệt động quân nên về Dục
Mỹ dự khóa︠ rừng núi sình lầy còn anh và Bính về sư
đoàn Chín Bộ binh, đúng vậy không?
- Đúng vậy, chúng tôi về làm
trung đội trưởng cùng một đại đội.
- Bính tử trận lúc nào, ở đâu?
- Lúc đó chúng tôi được chi
viện cho chi khu Tri tôn để chận đường xâm nhập của
Việt cộng từ Cam bốt sang. Bính tử trận tại Nhà bàng,
gần biên giới.
Tân ngừng nói, rơm rớm nước
mắt. Cậu hỏi:
- Còn anh thì thế nào?
- Sau khóa học biệt động quân,
tôi về với đơn vị và lặn lội trên các chiến trường
ở khắp các vùng chiến thuật Một, Hai và Ba.
- Anh thuộc về ngành chiến tranh
chính trị à?
- Không, tôi đi từ trung đội
trưởng tác chiến, rồi lần đến tiểu đoàn trưởng.
- Nhưng anh Thế nói anh về dự
họp chiến tranh chính trị mà.
- Chỉ tạm thời đó thôi. Hôm
đầu năm tôi đưa tiểu đoàn đến giải vây cho một đơn
vị bộ binh ỏ Dak tô, đánh tan hai tiểu đoàn lính Bắc
Việt tại đó. Cuối trận đánh thì tôi bị thương phải
giao tiểu đoàn lại cho người khác. Tôi vừa xuất viện
được hai tháng và nằm chờ lệnh bổ nhiệm về đơn vị
tác chiến trở lại. Sẵn dịp có hội nghị chiến tranh
chính trị ở tổng tham mưu nên tôi xin sư đoàn cho tôi
về dự để nhân tiện hỏi thăm số phận sắp tới của
mình. Còn anh thì sao? Tôi nhớ anh ra đại học sư phạm
thì bị động viên. Anh được giải ngũ và trở về dạy
học phải không?
Tân gật đầu:
- Xong bốn năm quân dịch tôi
được giải ngũ. Nhưng sau khi Việt cộng tấn công tết
Mậu thân, tôi phải trở lại quân đội vài tháng thì
được biệt phái trở về dạy học.
Có tiếng Bạch Mai la to:
- Thôi xin mời các ông vào nhà,
vừa ăn vừa nói chuyện.
Tân nhìn vào nhà. Bàn cúng đã
dẹp và trở thành bàn ăn đầy thức ăn bên trên. Cậu
cầm tay hai ông thiếu tá kéo vào nhà rồi nói:
- Anh Thảo, hôm nay là ngày đầy
năm của bé Thùy Dung, con gái đầu lòng của tôi.
Cậu tiếp tục giới thiệu những
người trong gia đình. Thảo cúi đầu chào mọi người
rồi bước đến bắt tay Thùy Liên:
- Chào chị Tân. Hân hạnh được
biết chị. Tôi là bạn của anh Tân.
Thùy Liên cười vui vẻ:
- Kính chào anh. Nghe các anh nói
chuyện, em biết anh là bạn chiến đấu của anh Tân và
anh Bính.
Thảo mỉm cười:
- Bây giờ anh Tân là giáo sư,
không còn là bạn chiến đấu của tôi nữa. Có lẽ chị
là đồng nghiệp của anh Tân?
Thùy Liên lắc đầu:
- Không, em không phải là cô
giáo. Em là y tá ở quân y viện.
Thảo trố mắt ngạc nhiên:
- Chị làm việc ở quân y viện
à? Chị thuộc đội ngũ ân nhân của thương binh, có
nhiệm vụ giành lại từng mạng sống của anh em từ
trong tay của tử thần. Anh chị biết nhau trong trường
hợp nào?
Tân trả lời thay cho Thùy Liên:
- Tôi bị thương ở Vĩnh bình,
được đưa về quân y viện Cần thơ và được Thùy Liên
săn sóc. Sau khi lành vết thương và xuất viện, tôi lại
muốn được Thùy Liên săn sóc suốt đời.
Thảo cười to:
- Thực là lý thú.
Tân hỏi:
- Còn vợ con anh thì thế nào?
Thảo lắc đầu:
- Tôi chưa nghĩ đến chuyện vợ
con. Tôi đã xin vào hiện dịch, phục vụ quân đội vĩnh
viễn. Tôi và vài sĩ quan khác trong tiểu đoàn đã tự tổ
chức một lễ tuyện thệ, thề khi nào đánh đuổi được
cộng sản ra khỏi miền Nam thì mới lập gia đình. Còn
Việt cộng ở đây là chúng tôi còn độc thân để tự
do tung hoành trên chiến địa.
Thùy Liên tỏ ý thán phục:
- Các anh thực là hào hùng. Toàn
thể dân chúng miền Nam biết ơn các anh.
- Cám ơn chị. Chúng tôi thường
nghe những lời giống như chị vừa nói. Chúng tôi xem đó
là mệnh lệnh của người dân ban ra để chúng tôi lao
vào giết giặc.
Bạch Mai lại lớn tiếng nhắc
một lần nữa:
- Xin mời quí vị ngồi vào bàn.
Chúng ta vừa dùng bữa vừa chuyện trò.
Thiếu tá Thế vui vẻ đáp lời
vợ:
- Xin tuân lệnh.
Mọi người vào bàn. Tân ngồi
gần Thảo. Cậu quên cả gắp thức ăn, vì trí óc mãi mê
nhớ lại những kỷ niệm cũ trong quân trường. Cậu nói
với Thảo:
- So với mấy mươi năm của một
cuộc đời thì quãng thời gian hơn mười tháng quả thực
là ngắn, phải không anh Thảo?
Thảo dừng đũa, hơi ngạc nhiên:
- Vâng, quả thực là ngắn, nhưng
anh muốn nói tới điều gì?
- Tôi đang nhớ tới những tháng
ở quân trường Thủ đức của ba anh em mình. Đó là một
quãng đời thực ngắn nhưng đầy ắp những kỷ niệm.
Bao nhiêu năm rồi, cứ mỗi lần nhớ tới những ngày
tháng quân trường là tôi lại thấy lòng bồi hồi xúc
động.
- Tôi cũng vậy. Mấy vị sĩ quan
già mà tôi gặp cũng cùng tâm trạng như anh. Vâng, có lẽ
ai cũng thế. Quãng đời binh nghiệp là thời gian đáng
ghi nhớ nhất của người đàn ông. Quân trường là nơi
khởi đầu quãng đời đáng ghi nhớ đó, là nơi chứng
kiến sự thay đổi quan trọng của cuộc đời, trong nếp
sinh hoạt, trong tâm tình, trong thói quen lẫn trong suy nghĩ.
Nơi đó cũng là nơi mình bắt đầu gặp những chiến
hữu. Trong cuộc đời, không có gì đẹp và tha thiết
bằng tình yêu chiến hữu. Chính vì tình chiến hữu đó
mà người ta vui lòng sống chết với nhau trên chiến
trường.
Thiếu tá Thế chen lời:
- Anh Thảo luận về tình chiến
hữu thực là cảm động.
Thảo cười buồn:
- Tôi không còn gia đình, không
có một người thân nào cả ở miền Nam. Thế mà tôi yêu
miền Nam vô cùng, chính là do tình chiến hữu đó.
Tân vụt hỏi bạn:
- Anh Thảo, anh còn nghĩ đến cô
Hải Đường không?
Thảo quay sang nhìn với đôi mắt
ngạc nhiên:
- Bao nhiêu năm rồi mà anh còn
nhớ tên em gái tôi à?
Thảo thở dài, nói tiếp:
- Không lúc nào tôi quên nó, kể
cả những lúc lang thang trên chiến trường. Nhiều lúc
đối mặt với quân thù, tôi cảm thấy như nghẹn thở
vì căm hờn và đau xót.
Thảo lại thở dài:
- Tôi căm hờn vì chúng nó đã
làm tan nát gia đình tôi. Nhưng tôi đau xót vì kẻ thù
thực sự đang ở trong những dinh thự sang trọng ngoài
miền Bắc hay trong những căn hầm kiên cố trong chiến
khu, còn cái bọn đang chĩa súng vào tôi cũng chỉ là
những công cụ đáng thương mà thôi. Biết đâu, trong số
nầy, có cả bạn bè hay người yêu của con Hải Đường
nữa.
- Tôi nhớ, trước đây, lúc còn
ở trong quân trường, anh cũng đã nói như thế với tôi
và Bính rồi. Anh còn tâm sự rằng nguyện vọng lớn nhất
của anh là giải phóng miền Bắc để tháo bỏ gông cùm
cộng sản cho em gái anh và cho đồng bào mình ngoài đó.
Bây giờ anh còn ý định đó hay không?
- Tôi vẫn còn giữ nguyên vẹn
lòng mong muốn giải phóng miền Bắc để tôi về tìm lại
em gái tôi và tìm mồ mả cha mẹ tôi. Nhưng làm cách nào
để giải phóng miền Bắc? Ý nghĩ của tôi bây giờ có
khác hơn lúc còn ở quân trường.
- Khác thế nào?
- Lúc đó, mình còn ngây thơ lắm,
chưa thực sự hiểu rõ chiến tranh. Bây giờ, sau nhiều
năm chinh chiến, mình đã chứng kiến nhiều. Chiến tranh
quá tàn khốc, bom đạn thì vô tình và mù quáng, đâu có
phân biệt được kẻ tốt người xấu, binh sĩ hay dân
thường. Giải phóng miền Bắc là điều rất tốt, nhưng
trút nổi thống khổ của chiến tranh lên đầu nhân dân
miền Bắc như cộng sản đã gây ra cho nhân dân miền Nam
thì tôi không cam lòng.
Thảo nhìn thẳng đôi mắt của
Tân và nói tiếp:
- Tôi căm thù cộng sản nhưng
tôi không muốn chiến tranh tràn ngập cả miền Bắc. Anh
Tân có cho đó là điều mâu thuẫn không?
Tân sực nhớ lại cái đêm trong
quán ăn, ngồi nói chuyện với anh chàng tên Thành, làm
việc trong tòa hành chánh tỉnh Kiến phong, nên vội vã
trả lời:
- Không mâu thuẫn chút nào cả.
Tôi và rất nhiều người khác đều có tâm trạng như
anh. Chúng ta khác với cộng sản ở chỗ đó.
Tân bưng ly bia uống một ngụm
rồi hỏi:
- Theo anh, chúng ta làm thế nào
để giải phóng miền Bắc, nếu không dùng giải pháp
chiến tranh?
Thảo lắc đầu:
- Tôi nghĩ chưa ra và có lẽ cả
thế giới nầy chưa ai nghĩ được một biện pháp nào
cho ổn thỏa. Cộng sản chiếm được miền Bắc hơn mười
lăm năm rồi. Họ đã củng cố được chính quyền của
họ một cách vô cùng vững chắc.
- Anh có hi vọng một ngày nào
đó, dân chúng hết chịu nổi sẽ đứng lên để lật đổ
chế độ?
Thảo lại lắc đầu:
- Không thể nào được. Tôi đã
từng sống với cộng sản, tôi đã từng chứng kiến sự
kiểm soát của họ đối với từng người dân. Lực
lượng công an của họ hoạt động rất hữu hiệu. Họ
kiểm soát dân bằng cách xúi dân theo dõi lẫn nhau. Hàng
xóm theo dõi nhau, vợ chồng, con cái theo dõi nhau, thế thì
còn nhúc nhích vào đâu được. Đó là lúc tôi còn sống
ngoài đó. Đến ngày nay, thêm mười năm nữa thì sự
kiểm soát còn ghê gớm biết chừng nào mà kể.
Thảo dừng lại một chút rồi
nói tiếp:
- Vừa rồi, tôi có đi dự một
buổi nói chuyện của một cán bộ Việt cộng do bộ
thông tin chiêu hồi tổ chức. Anh ta bảo rằng, ở miền
Bắc, đảng chăm lo từng chén cơm, từng trái cà trong bữa
ăn của nhân dân. Điều đó có nghĩa là trong bữa ăn của
gia đình từng người dân, có bao nhiêu chén cơm, có bao
nhiêu trái cà, đảng cũng biết hết. Thế thì dân còn
cách nào để nổi loạn nữa.
Thảo cố nén một tiếng thở
dài:
- Trong tình hình nầy chỉ có một
phép mầu mới cứu được nhân dân miền Bắc.
- Anh tin vào một phép mầu à?
- Không, tôi không tin vào một
phép mầu vì tôi chẳng theo tôn giáo nào. Tôi luôn luôn
nghĩ đến em Hải Đường của tôi, mong muốn gặp lại
nó một lần và tôi đau đớn vì biết điều đó hoàn
toàn vô vọng. Nếu tôi tử trận ngoài chiến trường thì
tôi sẽ trút bỏ tất cả cho thế gian nầy và chỉ mang
theo nỗi tuyệt vọng đó sang bên kia thế giới. Nhưng
thôi, chúng ta không nên nói đến chuyện buồn nữa. Hôm
nay là ngày vui của anh chị Tân, ngày đầy năm của em bé
mà.
Thảo nói xong cố nở một nụ
cười. Tân hỏi:
- Hôm nào anh trở lại đơn vị?
- Ngày mai kết thúc cuộc hội
thảo, ngày mốt tôi lên đường.
- Thế thì chiều mai anh ghé đến
chơi với chúng tôi một lần nữa nhé.
- Vâng tôi xin nhớ nhưng không
thể hứa trước với anh được. Sau khi kết thúc hội
thảo, anh em thường kéo nhau đi chơi. Quanh năm suốt tháng
ở chỗ đèo heo hút gió, lâu lâu mới có dịp về thủ
đô, phải ăn chơi để vớt vát phần nào cái tuổi thanh
xuân của mình.
- Nếu sau nầy có dịp về Sài
gòn, anh nhớ ghé chúng tôi nhé.
- Vâng, điều đó thì tôi hứa
được.
Bữa ăn kết thúc, hai thiếu tá
lên xe trở về ngay bộ tổng tham mưu.