Nơi giáp ranh hai tỉnh Quảng trị
và Thừa thiên, có một ngôi làng bé nhỏ tên là Mỹ
chánh, nằm trên dòng sông Ô lâu thơ mộng. Ngang qua đầu
làng, con đường thiên lý, quốc lộ số Một, chạy suốt
từ Bắc vào Nam như cột xương sống của nước Việt
Nam dài ngoằn. Song hành với quốc lộ là đường sắt
xuyên Việt. Từ trong Nam ra Bắc, những con tàu dừng lại
tại một nhà ga be bé trước khi vượt qua chiếc cầu sắt
bắt ngang dòng Ô lâu. Chính vì vị trí chiến lược quan
trọng nầy nên khi trở lại chiếm đóng thuộc địa cũ,
quân Pháp lập một cái đồn to tướng ngay đầu cầu để
giữ trục lộ giao thông huyết mạch và khống chế một
vùng gồm nhiều làng mạc từ chân dãy Trường sơn đến
tận bờ biển Đông.
Ban ngày, những toán lính quốc
gia người Việt, do một viên chỉ huy người Pháp, trang
bị đến tận răng thường ra khỏi đồn, đi sùng sục
khắp làng. Họ xông vào bất cứ nhà nào để lục soát
mà không cần lý do. Họ không ăn cướp vì chẳng còn gì
đáng giá để cướp, chẳng hãm hiếp vì chẳng còn ai
đáng giá để hiếp. Cũng có tin nói rằng thỉnh thoảng,
lính bắt được một người con gái hay đàn bà còn trẻ,
vu cáo là Việt Minh để bắt về đồn và tại đó, mọi
chuyện tồi tệ đã diễn ra. Tuy nhiên, chuyện khủng
khiếp đó chỉ được người ta thuật lại nơi một làng
nào khác chứ làng nầy thì chưa có. Nơi đây, chỉ xảy
ra vài việc xấu xa lặt vặt như đôi khi, đi lục soát,
thấy một con gà nằm ấp trứng trên ổ, một tên lính
thuận tay bắt lấy bẻ cổ cho nó đừng kêu, rồi nhét
vội vào túi quần và đi ra một cách rất thản nhiên.
Dân quê đã quen với những cuộc
lục soát bất thần nầy. Họ lo lắng nhìn theo toán lính
dỡ tung đồ đạc, giường chiếu, có khi đào cả nền
nhà, vườn tược, những nơi nghi có chôn dấu tài liệu
hay vũ khí. Thông thường, lục lọi một lúc, toán lính
đi ra, người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại.
Lính đi rồi, người dân sắp
xếp lại nhà cửa, lấp những lỗ mà lính vừa đào lên,
thu dọn mọi thứ bừa bãi trên nền nhà.
Dân làng, hầu hết chỉ còn
người già và trẻ em, đàn ông thanh niên đã biến mất.
Họ đi đâu? Phần lớn ra chiến khu để theo kháng chiến,
một số ít hơn về thành phố hoặc đăng vào lính quốc
gia. Trong làng cũng còn sót lại một vài người phụ nữ
khá trẻ phải nuôi con sơ sinh và không có điều kiện về
thành phố sinh sống. Họ tránh chải chuốt, cố tình ăn
mặc lôi thôi để tẩy sạch nét xuân sắc còn sót lại
trên gương mặt và thân thể mình. Mỗi khi lính xông vào
lục soát, những bà mẹ nầy vơ vội con nhỏ, ôm vào
lòng và ngồi co ro trên thềm. Giữ chặt con bên mình trở
thành phương cách tự bảo vệ duy nhất của họ lúc bấy
giờ. Lúc xong việc, ra khỏi nhà, đôi khi viên chỉ huy
người Pháp dừng lại nhìn đứa hé thu lu trong lòng mẹ.
Ông ta móc túi lấy một viên kẹo nhét vào tay bé và
thuận tay vuốt má bà mẹ rồi quay lui, vừa đi vừa cười
hô hố.
Ban đêm, lính rút cả vào đồn.
Bóng tối trùm lên ngôi làng như một tấm vải liệm rợn
người. Không gian hoàn toàn tĩnh mịch, nghe rõ tiếng dế
gáy ngoài vườn, tiếng con giạt sành nhại mãi điệp
khúc nhàm chán, tiếng vạc ăn đêm rên rỉ trên không
trung.
Khác với những làng quê bình
thường ở Việt Nam, nơi đây không bao giờ có tiếng chó
sủa trong đêm. Tất cả chó trong làng đều bị giết
sạch do lệnh của cả hai bên, lệnh của ủy ban kháng
chiến hành chánh thuộc mặt trận Việt minh để đảm
bảo an toàn cho dân quân du kích về làng, cùng với lệnh
của trưởng đồn người Pháp để giữ bí mật cho các
toán tuần tiểu và phục kích ban đêm. Mạng sống của
những con chó bị loại bỏ, mạng sống những con người
cũng thường xuyên bị đe dọa cũng từ cả hai phía đối
đầu nhau.
Vì vậy, cái yên lặng của màn
đêm trong làng hoàn toàn không phải là sự tĩnh mịch
bình yên để lương dân được nghỉ ngơi sau một ngày
lao động vất vả mà thực sự chứa bên trong những cơn
sóng ngầm đáng sợ. Trong không gian yên lặng rùng rợn
đó, đôi khi người ta nghe nhiều tiếng bước chân xào
xạc trên nền sỏi đất của con đường làng, cùng với
tiếng sột soạt của áo quần và có cả tiếng lách cách
khe khẽ của vũ khí va chạm vào một vật kim loại khác.
Những tiếng động nầy trong đêm khuya làm cho người
nghe hồi hộp. Họ hít vào một hơi dài, ém không khí
trong lồng ngực và từ từ cho thoát ra thực nhẹ như sợ
người bên ngoài đường nghe được tiếng thở của
mình.
Có nhiều đêm, cái không gian yên
tĩnh bị xé toạc bởi những loạt súng xa xa, xen lẫn với
những tiếng nổ ì ầm làm cho những người lớn giật
mình thức giấc lo lắng, trong khi trẻ con vẫn bình thản
chìm sâu trong giấc ngủ thơ ngây.
*
* *
Giữa làng có một gia đình nho
nhỏ gồm ba mẹ con. Người mẹ là chị Hằng còn khá
trẻ, nét đẹp của thời còn con gái chưa hoàn toàn biến
mất trên khuôn mặt dãi dầu mưa nắng. Chị có hai đứa
con trai, đứa lớn được mười bốn tuổi, đứa nhỏ
vừa lên mười.
Một đêm, có tiếng chân ngoài
đường như tiếng bước của ma quỷ hay của tử thần
đi tìm bắt hồn của những người tới số. Trong nhà,
đứa bé bật thét lên. Chị Hằng hoảng hốt vùng dậy
phóng sang giường bên. Dưới ánh sáng lờ mờ của ánh
trăng hạ tuần bên ngoài chiếu qua cửa sổ, chị thấy
hai con vẫn chủ yên. Có lẽ thằng bé vừa thét lên vì
một cơn ác mộng.
Chị ngồi xuống cạnh giường,
hồi hộp lắng tai nghe. Tiếng buớc chân bên ngoài ngừng
lại. Chị nhìn ra cửa và tưởng tượng có ai đó lao
vào, súng hoặc mã tấu lăm lăm trong tay.
Nhưng chẳng có gì cả, không
gian hoàn toàn yên tĩnh. Ngoài sân, dưới ánh trăng, cây
bưởi in xuống đất một vùng đen lốm đốm trắng. Khi
ngọn gió thoảng qua, những đốm trắng nhúc nhích, thay
hình đổi dạng một cách dị kỳ. Không gian về đêm trở
nên thực mênh mông, làm chị sợ hãi. Chị muốn có một
cái gì đó ngăn cách nơi bệ cửa để có sự phân đôi
rõ rệt, bên ngoài là vùng của ma quỷ, của những oan
hồn người chết vì chiến tranh, bên trong là nơi ở
riêng của chị và hai con trai. Nhưng lấy gì mà ngăn?
Trong làng, không nhà nào có cửa. Nếu có, người ta cũng
đã gỡ ra làm phản để nằm hay làm kệ chứa đồ đạc.
Nhà nào cũng trống hoác suốt ngày đêm, những người
cầm súng hay cầm dao có thể xông vào bất cứ lúc nào.
Đóng kín cửa là điều nguy hiểm vì có thể bị nghi ngờ
cho kẻ địch ẩn núp bên trong và một trong hai bên sẽ
có thể sẵn sàng xả súng bắn vào. Tuy mọi nhà đều để
ngõ nhưng chưa có một vụ trộm nào xảy ra. Chẳng còn
gì đáng giá để bị mất trộm. Nhà nào có chút của
cải thì đã đưa về thành phố từ lâu. Vả lại, chẳng
có kẻ trộm nào dám đi ra đường ban đêm vì không chóng
thì chầy, kẻ liều lĩnh nào đó sẽ làm bia hứng đạn
của bên nầy hoặc bên kia.
Chị Hằng tiếp tục ngồi yên
nhìn ra ngoài. Ánh trăng lạnh lẽo và rờn rờn vẫn đổ
xuống lấp lánh trên những lá cây. Chị vừa sợ, lại
vừa mong đợi. Chị mong đợi một bóng người cao gầy
xuất hiện và lặng lẽ bước vào. Người đó là anh
Kha, chồng chị. Chị sẽ ôm chầm lấy anh và gục đầu
vào vai. Nước mắt chị sẽ thấm ướt lớp áo khét
nghẹt mùi mồ hôi của anh.
Lần trở về sau cùng của anh
cách nay vừa đúng hai tháng. Đêm đó, giữa khuya, đang
ngủ, chị giật mình khi có hơi thở phả trên mặt. Chị
hoảng hốt ngồi bật dậy, lùi nhanh xuống cuối giường,
trố mắt nhìn xuyên qua bóng tối, miệng mở to mà chẳng
dám la một tiếng nào. Rồi chị nghe giọng đàn ông thì
thào:
- Hằng, anh đây, Kha đây mà.
Nhận ra tiếng chồng mình, chị
mừng rỡ, nhào tới và nằm gọn trong vòng tay anh.
Sau một lúc ân ái, lửa yêu
đương còn hừng hực cháy thì anh lại ra đi; các đồng
chí của anh đang đợi ngoài đầu đường.
Bây giờ chị nhớ tới anh. Chị
nằm xuống nhắm mắt lại để cho hai giọt nước lăn
dài xuống gối. Chị xót xa nhớ lại ngày xưa đó, cách
đây hơn mười lăm năm, có một thanh niên mỗi buổi sáng
đứng bên vệ đường đón chờ chị gánh hàng ra chợ
bán. Chị biết đó là người của làng kế bên, nhờ
giọng nói có những âm sắc đặc trưng của làng nầy.
Lúc đó, chị chỉ mới mười
tám tuổi đầu. Cứ mỗi lần đi qua khúc quanh, lòng chị
lại xao xuyến khi thấy anh đứng đó, lưng quay về phía
sông, tay cầm cọng cỏ đưa lên miệng khẽ nhâm nhi. Chị
cảm thấy đôi chân run rẩy và không còn ngoan ngoãn tuân
theo ý muốn của mình nữa. Chúng quờ quạng như muốn đá
vào nhau; chị phải cố kềm chúng lại để bước nhanh
qua trước mặt anh. Dưới bến sông có tiếng gọi vọng
lên:
- Cô Hằng, cô Hằng, dừng lại,
có người muốn gặp cô tề.
Nhiều tiếng cười nổi lên.
Hằng biết đó là tiếng cười chọc ghẹo đầy cảm
tình của đám bạn bè cùng trang lứa. Giọng nói của
người bạn gái lại vút lên như đuổi theo chị:
- Người chi mà vô tình. Người
ta thức dậy từ ba giờ khuya để ra đứng đợi mà mình
không cho người ta nói được tiếng nào. Tệ bạc rứa
là cùng.
Những tiếng cười lại vang lên.
Chị càng cố đi nhanh và biết rằng đôi mắt của người
ấy vẫn bám theo sau lưng chị.
Ngày nào đi qua nơi đó, chị
cũng khổ sở. Nhưng thỉnh thoảng, có hôm, đi qua mà
không thấy anh ta đứng đó thì chị lại cảm thấy thiếu
thốn và thẩn thờ suốt buổi chợ.
Dần dần, qua những lời trêu
chọc của bạn bè, chị biết anh ta là một công chức
của chính phủ bảo hộ, một nhân viên của sở Hỏa xa,
có nhiệm vụ bẻ ghi cho những chuyến tàu qua lại và bảo
vệ chiếc cầu sắt bắt ngang qua dòng Ô lâu.
Mối tình câm lặng kéo dài hai
năm. Chị chưa nói với anh một lời nào. Nhưng mỗi khi
nằm lắng nghe còi tàu xé rách màn đêm, chị lại nghĩ
đến anh và tự thấy xấu hổ trong lòng.
Một buổi sáng mùa xuân đẹp
trời, một đoàn người quần áo chỉnh tề mang trầu cau
đến nhà chị. Hai tháng sau, chị thành vợ của anh. Đêm
tân hôn chị đã run rẩy trong vòng tay lực lưỡng của
anh và được hưởng những giây phút tuyệt vời đầu
tiên của tình nghĩa vợ chồng.
Chị thở dài. Những kỷ niệm
của thời hoa bướm lại làm cho ngọn lửa yêu đương
rạo rực trong lòng chị. Chị chép miệng và nói thầm
trong đêm tối:
- Mới đó mà đã mười lăm năm
rồi.
Chị nhớ rất rõ, hai năm sau
ngày cưới của vợ chồng chị, một đứa con trai ra đời.
Chồng chị đặt tên cho nó là Vinh, Phạm Bá Vinh. Bốn
năm sau, em nó, Phạm Bá Tân góp mặt cùng gia đình. Cha mẹ
chồng còn sống nhưng chị chẳng phải làm dâu. Từ khi
lấy nhau, hai vợ chồng ở luôn với mẹ chị cho gần
nhiệm sở của anh. Mỗi tháng một đôi lần, họ đưa
con qua thăm quê nội, ở chơi vài một ngày rồi lại trở
về. Vài tháng sau khi sinh con lần thứ hai, mẹ chị qua
đời. Trong những ngày tang khó, chị vô cùng đau đớn,
nhưng sau đó, có chồng, có con bên cạnh, nỗi buồn khổ
của chị dần dần trôi qua.
Anh luôn luôn là người chồng
tốt, còn chị bao giờ cũng là người vợ hiền. Họ
hưởng hạnh phúc bên nhau trong một nếp sống giản dị
và bình yên cho đến năm 1944, sau khi Nhật hất cẳng Pháp
khỏi Đông dương.
Máy bay Đồng minh thường xuyên
quần thảo trên bầu trời Việt Nam. Một ngày kia, một
đoàn oanh tạc cơ đến thả bom đánh sập cầu Mỹ chánh.
Những chuyến tàu thôi qua lại, anh buồn bã từ giã nhà
ga và cây cầu thân yêu. Đêm đêm, anh không còn thức
giấc, một mình đứng bên cần ghi đưa đèn làm hiệu và
nhìn đoàn tàu rầm rập đi qua, ánh đèn đỏ ở sau toa
cuối cùng nhỏ dần rồi biến mất trong màn đêm. Xa ga,
xa đường sắt, xa những đoàn tàu, anh buồn ngẩn ngơ
nhưng anh không còn thì giờ ngồi nuối tiếc mãi vì phải
lao vào công việc một cách cật lực để nuôi vợ nuôi
con khi trận đói năm Ất dậu bò dần từ ngoài Bắc vào
và nhanh chóng lan đến làng anh.
Rồi cách mạng Mùa Thu bùng nổ,
anh choáng ngợp trong khí thế sục sôi của cả một dân
tộc đứng lên giành độc lập. Ở tuổi gần bốn mươi,
anh sống lại với tuổi đôi mươi, say sưa làm công tác
mà cách mạng giao phó.
Không bao lâu sau, chiếc cầu được
sửa chữa, những đoàn tàu lại lăn bánh, anh không trở
về công việc cũ mà nhận lãnh một nhiệm vụ khác,
nhiệm vụ quan trọng của một công dân Việt Nam đang làm
chủ vận mệnh đất nước của mình.
Cuộc sống tự chủ chưa được
bao lâu thì người Pháp trở lại. Nam bộ kháng chiến rồi
toàn quốc kháng chiến được Việt minh phát động và
được hưởng ứng một cách sôi nổi, cả một dân tộc
đồng loạt đứng lên để gìn giữ quê hương. Tuy ý chí
có thừa mà vũ khí lại quá thô sơ nên dân quân du kích
phải rút lui dần trước những vũ khí tối tân của quân
thù. Tại Mỹ chánh, các toán quân Lê dương từ Huế đổ
ra, chiếm lại nhà ga và cây cầu thân yêu. Đồng nghiệp
và bạn bè của Kha, nhiều người rút dần ra phía Bắc.
Một số khác, trong đó có anh, ở lại tổ chức công
cuộc kháng chiến để đánh đuổi thực dân ra khỏi đất
nước.
Anh tham gia vào lực lượng dân
quân du kích và rút vào chiến khu trong khi vợ và con vẫn
phải ở lại trong làng. Vì nhiệm vụ của một công dân
khi Tổ quốc cần đến, anh nhất định ra đi nhưng không
khỏi ngậm ngùi và lo lắng khi trao hết gánh nặng nuôi
con trên đôi vai gầy guộc của người bạn đời trong
cảnh dầu sôi lửa bỏng…
Đang miên man nhớ về quá khứ,
Hằng giật mình vì một loạt súng nổ dòn phía bờ sông.
Lại thêm vài loạt nữa vang lên. Chị vội vàng nhỏm dậy
lôi hai con xuống đất. Ba mẹ con nằm im, lắng tai nghe.
Màn đêm bị xé rách rồi liền trở lại như mặt nước
hồ vừa xao động vì một cái quẩy đuôi của cá và
nhanh chóng trở lại phẳng phiu.
Mấy loạt súng nổ ở bờ sông
làm cho bác Lành lo ngại. Nhà bác cũng ở giữa làng, cách
nhà Hằng mấy dậu cây xanh. Bác lo ngại vì sáng nay, bác
phải xuống bến thực sớm để đi gặt lúa mãi dưới
cánh đồng cách xa làng hơn mười cây số đường sông.
Công gặt đã sẵn sàng, ghe cũng đã neo dưới bến. Bác
dự trù bốn giờ sáng phải ra đi để đến nơi thì trời
vừa rựng sáng. Mọi người sẽ phải làm việc cật lực
mới có thể trở về đến làng trước khi trời tối.
Trong góc nhà, mấy cây đuốc làm
bằng cành khô độn rơm đã sẵn sàng. Bốn giờ sáng,
trời còn tối đen, đi ra đường mà không có đuốc, ắt
khó tránh được những viên đạn vô tình. Cẩn thận như
thế vẫn chưa đủ. Mấy ngày hôm trước, bác cũng đã
xin phép xong xuôi. Xin phép cả hai bên, đương nhiên như
thế, vì cả hai bên đều có vũ khí giết người.
Bác đã đến đồn gặp ông hạ
sĩ quan phụ trách việc liên hệ với dân thường để
khai rõ lý do đi sớm, ngày giờ, lộ trình, số người đi
và dụng cụ mang theo. Trước đó hai ngày, bác cũng đã
xin phép quân kháng chiến thông qua cậu giao liên là thằng
Nậm, con ông Cửu Điền. Cái phép nầy khá lạ đời.
Không phải xin phép đi gặt lúa mà xin được vào đồn
gặp kẻ thù để xin đi gặt lúa. Nếu không làm như thế
thì ngay khi bác vừa bước chân ra khỏi đồn, đã có
người báo ngay cho dân quân du kích và ngay tối hôm đó,
mạng sống của bác sẽ như chỉ mành treo chuông.
Bác phải rất thận trọng dù
thằng con lớn của bác cũng thoát ly theo cách mạng vào
chiến khu rồi. Trong thời buổi nầy, lắm chuyện bi thảm
lẫn rùng rợn đã xảy ra. Đầu làng có ông Bát Đại
cũng có con theo kháng chiến, thế mà vào đồn một lát
không biết để làm gì, hôm sau người ta thấy xác ông
sau vườn, đầu gần lìa khỏi cổ vì một lát mã tấu
bén ngót.
Cuối làng có ông Thông Lý, trước
cách mạng Tháng Tám làm việc ở sở Bưu điện thành phố
Huế nên có thể nói được tiếng Tây. Hôm đó, viên
trưởng đồn người Pháp dẫn lính qua nhà. Trời xui đất
khiến thế nào mà chúng lại quặt vào nhà ông để lục
soát. Ông Thông Lý bủn rủn thay chân khi sực nhớ có mấy
tờ bạc cụ Hồ giấu dưới lư nhang. Nếu bị bắt gặp
thì ông có thể bị bắn chết ngay tại chỗ. Kia kìa,
viên sĩ quan đang bước tới bàn thờ. Ông đi nhanh đến
trước mặt nó và tuôn ra một tràng tiếng Pháp. Sau vài
giây ngạc nhiên, nó mừng rỡ khi nghe có người nói được
tiếng của Tổ quốc mình nên niềm nỡ bắt tay ông. Ông
mời nó ngồi xuống ghế để uống nước. Bọn lính đi
theo thấy vậy có ý nể nang, thôi không lục soát nữa.
Chúng ra vườn ngồi đợi vị chỉ huy của mình. Mười
phút sau, bọn chúng rút đi, cả nhà vẫn chưa hết bàng
hoàng vì vừa thoát qua được một tai nạn có thể vô
cùng thảm khốc.
Sáng hôm sau, một chị đàn bà
đi ngang qua, ghé vào xin nước uống. Chị lấm la lấm lét
nhìn ra đường rồi kề tai ông nói nhỏ:
- Chú vô Huế ngay đi. Hồi hôm,
anh em đã họp và đã quyết định xử tử chú rồi đó.
Nói xong, chị cám ơn ông Lý đã
cho uống nước rồi bỏ đi không nói thêm một lời nào
nữa.
Trời đang lạnh mà mồ hôi trên
lưng ông rịn ra. Ông suy nghĩ và dần dần hiểu lý do mà
ông bị lên án tử hình. Thực ra rất giản dị. Đó là
vì ông đã nói chuyện với thằng Tây trưởng đồn. Ông
đã nói chuyện gì với nó, ai mà hiểu được, vì vậy
khử ông đi là phải. Nhưng chị nọ là ai mà đến báo
tin để cứu mạng ông? Đây là một việc cực kỳ nguy
hiểm. Nếu việc báo tin nầy không may bị đổ bể thì
rõ ràng chị đã đem mạng sống của chị thế cho mạng
của ông.
Ông ngồi thừ ra suy nghĩ một
lát và sực nhớ ra rằng ông có đứa cháu gọi bằng chú
đã thoát ly theo kháng chiến ngay từ lúc cách mạng vừa
thành công. Vợ chồng ông không có con nên trước đây đã
hết lòng chăm lo đứa cháu nầy. Ông đã nuôi nấng nó,
dạy dỗ cho nó nên người và xin cho nó vào làm việc
trong sở Bưu điện của ông. Có lẽ nó có tham dự cuộc
họp lên án ông và đã đền ơn bằng cách nhờ người
báo tin để cứu mạng ông.
Ông phải đi, dứt khoát phải
đi. Nếu còn nấn ná ở lại thì mạng sống của ông chỉ
còn kéo dài từ bây giờ cho đến đêm mà thôi. Ông biết
rất rõ vì ông là người có học và đã chứng kiến
biết bao việc từ những phút đầu tiên sau khi cách mạng
thành công. Trong số bạn bè và bà con của ông đã có
nhiều người chết vì bị nghi ngờ một cách thực là
phi lý. Như trường hợp của thằng cháu Tánh đáng thương
của ông chẳng hạn. Mới tháng trước đây, nó đưa vợ
con qua đò để về thăm quê nội. Rủi cho nó hôm đó lại
mặc chiếc quần xanh, vợ nó áo trắng, đứa con chưa đầy
năm đội cái mũ có một cái giải đỏ. Thế là đủ ba
màu “xanh, trắng, đỏ”, màu cờ tam tài của Pháp; bao
nhiêu đó bằng chứng đủ để kết tội nó làm gián
điệp cho Tây vì ba màu nầy chính là ám hiệu vậy. Thằng
Tánh bị bắt đem đi và vợ nó ghi nhớ ngày hôm đó để
hàng năm làm giỗ cho chồng.
Kinh nghiệm sống cho ông thấy
rằng bị nghi ngờ thì hầu hết phải chịu tội chết.
Lý do nghi ngờ càng mơ hồ thì chết càng nhanh. Những tên
Việt gian thực sự theo giặc để phản lại Tổ quốc,
phản lại đồng bào thì có thể chậm chết hơn. Bị
bắt, bị khai thác rồi đưa ra tòa án nhân dân xét xử.
Có khi, nhằm đáp ứng mục đích tuyên truyền, phạm nhân
được tòa án nhân dân khoan hồng để đi theo kháng chiến
lập công chuộc tội. Đến kẻ thù chính thức là thằng
lính Pháp, nếu bị bắt thì còn khó chết hơn nữa. Người
ta bảo vệ tính mạng thằng lính đó một cách cẩn thận,
cho ăn uống rất tử tế vì nó là vật trình diễn rất
sáng giá và nó có thể gởi tiếng nói về tận bên trời
Tây.
Ông Thông Lý biết mình chỉ
thuộc diện bị nghi ngờ mà thôi nên rất dễ chết. Vì
vậy cần phải ra đi ngay chiều hôm nay. Tuy nhiên, phải
đi một cách bình thản, đừng để người của cách mạng
nghĩ rằng ông đã nhận được tin tức đêm rồi của
dân quân du kích. Ông đi thoát nhưng để lại hiểm nguy
cho cháu ông và người đàn bà đến báo tin thì ông không
đành lòng. Ông bóp trán suy nghĩ hồi lâu để cố tìm
cho ra giải pháp. Ông gọi bà vợ đang cuốc đất ngoài
vườn vào. Ông thì thầm nói cho vợ biết hoàn cảnh hiểm
nguy hiện nay rồi chạy sang nhà người chị kế bên. Ba
người bàn bạc và đồng ý đóng một vở kịch để ông
bà Lý thoát thân. Vở kịch tương đối giản dị và dễ
thực hiện, ba người bắt đầu làm ngay.
Bà Lý giả vờ đau bụng dữ
dội, rên la thảm thiết. Ông Lý quýnh quáng cho vài món
cần thiết vào bao rồi hai chị em ông dìu bà lên đồn
để xin thuốc. Viên trưởng đồn đã quen mặt ông Thông
nên tiếp họ một cách niềm nở và giữ hai ông bà lại.
Bà chị trở về phao lên rằng bà Lý bệnh rất nặng cần
mang vào Huế để chữa trị. Ít lâu sau ông bà Lý vào
Nam và không bao giờ trở về làng nữa.
Vài tháng sau, bác Lành biết được
việc đóng kịch ngộ nghĩnh nầy qua lời kể thì thầm
của bà chị ông Thông Lý. Câu chuyện làm cho bác đã sẵn
tính thận trọng lại càng thêm thận trọng. Vì vậy việc
đi gặt lúa sáng sớm mai, bác đã chú tâm xin phép cẩn
thận và đã được cả hai bên chấp thuận.
Tối hôm đó, như mọi ngày, bác
cùng gia đình đi ngủ sớm. Đang ngủ say, bác choàng thức
giấc vì một loạt súng nổ khá gần. Lại mấy loạt nổ
vang lên trong đêm vắng. Tiếng súng từ hướng sông vọng
lại. Bác ngồi dậy hồi hộp lắng nghe. Nếu súng tiếp
tục nổ thì mặt trận đang diễn ra ở đó và sáng sớm
người ta sẽ không cho bác đến để lấy ghe đi đến
ruộng. Thế là hỏng việc. Lúa đã chín, những bầy chim
chung quanh sẽ bay đến và hai ngày sau sẽ không có hạt
lúa nào còn dính trên thân. Trong hơn một tháng nữa, nhà
bác sẽ hết gạo, cả nhà bác lấy gì để sống?
Bác đứng một hồi lâu, không
nghe gì khác, đêm lại chìm sâu trong tĩnh mịch. Bác thở
dài nhẹ nhõm và nghĩ rằng đó chỉ là vài loạt súng
bắn một cách vu vơ. Chuyện đó cũng rất thường xảy
ra. Lính đi tuần ban đêm, thấy có gì nghi ngờ thì vội
bắn một hai loạt đạn để thị uy và lấy thêm can đảm.
Bác trở lại giường, nằm xuống cố dỗ giấc ngủ.
Khi sao lưỡi cày chổng ngược
đuôi lên trời, bác gái từ trong buồng bước ra gọi bác
dậy. Hai ông bà lục đục nhóm bếp thổi cơm.
Ăn uống xong xuôi, hai bác cùng
ba ông già khác mang dụng cụ ra khỏi nhà. Bác đi đầu,
cầm cây đuốc cháy đưa lên cao. Con đường quen thuộc
hiện ra khá rõ ràng dưới ánh trăng hạ tuần đang đứng
đỉnh đầu. Dưới ánh đuốc chập chờn, năm người lầm
lũi đi, chân dẫm trên những ngọn cỏ đẫm sương đêm.
Gió khuya lành lạnh, những mái tranh bé nhỏ xác xơ nằm
im lìm trong màn đêm tĩnh mịch. Qua bãi cỏ thâm thấp mọi
người nhận ra từ xa một dải trắng bạc, đó là dòng
sông Ô lâu. Họ sắp đến đó và sẽ lên chiếc thuyền
cột ngay bên mép nước.
Dòng sông hiện ra mỗi lúc một
gần. Chợt bác Lành dừng bước, thảng thốt nhìn về
phía trước. Trăng vừa lẫn vào một đám mây sáng bạc.
Dưới ánh sáng lờ mờ, bác nhận thấy một vật màu đen
như một khúc thân cây nằm ngang giữa đường. Bác nhìn
sững rồi quay lại. Bác gái cũng vừa đến nơi đứng
gần bên bác. Giọng bác thì thầm:
- Bà nhìn kìa. Có vật gì đằng
kia, ở sát bờ sông đó.
Bác gái nheo mắt:
- Hình như là khúc củi ai quăng
ở đó. Không lẽ mùa nầy mà có củi rều từ trên núi
trôi về?
Bác đưa cao ngọn đuốc:
- Cứ tới gần xem vật gì.
Bác gái có vẻ sợ hãi:
- Khoan đi ông ơi, chờ mấy người
đi sau tới rồi cùng đi một lượt.
Bà quay lui, to giọng:
- Nhanh lên mấy bác ơi. Đến xem
vật gì đằng kia kìa.
Ông Cảnh, người đàn ông khỏe
nhất trong đoàn, bước tới, hỏi vội:
- Gì vậy?
Bác Lành lấy tay chỉ về phía
trước:
- Nhìn xem, có phải khúc củi
không?
Mặt trăng vừa ra khỏi đám mây.
Ông Cảnh chăm chú nhìn rồi quay lại, giọng run run:
- Không phải củi. Hình như thây
người.
Ông lấy bó đuốc trong tay bác
Lành. Hai người cùng đi tới. Bác gái vội vã níu tay
chồng lại:
- Ông đừng đi, đứng đây với
tôi. Tôi sợ lắm.
Bác đành dừng lại nhìn theo ông
Cảnh bước tới trước. Bỗng bác giật mình nghe tiếng
thét to:
- Trời đất ơi!
Từ xa, bác thấy cây đuốc sút
khỏi tay người cầm và rơi xuống đất. Ông Cảnh cúi
xuống lượm đuốc lên quơ vội hai bên vệ đường rồi
tất tả chạy lui. Giọng ông đứt khoảng trong hơi thở:
- Chính họ đó, anh em mình. Họ
chết cả rồi. Ba người. Mà hình như bốn người. Trời
đất hỡi, làm gì bây giờ đây?
Bác Lành nhẹ gỡ tay bác gái
đang nắm chặt cánh tay mình. Bác nhìn thấy vợ mình nhắm
nghiền mắt còn miệng thì lẩm nhẩm:
- A di đà Phật. Nam mô A di đà
Phật. Cứu khổ, cứu nạn.
Ông Lành nói như ra lệnh:
- Yên nào. Để tôi tính. Anh Cảnh
trở lại đằng đó với tôi một lần nữa để nhìn cho
kỹ.
Ông Cảnh lắc đầu:
- Không cần nhìn nữa. Tôi thấy
rõ lắm rồi. Tất cả có bốn xác người. Không có xác
nào mặc đồ lính, toàn là người của cách mạng. Anh em
mình cả đó. Tội nghiệp quá anh ơi.
- Thôi được rồi, mình trở về
nhà ngồi đợi sáng. Bỏ công ngày hôm nay.
Mọi người nhanh chóng bình tĩnh
trở lại vì đây không phải là lần đầu tiên có xác
chết trong làng.
Những cuộc đụng độ giữa du
kích và lính trong đồn vẫn thường xảy ra. Sau mỗi trận
đánh, người bị thương luôn luôn được đồng đội
đem đi ngay còn xác chết thường bị để lại. Đến
sáng sớm, xác lính được xe mang về đồn giữa hai hàng
lính bồng súng chào, còn xác du kích thì nằm yên tại
chỗ cho đến lúc ánh nắng lên soi rõ đàn ruồi nhặng
mãi mê bu đen trên vũng máu. Những người hảo tâm trong
làng sẽ họp lại, cùng nhau lo chôn cất trong khu nghĩa
địa của làng.
Bác Lành luôn luôn là một trong
những người hảo tâm đó. Thế là đám ruộng dưới
đồng An thơ của bác phải gặt trễ mất một ngày. Chim
chóc sẽ đến ăn mất một phần những hạt lúa vàng quý
giá của bác vì thằng bé được thuê giữ chim đã được
bác cho nghỉ theo kế hoạch đã định của bác. Suốt
ngày hôm đó bác bỏ cả ăn uống để cùng với các bô
lão lo việc chôn cất những người du kích đã bị lính
phục kích giết chết vào giữa khuya đêm rồi.
Các xác chết được quấn trong
những manh chiếu cũ và được đặt vào những cái huyệt
đào vội vàng trong nền đất đầy sỏi đá. Bác Lành
đốt một que nhang, lâm râm khấn vái:
- Mấy em đã hi sinh cho Tổ quốc.
Sống khôn, thác thiêng, linh hồn các em hãy phù hộ cho
cách mạng chóng thành công, đem hòa bình về cho đất
nước.
Đến xế chiều, mọi việc đều
xong xuôi. Đáng lẽ thở ra nhẹ nhõm vì đã hoàn tất
công việc nặng nề thì bác cũng như mọi người đều
thấy lòng nặng trĩu. Sáng nay, khi quấn chiếu cho mấy
xác chết, bác nhận ra ngay một người làng của bác. Nó
là thằng Kha, chồng con Hằng, cháu gái của bác. Chân bác
sụm xuống khi nhìn thấy đôi mắt người chết còn mở
trừng trừng, một tay buông xuôi, một tay gác lên chiếc
ngực đẫm máu. Bác đưa tay vuốt mắt nhưng mắt vẫn
không nhắm lại được vì chúng đã trở nên bất động
nhiều giờ trước đây. Bác ngồi chết lặng cho đến
khi ai đó đá vào chân bác với giọng nói thì thầm:
- Dậy làm đi, đừng để chúng
nó biết có người làng mình. Nếu không mình sẽ bị gọi
lên, gọi xuống để điều tra thêm khổ tấm thân.
Bác sực tỉnh nhìn quanh, nuốt
vội nỗi đau đớn để tiếp tục làm cho xong công việc.
Bác dặn mọi người tham gia công việc nầy giữ kín
không để cho Hằng, cháu bác hay tin. Bản chất Hằng yếu
đuối lại phải lam lũ làm việc nuôi con nên thường hay
bệnh hoạn. Hiện giờ phải giữ kín rồi thủng thẳng
lựa dịp thuận tiện mới nói cho nó hay. Tốt nhất là
đợi lúc đất nước thanh bình, mọi người đều vui vẻ
thì nó có thể vượt qua được nỗi đau đớn mất
chồng.
Thế nhưng, không biết do đâu,
ba ngày sau, Hằng biết được chồng mình đã hi sinh. Lập
tức chị ngã ra bất tỉnh. Mọi người phải vất vả
lắm mới làm cho chị hồi sinh. Tỉnh rồi chị lại muốn
chết đi để gặp lại chồng bên kia thế giới nhưng
cuối cùng chị cũng nghe lời khuyên nhủ của bà con xóm
làng cố gắng vượt qua nỗi đau để tiếp tục làm lụng
nuôi con.
Mấy hôm sau, người trong làng,
nhất là vợ chồng bác Lành cảm thấy hơi yên tâm khi
trông thấy Hằng lại ra vườn cuốc đất và ngày ngày
ra chợ bán buôn. Từ ngày đó, chị không hề nhắc đến
nỗi bất hạnh của mình nữa. Tuy nhiên khi nhìn đôi mắt
chị, ai cũng nhận ra được cả một nỗi đau đớn vô
cùng to lớn không lúc nào nguôi.
Hai đứa con của chị cũng thay
đổi hẳn tính tình. Thằng Vinh, thằng anh lớn lầm lì,
suốt ngày im lặng không rời cái cào cái cuốc trong vườn,
dù nó chỉ mới được mười bốn tuổi đầu. Thằng Tân
thôi không còn chạy chơi rong với đám trẻ nít trong làng
mà thường lẽo đẽo theo mẹ. Mẹ làm vườn thì nó ngồi
nhổ cỏ, mẹ vào bếp thì nó ngồi kế bên đun củi, mẹ
gánh hàng ra chợ thì nó theo sau như một con chó con.
Chị Hằng vẫn chưa vượt qua
được nỗi đau, nhưng vì con, chị cố đứng dậy bằng
một cố gắng cực kỳ to lớn của cái cơ thể mỗi ngày
một yếu đuối hơn. Tuy nhiên, sự cố gắng nào cũng có
giới hạn. Vượt quá giới hạn đó thì mọi sự đều
phải rã rời.
Một buổi sáng, như thường lệ
chị dậy thực sớm ra vườn cắt rau, đào khoai cho vào
đầy hai cái thúng. Sau khi bắc nồi khoai trên bếp xuống,
chị đặt đòn gánh lên vai để đi ra chợ. Vừa bước
ra sân, chị bỗng thấy trời đất tối đen. Đôi chân
như rời bỏ chị trong khi chiếc đòn gánh trên vai nặng
như cả một tảng đá khổng lồ. Tảng đá đó đè chị
lún sâu, lún sâu mãi trong một chiếc hố đen ngòm. Chị
chới với trong một không gian mềm nhũn rồi mọi sự
chung quanh trở nên lung linh như mây như khói, chúng vờn
qua vờn lại, vút lên rồi hạ thấp xuống liên tục.
Chị nghe văng vẳng có tiếng gào
thét của trẻ thơ thực quen thuộc, thực thân yêu. Chị
nhận ra đó là tiếng khóc của hai đứa con trai của chị.
Chị cố gắng thoát ra khỏi cái vùng bồng bềnh và nhầy
nhớt để về với con chị nhưng chị cảm thấy bất
lực. Chị cố vùng vẫy nhưng vô ích, chị buông thả để
cơ thể vật vờ giữa những vật lung linh chập chờn.
Đòn gánh tuột khỏi vai chị,
hai cái thúng văng ra ngoài đôi gióng. Mấy củ khoai lăn
long lóc, có củ văng đến tận cuối sân, có củ nằm
gọn bên mấy bó rau và mấy cành hoa huệ sáng nay vừa
cắt trong vườn.
Chị được hai con khiêng vào
nhà, nằm thiêm thiếp trong hai hôm thì qua đời.
Mọi người hay tin vội vã chạy
đến. Không bao lâu, ngôi nhà nhỏ bé chật đầy người,
tiếng khóc, tiếng than thở, tiếng bàn tán xôn xao. Chính
bác Lành đứng ra lo việc chôn cất cho cháu mình. Người
ta xé chiếc áo trắng duy nhất còn mới của chị Hằng
để làm hai vành khăn tang quấn trên đầu hai đứa bé.
Nhìn hai đứa con trai xì xụp lạy trươc linh cữu mẹ,
mọi người đứng chung quanh đều bật khóc.
Quá trưa, khi mọi người đã
lần lượt ra về, bác Lành nói với thằng anh:
- Mẹ con đi sau cha con đúng một
tháng mười lăm ngày.
Ông móc trong túi ra một tờ giấy
nho nhỏ, nhét vào tay Vinh và nói:
- Con giữ kỹ giấy nầy. Hôm cha
con mất, ông về ghi ngay ngày tháng, định bụng khi nào
mẹ con nguôi ngoai thì ông sẽ đưa để mẹ con nhớ mà
cúng hàng năm cho cha con. Nhưng mẹ con không sống để làm
giỗ đầu tiên cho chồng. Bây giờ ông giao lại cho con.
Nhớ ngày ghi trong giấy là giỗ cha, một tháng rưởi sau
là giỗ mẹ. Đi tới đâu, làm việc gì cũng đừng quên
hai ngày đó nghe con.
Thằng Vinh nhận tờ giấy, nắm
chặt trong tay, cố ngăn nước mắt. Nó ngăn được còn
bác Lành thì không. Bác đặt tay lên vai nó, thút thít:
- Mẹ con qua đời dù sao cũng đỡ
cay cực hơn cha con. Cha con chỉ được bó chiếu đem chôn.
Xác Việt minh không được để lâu, phải chôn nội trong
ngày nên không kịp đóng hòm cho nó. Mẹ con chết vì bệnh
được để lâu hơn một chút nên có hòm tử tế.
Nó muốn nói một lời cám ơn
với ông bác nhân từ nhưng không nói được. Nó quay qua
nhìn chiếc hòm thô sơ ngăn cách nó với người thân yêu
nhất đời. Nó biết rằng ông Lành đã tháo bộ ván đang
dùng trong nhà để đóng chiếc hòm nầy. Bộ ván thực
xưa, lên nước đen thui, đã thấm mồ hôi của nhiều thế
hệ.
Trong căn nhà nghèo nàn của ông,
có hai món quý giá, của gia bảo đời trước để lại
cho ông. Đó là bộ ván gỗ và bộ lư đồng cùng hai chân
đèn bằng gỗ quý tiện rất công phu. Trong đợt tản cư
lần thứ nhất, để tránh bom đạn của đồng minh đánh
phá quân Nhật, ông đem cả hai món gia bảo dìm xuống
sông đề phòng cháy nhà do bom từ phi cơ rót xuống. Nhưng
qua đợt đánh phá đó, không nhà nào của dân bị cháy;
máy bay chỉ đánh sập cầu, nhà ga và trường học mà
thôi. Ông lặn xuống sông, mò vớt hai món gia bảo lên và
khó nhọc mang về nhà. Nhiều người thấy vậy đã cười
chế nhạo ông. Đến đợt tản cư lần thứ hai, lúc
người Pháp trở lại Huế và từ đó đánh tràn ra, ông
lại mang hai vật gia bảo quăng xuống sông. Lần đó, nhà
ông bị cháy cùng rất nhiều nhà khác. Tuy nhiên ông rất
hài lòng vì còn giữ lại được hai món gia bảo. Từ đó,
ông càng quý chúng hơn.
Bây giờ trong hai món, chỉ còn
lại bộ lư đồng. Ông tặng món kia cho cháu gái ông làm
vật che thân để về thế giới khác. Ông không tiếc,
trái lại còn hài lòng về điều đó. Nhìn thấy thằng
Vinh đang đứng gần bên, ông kéo nó lại gần sửa vành
khăn trắng trên đầu nó cho ngay ngắn rồi bước ra thềm
móc túi lấy gói thuốc rê, chậm rãi quấn một điếu
to, châm lửa và đưa lên môi.
Thằng Vinh vẫn đứng yên nhìn
quan tài mẹ. Một lúc sau, nó sực nhận thấy không có em
nó ở đây. Không biết thằng bé đi đâu rồi. Vinh định
lên tiếng gọi, nhưng vẫn đứng im lặng, thẫn thờ nhớ
lại cuộc sống trong những ngày qua của hai anh em.
Hai năm trước đây, sau khi cách
mạng Mùa Thu thành công, nó được đưa vào đội thiếu
nhi của xã. Nó rất hăng hái tham gia vào các hoạt động
của đội. Lúc đó, bạn bè tỏ vẻ nể phục lắm vì
cha nó là một ủy viên của ủy ban kháng chiến hành
chánh. Khi cầu Mỹ chánh, bị bom Đồng minh đã đánh sập
năm ngoái, được sửa chữa lại, đường sắt được
thông thương từ Huế ra Bắc thì cha nó không trở lại
với nhiệm vụ tầm thường trước kia mà trở thành một
nhân vật quan trọng của cách mạng. Nó rất hãnh diện
về cha. Có lẽ nhờ uy tín của cha, nó thường được
anh phụ trách đội đề cao trong các buổi sinh hoạt của
đội thiếu nhi.
Vào một ngày đầu tháng chín
năm 1945, nó được đề cử tham gia vào đoàn biểu tình
đi dự cuộc mít tinh tại thị xã Quảng trị để chào
mừng tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Từ sáng sớm, đoàn người đã khởi
hành. Chính nó được phân công cầm dùi đánh vào cái
trống trường mang theo để dẫn đầu đoàn biểu tình.
Qua khỏi cầu Mỹ chánh một đoạn, cái trống được đưa
lên xe của lãnh đạo và nó cũng được leo lên ngồi gần
bên trống trong khi mọi người vẫn phải tiếp tục đi
bộ trên con đường dài hai mươi cây số.
Đến chiều, buổi mít tinh bắt
đầu. Trong sân vận động của thị xã, lô nhố những
người là người, thế mà không gian hoàn toàn vắng lặng
khi loa phóng thanh phát ra lời nói của vị “cha già dân
tộc”. Cuối cùng, khi tiếng loa kết thúc bản tuyên ngôn
độc lập và hô to những khẩu hiệu thì lập tức tiếng
hoan hô, tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy. Nó thẳng
tay đập liên hồi vào mặt trống.
Ôi chao, giây phút đó vui nhộn
và hào hùng biết bao! Có lẽ suốt đời nó không quên
được.
Khi hoàng hôn xuống, cuộc mít
tinh chấm dứt. Người ta lần lượt ra về theo nhiều ngã
khác nhau, đoàn về hướng Bắc, đoàn vô phía Nam, đoàn
xuôi hướng Đông về các xã miền biển, đoàn nhắm
hướng Tây đến các xã miền núi. Hầu hết đều đi bộ
như lúc đến đây. Tuy nhiên, thằng Vinh vẫn được ngồi
trên xe của ban lãnh đạo để trở về làng. Lúc mọi
người đã rời sân vận động thì xe mới lăn bánh. Nó
cầm chặt cái dùi trống trong tay, nhìn ra phía trước,
thấy đoàn người dài dằng dặc lầm lũi đi dưới ánh
đuốc lập loè. Chiếc xe chạy chầm chậm giữa hai hàng
người.
Bỗng nó giật thót người. Phía
trước mặt có duy nhất một đứa bé lại giống hệt
thằng Tân, em nó, đang thất thểu lê bước giữa hàng
người. Nó vội nhoài người ra ngoài và khi đi ngang qua,
vội gọi lớn:
- Tân, Tân!
Thằng bé quay lại. Dưới ánh
đuốc lập lòe, nhận ra đúng là đứa em, nó càng hét
to: “Tân, Tân” và phóng ra sau định nhảy xuống đường.
Những người trên xe vội giữ nó lại, vừa dậm chân
thình thịch vào sàn xe vừa la lên:
- Dừng lại, dừng lại.
Tài xế đạp thắng, xe dừng lại
sau một tiếng két.
Vinh nhảy xuống, chạy lại.
Thằng Tân mệt lã, ngã vào vòng tay của anh. Nhìn thấy
khuôn mặt nhợt nhạt của em, Vinh rối rít:
- Em đi đâu đây?
- Em đi biểu tình.
- Em đi với ai?
Thằng bé không trả lời, đưa
tay chỉ đoàn người đi qua. Vinh vẫn rối rít:
- Ai cho em đi? Người ta cấm con
nít đi theo mà.
- Em trốn đi. Em biết có anh ra
ngoài nầy nên em trốn đi. Người đông quá, em tìm anh
không ra.
- Mẹ có biết em đi không?
- Không, em trốn mẹ.
- Trời hỡi, bữa trưa và bữa
chiều nay em ăn ở đâu?
- Em không ăn, em đói lắm.
Thằng bé nói xong gục đầu vào
vai anh. Có ai đó vỗ nhẹ vào lưng, Vinh ngẩng lên thì
thấy chú trưởng đoàn lôi nó dậy. Chú bảo:
- Hai anh em lên xe nhanh đi.
Nó dìu em bước tới. Nhiều cánh
tay đưa xuống kéo cả hai đứa lên.
Đến gần chín giờ đêm xe mới
về đến làng. Từ xa, dưới ánh trăng nghiêng nghiêng, nó
thấy mẹ đang đứng trước ủy ban, ngóng cổ nhìn về
phía ánh đèn xe. Thằng Tân vẫn còn ngủ say trong lòng
anh. Xe từ từ lăn bánh vào sân trụ sở và ngừng lại.
Nó lay em dậy, bước xuống và gọi to:
- Mẹ, mẹ, hai đứa con đây nè.
Mẹ nó phóng tới, ôm chầm lấy
thằng Tân, khóc nức nở.
Ba mẹ con cùng nhau trở về ngôi
nhà nghèo nàn mà ấm cúng.
*
* *
Bây giờ, ngôi nhà không còn ấm
cúng nữa. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của cha
chúng nó và kéo mẹ đi theo cùng. Hai anh em bỗng chốc trở
thành hai đứa trẻ mồ côi. Thằng Vinh đau đớn vô ngần.
Trong nỗi đau đứt ruột, nó thấy lòng mình sôi lên một
mối căm hờn.
Lòng căm hờn đã được các anh
thanh niên dạy nó từ lâu, trong các buổi sinh hoạt đội
thiếu nhi trước kia. Nó được giải thích rằng sở dĩ
cách mạng thành công là do lòng căm thù cao độ của nhân
dân. Nó hiểu được điều đó và nghĩ rằng lòng căm
thù là một cái gì đó đầy vinh quang và xán lạn vì đó
là nguyên nhân làm cho cuộc cách mạng thành công.
Buổi tối, sau khi sinh hoạt đội
xong, các anh thanh niên thường tổ chức cho toán thiếu
nhi chơi trò đánh du kích. Một vài đứa bị chỉ định
làm quân địch đóng đồn trong lớp học. Những đứa
khác, làm dân quân du kích, được các anh chỉ cho cách
thức vào công đồn. Các anh dạy rằng khi xung phong vào
chiếm đồn phải có lòng căm thù thực sâu sắc thì trò
chơi mới có ý nghĩa. Nó và các bạn vâng dạ và hứa sẽ
chơi với lòng căm thù sâu sắc. Sau khi hứa xong, nó cùng
các bạn la hét và xông vào lớp học. Với lòng căm thù
sâu sắc, nó nhào tới ôm thằng bạn giả địch, vật
xuống và ôm chặt, không cho nhúc nhích. Cho đến khi bạn
nó cù vào hông, nó đành buông bạn ra, hai đứa đứng
dậy cười sằng sặc và quên béng đi lòng căm thù sâu
sắc vừa qua.
Bây giờ, nó căm thù thực sự
chứ không phải căm thù để vui chơi như trước kia. Lòng
căm thù dâng lên mạnh mẽ trong lòng từ khi nó biết cha
đã gục ngã vì những viên đạn của quân thù, và hiện
tại, đứng trước linh cữu của mẹ, nó bỗng quyết tâm
phải trả cho được mối thù nầy. Nó cảm thấy, trong
cuộc đời nó từ nay về sau, không còn gì có ý nghĩa
nữa ngoài mối thù đối với những người đã giết
chết cha mẹ mình.
Ngay buổi chiều hôm đó, chị
Hằng được đưa ra nghĩa địa đầu làng. Người ta vòng
hai sợi dây phía trước và phía sau quan tài và dùng hai
cái đòn để khiêng đi. Trong làng không còn người trẻ
nữa nên người già phải thay nhau. Phía sau có vài người
đàn bà cùng hai đứa trẻ đi theo. Viên trưởng đồn
không muốn có sự tụ tập đông đúc nên chỉ cho từng
ấy người đi đưa tiễn kẻ quá cố mà thôi.
Đám ma lặng lẽ đi trên con
đường làng buồn bã. Thỉnh thoảng có tiếng khóc thút
thít của người đi đưa, hòa lẫn với tiếng thở phì
phò của người khiêng linh cữu, cùng tiếng gió thổi vi
vu vào tàn cây và tiếng xào xạc của những bước chân
dẫm trên lá vàng khô.
Đoàn người dừng lại trên khu
đất dùng làm nghĩa địa của dân làng. Đó là một vùng
đồi hoang, lô nhô những ngôi mộ không theo hàng lối nào
cả. Người lính trong đồn vác súng theo họ để canh
chừng, dừng lại ngoài đường nhìn theo đoàn người
buồn bã đi sâu vào bên trong, nơi có những bụi cây
hoang lúp xúp.
Ông Lành bảo hai đứa trẻ quỳ
xuống trước một cái huyệt mới đào. Người ta lặng
lẽ hạ quan tài xuống và lấp đất lại. Thằng Tân quay
sang cầm lấy tay anh, nức nở:
- Anh Vinh, mẹ không bao giờ về
với mình nữa phải không anh?
Nghe thằng bé hỏi, mọi người
bật khóc. Thằng Vinh cũng không tự kềm chế được nữa,
ôm chặt lấy em khóc ngất.
Ông Lành nắm tay hai anh em lôi
đứng dậy:
- Thôi hai con ra đi, lạy từ biệt
mẹ rồi về vì trời sắp tối.
Hai đứa ngạc nhiên thấy ông
lôi chúng nó thụt lùi xa mộ và bảo quỳ xuống. Ông
ngồi thụp bên hai đứa, nói nho nhỏ:
- Mộ cha con bên mộ mẹ đó. Ông
đã chỉ chỗ đào huyệt mẹ con để cho hai vợ chồng
được ở gần nhau dưới đất. Hai đứa con quỳ đây
lạy chung cho cả cha lẫn mẹ. Làm như vậy để cho ông
lính ngoài kia và người khác khỏi nghi ngờ.
Thằng Vinh ngước mắt nhìn. Bây
giờ, nó mới để ý bốn ngôi mộ còn trơ mô đất,
loáng thoáng vài chùm cỏ mới mọc lên. Có lẽ do tình cờ
chứ không phải do sự sắp đặt của ông Lành, cha nó
được chôn ngoài cùng trong số bốn người du kích đã
bị bắn chết cách nay gần hai tháng. Bây giờ mộ mẹ nó
nằm sát kế bên, thế là cha mẹ nó được gần nhau mãi
mãi, như lời ông Lành nói với chúng nó.
Hai anh em cúi sát đất lạy hai
ngôi mộ rồi đứng dậy ra về cùng mọi người. Đoàn
người vội vàng rảo bước về nhà vì màn đêm sắp
buông xuống trùm lấy ngôi làng bé nhỏ.
Ngôi nhà tranh của hai đứa bé
trở nên vô cùng thê lương. Thằng anh đi thẳng xuống
bếp, thằng em lẽo đẽo theo sau. Bên ngoài sáng lờ mờ
nhưng trong nhà tối om. Từ lâu, hai đứa đã quen với
bóng tối, vì trong làng, không nhà nào dám thắp đèn ban
đêm. Ánh đèn trong nhà có thể lôi kéo sự hiểm nguy đến
không biết lúc nào.
Vinh mò mẫm lấy nồi cơm mà khi
trưa bà Lành nấu sẵn cho hai đứa, mò lấy chén đũa, hũ
cà muối đem ra hiên nhà. Hai anh em lặng lẽ ngồi ăn.
Trời không có mây, mặt trăng thượng tuần hình lưỡi
liềm đã ngã hẳn về hướng Tây, lấp ló trên ngọn cây
trước vườn. Gió nhẹ làm lá cây rung rinh in những bóng
đen mờ nhạt xê qua xích lại trên nền đất màu trắng
nhờ nhờ. Một con đom đóm bay qua, phát ánh sáng màu xanh
chớp tắt đều đặn, lượn một vòng quanh sân rồi chui
vào vòm lá tối đen. Trên không có tiếng vạc ăn đêm
kêu lên buồn thảm, bóng mấy cánh chim hiện lờ mờ trên
nền trời bàng bạc. Xa xa, một tiếng súng vang lên thực
cô đơn, tiếng vọng của nó như một cái đuôi dài lê
thê gồm vô số những oan hồn tử sĩ của bao người đã
ngã xuống trong cuộc chiến tranh rùng rợn nầy.
Thằng em đang ăn, bỗng buông đũa
khóc thút thít. Thằng anh quay sang cầm lấy tay em. Nó nghe
giọng em qua tiếng khóc:
- Anh Vinh, mẹ đi luôn không về
nữa phải không?
Suốt ngày thằng bé chỉ có một
câu hỏi đó để nói với anh. Nó không thể hình dung
được một cuộc sống trên đời nầy mà không có mẹ.
Rồi ai nấu cơm cho nó ăn, ai cởi áo quần nó ra để tắm
rửa mỗi buổi chiều, ai xoa đầu nó một cách âu yếm
khi nó đến gần? Mẹ không còn trở về đây với nó nữa
hay sao? Đôi mắt ấy, hơi thở ấy, giọng nói ấy, bàn
tay ấy bây giờ đâu rồi, nó vĩnh viễn không còn nghe,
còn thấy nữa sao? Nó úp mặt vào hai tay, khóc nấc lên.
Thằng Vinh cố nuốt nước mắt,
vỗ nhẹ vào đầu em nó, khẽ bảo:
- Thôi nín đi, ăn cơm cho xong rồi
đi ngủ.
Vinh căng mắt nhìn vào nồi, tìm
vét những hạt cơm cuối cùng vào chén của em nó.
Xong bữa ăn, Vinh đùa chén đũa
và nồi cơm sang một bên, mò mẫm lấy nước uống rồi
dắt em vào giường. Hai anh em buông mình trên chiếc giường
tre ọp ẹp nơi mẹ đã ngủ trong bao ngày qua. Nó nghe
tiếng khóc thút thít của thằng Tân nên biết rằng em nó
cũng như nó, đang nhớ tới mẹ hằng đêm an giấc trên
chiếc giường nầy. Tiếng khóc nhỏ dần rồi nín bặt.
Nó biết đứa em đang đi vào giấc ngủ của trẻ thơ.
Nó ngẩng đầu cố nhìn. Trong
bóng đêm lờ mờ, nó thấy em nằm nghiêng, hai chân co
lên, mặt úp vào vai nó, tay trái duỗi thẳng, tay mặt ôm
chặt cánh tay của nó. Nó đưa bàn tay đặt lên mái tóc
rối bù của em, trong lòng chợt cồn cào một tình cảm
mới lạ, vô cùng mãnh liệt làm cho hơi thở nó dồn dập.
Lúc mẹ còn sống, nó chưa hề
có tình cảm nầy. Tấm thân mẹ bé nhỏ nhưng tình thương
mẹ bao la nên nó cứ mặc nhiên dựa vào tình thương đó
mà sống. Nó không bao giờ tự hỏi chỗ dựa ấy có bền
vững hay không nên cứ sống một cách thản nhiên, ngày
thì vui đùa hay làm những việc vừa sức để giúp đỡ
mẹ, đêm thì ngủ yên với những giấc mộng lành. Mái
nhà của nó tuy nghèo nàn nhưng trong đó chứa cả một
không gian ấm cúng và bình an; nó sống thực thanh thản,
cuộc chiến tranh kinh tởm không làm mất sự yên ổn
trong tâm hồn vì nó có một chỗ dựa mà nó cho rằng rất
vững chắc. Chỗ dựa đó chính là tấm lòng thương yêu
vô bờ bến của mẹ.
Bây giờ, mẹ mất rồi, không
còn hình bóng mẹ ra vào gian nhà nầy nữa, nó cảm thấy
một sự sụp đổ ghê gớm vừa xảy ra. Vinh khẽ nghiêng
đầu nhìn vào cuối gian nhà, nơi mới sáng nay mẹ còn
nằm trong mấy tấm ván. Nó mở to mắt đăm đăm nhìn vào
bóng tối, mặc cho hai dòng nước mắt tuôn ra, chảy dài
xuống gối.
Bóng dáng mẹ trong những ngày
qua hiện về rõ rệt trong đầu; nó sực nhớ ra rằng gần
hai tháng cuối cùng của cuộc đời, kể từ khi hay tin
cha nó bị tử thương, mẹ suy giảm sức khỏe từng ngày.
Mẹ trở nên ốm yếu và xanh xao, về đêm thường ho
nhiều tiếng. Tuy nhiên, mẹ vẫn không ngừng làm việc và
chiếc đòn gánh không giảm chút nào trọng lượng trên
đôi vai gầy gò. Đôi khi nó cũng có lo ngại, nhưng đó
là nỗi lo có tính bâng quơ không kèm theo một ý thức
trách nhiệm nào trong đầu óc thơ ngây. Nó thấy đau nhói
trong lòng vì ý nghĩ đã không giúp ích gì cho mẹ để mẹ
phải chết đi vì quá lao lực. Nó buộc miệng nói thầm:
- Phải chi cha còn sống!
Nếu cha còn sống và ở nhà cùng
gia đình thì chắc chắn mẹ không qua đời quá sớm. Nó
nhớ lại những năm trước cách mạng Mùa Thu. Đó là
những năm hạnh phúc nhất trong quảng đời thơ ấu của
nó. Hai anh em cùng đi học trường làng, ngày hai buổi.
Mỗi chiều tan trường, chúng nó cắp sách về nhà. Bữa
cơm chiều chỉ có ba mẹ con. Đến hơn tám giờ, nghe
tiếng còi tàu rồi tiếng rầm rầm của đoàn xe lửa
chạy ngang qua cầu Mỹ chánh là nó biết cha sắp về. Đó
là chuyến tàu xuyên Việt cuối cùng trong ngày, cha sẽ
khóa ghi và về nhà với vợ con. Nửa giờ sau, cha xuất
hiện trên bục cửa với khuôn mặt vui tươi cùng nụ
cười rạng rỡ.
Đó là những ngày thần tiên
trong thời thơ ấu của anh em nó.
Rồi cách mạng Mùa Thu bùng nổ,
nó hân hoan và nô nức tham gia công tác như nhiều người
khác trong làng. Cha nhanh chóng trở thành một cán bộ quan
trọng. Trong những buổi lễ tổ chức tại địa phương,
nó thấy cha ngồi vào một trong những chiếc ghế dành
cho đoàn chủ tọa. Nó hãnh diện về cha nó vô cùng.
Khi ông bị bắn chết, nó cảm
thấy người ta đã đập vỡ một cái gì đó rất thiêng
liêng đối với nó. Nghĩ đến đó, một lần nữa, mối
căm hờn lại dâng lên cuồn cuộn trong lòng.
Nó tự nhủ phải trả thù, nhất
quyết phải trả thù.
Nó tự hỏi trả thù cách nào
với sức vóc của đứa trẻ như nó?
Sau khi suy nghĩ, nó cũng tìm ra
được giải pháp. Đó là theo cách mạng, theo con đường
mà cha nó đã đi. Mối thù của nó phải đặt vào trong
mối thù chung của dân tộc. Trả thù được cho dân tộc
đồng nghĩa với trà thù riêng cho cha nó. Các anh thanh
niên đã từng dạy như thế trong các buổi sinh hoạt
thiếu nhi mà bây giờ nó mới nhận ra được ý nghĩa.
Nhưng làm sao theo được cách
mạng? Nó biết cách mạng đang ở gần đâu đây. Bên kia
sông? Nơi bìa làng? Có khi đang ở sát bên hè nhà cũng
nên. Nhưng làm sao biết đích xác họ ở chỗ nào để
đến với họ, làm sao cho họ biết rằng nó đang mang mối
căm hờn và quyết tâm theo cách mạng để trả thù?
Nó chợt vùng dậy, đập hai tay
vào nhau:
- Đúng rồi!
Nó vừa nhớ tới anh Nậm, con
ông Cửu Điền. Có một lần, nó tình cờ biết được
anh Nậm là liên lạc viên bí mật, vẫn ở nhà cha mẹ,
ngay trong làng. Nó đã nhiều lần đi chơi với anh Nậm.
Lúc quân Pháp chưa tràn ra đây, nó còn học chung với anh
Nậm ở trường làng nữa. Nậm lớn hơn nó hai tuổi
nhưng nhỏ con, chỉ cao bằng nó mà thôi. Nậm hiền lành,
học dốt nhưng ăn nói khôn ngoan. Lúc còn học chung, nó
thường cho Nậm cóp bài làm, vì vậy nó biết chắc rằng
Nậm có nhiều cảm tình với nó.
Nhà anh Nậm ở cuối làng gần
với bến sông. Có vài lần xuống tắm, nó tạt vào nhà
anh Nậm và được mẹ anh ấy đón tiếp vui vẻ. Bà
thường dẫn nó ra vườn và hái cho nó một số trái cây
mang về nhà.
Vậy thì nó có thể tìm được
anh Nậm một cách dễ dàng để nói thực ý muốn của
mình. Anh Nậm là người của cách mạng, chắc chắn sẽ
hoan nghênh và đưa nó vào chiến khu.
Nó định bụng ngay sáng mai sẽ
đến gặp anh Nậm. Nhưng rủi anh ấy đang ở chiến khu
mà không có mặt ở nhà thì sao? Nhà ông Cửu Điền có
đám ruộng ở đồng An thơ, rủi anh ta theo cha xuống
ruộng ở lâu ngày thì sao? Nó lo lắng phải chờ đợi
phải chờ đợi anh Nậm trở về
Không, nó không muốn chờ đợi.
Nó muốn đi ngay vào chiến khu nội nhật ngày mai. Nó muốn
trả thù cho cha mẹ càng sớm càng tốt, không thể chờ
đợi được nhiều ngày khi ngọn lửa căm hờn đang bùng
cháy trong lòng.
Không thể chờ đợi được; nó
phải gặp anh Nậm ngay ngày mai. Nếu không gặp được
anh Nậm thì nó sẽ chạy đại vào chiến khu để nói cho
cách mạng biết nỗi lòng của nó. Nó sẽ nói tên cha nó
ra, chắc chắn người ta sẽ tiếp đón nó một cách ân
cần và cho nó vào hàng ngũ của cách mạng.
Nó tự hỏi chiến khu ở đâu để
chạy đại vào? Nó nghĩ rằng chiến khu có thể ở các
làng ven biển, cứ nhắm hướng Đông mà đi thì thế nào
cũng tới. Chiến khu cũng có thể ở những làng ven núi,
thế thì phải tiến về hướng Tây, hướng mặt trời
lặn.
Sau một phút suy nghĩ, nó chọn
chiến khu miền núi thay vì miền biển. Trước đây, nó
từng theo cha lên đường sắt, đứng trên đầu cầu say
sưa nhìn về hướng Trường sơn. Những ngọn núi xanh lơ
lũ lượt từ phía bắc chạy vào và tiếp tục thẳng
hướng về nam. Nó rất ưa thích dải núi dài dằng dặc,
trong đó, nó tưởng tượng biết bao điều thú vị. Những
cây cao cành lá tỏa bóng mát mọt vùng, những bãi cỏ
xinh tươi đầy bướm lượn, những đàn nai hươu nhởn
nhơ, những bầy chim ríu rít, những ngọn suối trong veo
gom nước đổ vào dòng Ô lâu. Nước dưới chân cầu mà
nó thường đứng trên nhìn xuống, chính là nước trên
ngàn, trên vùng đất xinh tươi đó đổ xuống. Nó sẽ
đến tận cội nguồn của dòng Ô lâu của nó, nơi mà
mùa mưa thì nước tràn về cuồn cuộn còn mùa nắng nước
lững lờ trôi giữa hai bờ có lũy tre xanh nghiêng mình
soi bóng.
Trong trí tưởng tượng của nó,
dòng sông thâu yêu hiện ra với nét vừa rực rỡ, vừa
êm đềm.
Nó sẽ lên đến đỉnh Trường
sơn, nơi xuất phát những ngọn suối đầu tiên. Nó sẽ
bứt những lá cây rừng đề vào hai chữ “Cha, Mẹ”
rồi thả trong dòng suối. Nước sẽ trịnh trọng mang
những lá nầy xuôi theo dòng Ô lâu về làng nó, ngang qua
nơi an nghỉ cuối cùng của hai bậc sinh thành đã bị kẻ
thù giết chết.
Ngọn lửa căm hờn cùng lúc với
sự hình dung lãng mạn sục sôi trong lòng nó, thúc đẩy
nó phải nhanh chóng lên đường…
- Mẹ, mẹ, sao mẹ đi chợ lâu
vậy, con đói bụng rồi.
Vinh giật mình vì tiếng mớ của
em. Giòng tưởng tượng vụt tắt, nó cúi sát, nhìn vào
mặt em. Trăng bên ngoài đang tỏ, mắt nó cũng quen với
ánh sáng nhợt nhạt trong phòng nên nó nhìn thấy đôi mắt
em nhắm nghiền trong giấc ngủ an lành, miệng mỉm cười.
Nó đoán em nó đang đón mẹ về trong giấc mơ. Từ trong
đôi mắt của nó, hai giọt nước trào ra lăn tròn trên
má. Nó lấy tay áo lau nước mắt rồi ngồi nhìn ra các
ngọn cây đen thui in hình trên nền trời sáng bạc.
Nó tiếp tục mở mắt nhìn vào
bóng đêm và suy nghĩ miên man. Ngày mai, nó ra chiến khu
rồi thì em nó sẽ ra sao? Cho đến bây giờ em nó chỉ là
một đứa bé ngoan hiền, chỉ biết núp vào cái bóng che
chở của mẹ. Mẹ mất rồi thì chính nó phải thay vào
cái bóng đó để ấp ủ em đứa em. Nó ra đi thì được
phần cho mình rồi, nhưng em nó sẽ ra sao? Thằng bé còn
quá nhỏ và quá yếu đuối để có thể theo ra chiến
khu. Em nó sẽ ở lại với ai trong cái ngôi làng buồn
thảm, dẫy đầy chết chóc nầy? Ở lại đây, nó cũng
chưa biết làm gì để nuôi sống hai đứa nhưng, ít ra,
khi có nó, em nó cũng có người để trò chuyện, có người
nấu cơm cho ăn và đêm ngủ có cánh tay để tựa đầu.
Nó thở dài, khẽ nắm bàn tay em
đưa lên hôn. Nó nằm xuống, ngập chìm trong nỗi buồn
mênh mông. Nó nhắm mắt lại, mơ đến mẹ và chìm dần
trong giấc ngủ muộn màng.
*
* *
Sau tiếng gà gáy đầu tiên, ông
Lành ngồi dậy. Ông đã thức giấc từ lâu nhưng vẫn
nằm im lặng. Không lâu sau, ông nghe tiếng bà ho trong
buồng nên lên tiếng:
- Bà cũng dậy rồi à?
- Ừ, thức dậy lâu rồi.
- Bà ra đây tôi bàn công chuyện
một chút.
Trời còn khuya lắm. Ông Lành
xuống giường mò mẫm đi tìm ấm nước chè, rót ra bát
ực một hơi. Nước chè tươi để nguội có mùi ngai ngái
khó uống. Ông muốn nhúm lửa hâm nóng nhưng không dám.
Những hôm đi gặt lúa, ông phải xin phép trước cả hai
phía mới dám đốt lò lửa trong đêm khuya.
Bà từ trong buồng bước ra. Hai
ông bà ngồi im lặng một lát trong bóng tối. Hồi lâu,
ông quay sang nắm tay bà:
- Bà nầy.
- Hử?
- Tội nghiệp con Hằng.
Bà gật đầu, đáp lời ông,
giọng rầu rầu:
- Cả đêm nhớ tới nó tôi khóc
hoài, ngủ nghê gì đâu.
- Tôi thì đầu hôm ngủ được
một lúc vì cả ngày hôm qua lo đám cho nó, khiêng hòm mỏi
nhừ mình mẩy. Nửa đêm giựt mình thức dậy, nhớ tới
hai đứa nhỏ, tôi nằm trằn trọc hoài không ngủ lại
được.
Ông dừng lại một chút rồi nói
tiếp:
- Không biết nhà nó còn gạo,
còn khoai gì không? Hôm qua đưa đám xong về tới nhà thì
tối thui đâu có dám nổi lửa lên mà nấu cơm. Chắc hai
đứa nhỏ nhịn đói cả đêm. Tội nghiệp!
- Không, trưa hôm qua tôi có nấu
sẵn nồi cơm cho hai anh em rồi.
Giọng ông hơi ngạc nhiên và
thán phục:
- Bà giỏi và chu đáo lắm, tôi
không bằng bà.
Trong đêm tối, bà mỉm cười
sung sướng vì lời khen của chồng. Giọng ông vẫn nhỏ
nhẹ và đều đều:
- Tội nghiệp hai đứa còn nhỏ
quá. Trong vòng chưa đầy hai tháng mất cả cha lẫn mẹ,
trở thành hai trẻ mồ côi. Nầy bà, bà thấy hũ gạo của
tụi nó còn không?
- Còn một ít, đủ ăn trong ba
ngày là cùng. Ông có tính lo cho tụi nó thế nào không?
- Có chứ. Làng nầy, bà con bỏ
đi gần hết, chỉ còn vợ chồng mình là thân thiết với
chúng nó thôi. Mình không lo cho hai đứa thì ai lo?
- Ông tính làm sao? Hay là đem hai
anh em tụi nó về đây ở với mình.
- Không được. Hôm qua, trước
khi đưa mẹ nó đi, tôi có biểu thằng Vinh sau khi đưa
đám xong thì hai anh em về nhà mình ở luôn. Nó không
chịu, nói muốn ở nhà cha mẹ. Cha mẹ không còn nhưng nó
không nỡ rời cái nơi hai người đã từng sống với anh
em nó. Nó bảo rằng chắc chắn thỉnh thoảng linh hồn
cha mẹ sẽ về với chúng nó.
Bà nghe nói thoáng rùng mình, ngắt
lời ông:
- Cái thằng còn nhỏ mà ăn nói
khôn ngoan và hiếu thảo thế đó. Con cái như vậy mà
trời bắt xa cha lìa mẹ. Tội nghiệp! Nhưng không lẽ để
tụi nó ở hoài như vậy sao? Lấy gì mà sống?
- Phải rồi. Không nên để chúng
nó ở hoài trong cái làng nầy. Mình gần đất xa trời
rồi, bám lại đây với ông bà, rủ ro có bề gì thì
không tiếc cái thân già cho lắm. Tụi nó còn nhỏ dại,
tương lai còn dài, bắt phải sống và chịu đựng cảnh
nầy sao cho đành.
- Vậy thì làm sao? Hay là đem
chúng về bên quê nội của chúng nó.
- Không được. Quê nội chúng nó
là làng Phước tích thì cũng bất ổn như làng nầy vậy
thôi. Ông bà nội chúng nó lại chết cả rồi. Chú bác,
cô dì, người thì chết, người ra chiến khu, người đi
vô Nam, chẳng còn ai thân thích nữa. Trước đây làng đó
giàu hơn bên mình, nhà ngói nhiều hơn nhà tranh; nhà nào
cũng rộn ràng, con cháu sum vầy. Bây giờ thì hoang tàn
lắm, còn tệ hơn bên làng mình nữa.
Bà chép miệng, ngắt lời ông:
- Giá mà đừng có cách mạng thì
đỡ khổ, ông hỉ?
Ông quay sang đập mạnh vào vai
bà:
- Nè, bà bỏ cái giọng đó đi
nghe chưa. Họ mà nghe được thì mười cái đầu của bà
cũng rụng xuống đất.
Bà chống chế:
- Tôi nói riêng với ông chứ có
ai ở đây đâu nào.
Bà trở lại vấn đề đang bàn
bạc:
- Ông tính chuyện cho hai anh em nó
đi khỏi làng hả?
- Ừ
- Đi đâu? Đi với ai?
- Con Hằng có người anh cô cậu
đang ở trong Nam, bà có biết không?
Bà gật đầu:
- Có, tôi có nghe nói nhưng không
rõ lắm.
- Người đó tên là Danh, từ nhỏ
vào trong Sài gòn đi học rồi ở luôn trong đó làm việc.
Bữa trước, tôi nghe chị Cửu Điền đi Huế về nói có
gặp ông Đốc Tân trong đó, Đốc Tân là bạn với thằng
Danh từ thuở nhỏ.
- Có phải ông Tân, trước cách
mạng làm đốc học trường làng mình không?
- Đúng rồi đó. Đốc Tân kể
chuyện thằng Danh vào trong Nam rồi qua Tây du học, đậu
được bằng cấp gì đó, bây giờ làm to lắm.
- Làm việc trong Sài gòn hả?
- Ừ, nhưng xa hơn Sài gòn một
chút. Chỗ đó gọi là Mỹ tho. Tôi muốn gởi tụi nó vô
trong đó để sống nương nhờ cậu bà con của chúng nó.
Tôi nghe nói trong đó cũng có chiến tranh nhưng không khổ
cực như ngoài nầy. Người ta chỉ đánh nhau xa xa ở dưới
miệt quê, còn trong thành phố vẫn có cơm ăn áo mặc,
đêm được ngủ yên giấc không phải phập phồng lo sợ.
Trong đó, người lớn làm việc còn con nít được đi học
đàng hoàng. Trước đây, thằng Vinh nổi tiếng học giỏi
nhất trường ai cũng biết, vì chiến tranh mà phải bỏ
học thiệt là tiếc. Nay vào trong đó đi học trở lại
thì hay vô cùng.
Bà Lành cướp lời, giọng phấn
khởi:
- Nhưng ông làm sao gởi tụi nó
vào được?
- Chính vì điều đó mà tôi muốn
bà dậy sớm để bàn với bà.
Bà ngồi thẳng dậy để được
chăm chú hơn:
- Ông nói ý ông cho tôi nghe đi.
- Đợi trời sáng bà đem rổ
khoai mà tôi mới đào hôm qua cho anh em nó luộc ăn.
Bà Lành sốt ruột:
- Được rồi, đó là chuyện
phụ. Ông hãy nói tôi nghe ý của ông về việc đưa anh
em nó vào Nam.
- Suỵt, nói nhỏ vậy. Tôi đang
nói kế hoạch đó mà. Đem khoai cho anh em nó xong, bà đi
thong thả đến nhà mụ Cửu Điền, hỏi chỗ ở của Đốc
Tân ở Huế rồi ra đón xe tuốt vào trong đó. Bà trình
bày cho Đốc Tân biết việc ngoài nầy và nhờ ông ta
đánh điện gấp vô cho thằng Danh biết. Rồi tùy thằng
Danh định liệu cho hai đứa cháu họ của nó. Bà cố đi
nội trong ngày rồi về. Đàn bà sáng đi chiều về thì
khỏi phải xin phép tắc gì cả.
Bà Lành có vẻ mừng rỡ:
- Được rồi, sáng ngày, tôi đem
khoai qua và nói kế hoạch của ông cho anh em chúng nó
mừng, cũng khuây khỏa được nỗi buồn nhớ mẹ nhớ
cha.
Ông quay sang bà, giọng hoảng
hốt:
- Ấy chết, bà đừng nói chuyện
nầy cho ai biết, kể cả hai đứa nhỏ và vợ chồng Cửu
Điền. Bà nói với mụ Cửu Điền là vào Huế tìm Đốc
Tân để vay tiền về mua lúa giống. Nếu chuyện nầy xì
ra ngoài, họ có thể ghép mình vào tội liên lạc với
quân thù mãi tận trong Sài gòn thì nguy. Nguy cho mình mà
nguy cho hai đứa nhỏ nữa. Bà nên nhớ thằng Danh là Việt
gian hạng nặng. Thứ đó Việt Minh tóm được là tiêu
ngay. Liên lạc với nó cũng có thể bị ghép vào tội
chết.
Bà Lành cướp lời ông, giọng
mỉa mai cay đắng:
- Chỉ có Việt gian mới lo được
cho trẻ con cơm ăn áo mặc, học hành tử tế!
Ông quay ngoắt lại, giọng bực
tức:
- Nầy, bà bỏ cái giọng châm
chọc phản động đó đi, nghe chưa? Thời buổi nầy mà
bà ăn nói như vậy thì không thọ đâu. Bà nghe tôi dặn
tiếp đây nầy. Đừng nói chuyện nầy cho hai đứa nhỏ
biết. Con nít khó kín miệng lắm. Vả lại, chưa biết
thằng Danh có chịu cưu mang cháu nó không. Nếu thằng
Danh không muốn giúp, để cho hai đứa sớm hi vọng rồi
thất vọng thì tội nghiệp lắm.
Thấy ông ngưng nói, bà lên tiếng
một cách dịu dàng để làm hòa với ông:
- Hồi nãy, ông khen tôi chu đáo,
chứ ông còn chu đáo hơn tôi nhiều.
Ông cười, tỏ vẻ hài lòng:
- Đàn ông, đàn bà, mỗi người
chu đáo một cách khác nhau.
Bà sực quay sang hỏi ông:
- Nhưng rủi thằng Danh chịu mà
hai đứa nhỏ không chịu thì tính sao? Ông bảo chúng nó
sang ở nhà mình, cách nhà nó có vài chục bước mà chúng
nó không chịu đi. Bây giờ bảo rời xa vĩnh viễn nơi
cha mẹ nó đã sống thì chúng nó có chịu không?
Giọng ông cương quyết:
- Chuyện quan trọng. Người lớn
đã sắp đặt, chúng phải nghe theo. À còn chuyện nầy
nữa. Bà nhớ nói với Đốc Tân là nếu thằng Danh bằng
lòng thì phải thu xếp cho kín đáo đừng để liên lụy
đến tôi và bà. Nếu làm không khéo thì mình làm ơn lại
phải mắc nạn.
*
* *
Bà Lành cắp rổ khoai bước vào
nhà, thấy hai anh em còn ôm nhau ngủ say sưa. Bà lay chúng
dậy, trao rổ khoai, hỏi thăm ba điều bốn chuyện rồi
tất tả ra đường, thẳng đến nhà mụ Cửu Điền.
Thằng Vinh đứng lên, bước ra
cửa nhìn bầu trời đã sáng tỏ. Nó quay lại thấy em nó
đang ngồi trên giường, thẩn thờ nhìn nơi đã đặt
quan tài của mẹ. Chỗ đó bây giờ trống trơn, chỉ còn
một cái bát cắm nhang nằm chơ vơ trên nền đất. Nó
muốn đốt cho mẹ một cây nhang nhưng không còn cây nào
cả trong nhà. Trong đám tang mẹ nó, bà Lành đi lùng sục
mấy nhà bà con và chỉ xin được khoảng một chục cây.
Đó có lẽ là những cây nhang cuối cùng trong ngôi làng
nầy.
Nó dẫn em ra sàn nước để rửa
mặt rồi vào nhúm lửa để luộc khoai. Nó ngồi trước
bếp, đun từng cây củi nhỏ vào lò. Nó quay lui nhìn
thằng Tân im lặng ngồi sau lưng nó, nước mắt nó lại
chực trào ra. Quả thực, thấy nét buồn dàu dàu trên
khuôn mặt thơ ngây thì đến sỏi đá cũng phải rơi nước
mắt.
Ăn xong, hai đứa trẻ dẫn nhau
ra vườn, chăm chỉ xới đất bón phân. Trước đây, khi
còn sống, giờ nầy mẹ đang sửa soạn quang gánh ra chợ.
Hai đứa ở nhà cứ nhìn xem ánh nắng mà chờ đợi. Khi
mặt trời lên quá ngọn cau hai cây sào thì mẹ về, nét
mặt tươi cười, những giọt mồ hôi lấm tấm trên
trán, trên má, trên môi. Hôm nay, cũng như mọi ngày, hai
đứa theo thói quen, thỉnh thoảng nhìn lên bầu trời để
xem mặt trời nhích dần lên thực cao mà ngoài ngõ vắng
tanh không một bóng người.
Buổi trưa, cơm nước xong xuôi,
Vinh nằm thao thức đợi cho em ngủ say. Nó sẽ một mình
ra khỏi nhà và đến nhà ông Cửu Điền. Nó cần phải
gặp anh Nậm. Nó biết rằng không thể nào bỏ rơi thằng
em côi cút để một mình đi vào chiến khu. Tuy nhiên, suốt
buổi sáng hôm nay, mỗi lát cuốc bổ xuống đất lại
làm cho nó nhớ tới cái chết của mẹ, cái chết của
cha, lòng căm hờn lại cuồn cuộn dâng lên. Nó thấy bứt
rứt, muốn chạy ngay vào chiến khu, muốn cùng với các
anh du kích, trở về xông vào đồn giặc. Nó chỉ nghĩ
đến việc xông vào đồn giặc mà thôi. Óc tưởng tượng
của trẻ thơ thường ngưng ngang nửa chừng chứ không
tới nơi tới chốn, mọi việc tiếp theo để đi đến
kết thúc, mặc nhiên dành cho người lớn lo liệu.
Thực ra anh Nậm chưa phải là
người lớn vì chỉ hơn nó hai tưổi mà thôi nhưng anh ấy
là người của cách mạng. Anh ấy có một cái gì đó rất
đáng kính của một con người đã trưởng thành trước
tuổi. Nó phải tìm đến anh Nậm để nhờ anh giải quyết
cho nó nỗi băn khoăn giữa ở và đi. Nó sẽ nghe theo lời
của anh Nậm. Đó không còn là một lời khuyên mà là một
quyết định cho nó. Tuy anh Nậm chỉ là bạn học thôi
nhưng nó cứ xem anh là chỗ dựa làm cho lòng bớt nặng
nề.
Nó rón rén xuống giường, buớc
ra cửa, quay lại nhìn thấy em đang ngủ say. Nó thẳng
đường xuống bến và rẽ vào nhà ông Cửu Điền. Con
chó Vện nhảy ra hực một tiếng rồi vẫy đuôi mừng
khi nhận ra người quen. Mụ Cửu Điền nghe tiếng chó,
vội thò đầu ra nhìn. Thấy nó, mụ cười đon đả:
- Thằng Vinh đó hả, vào đây
con.
Giọng bà nhỏ lại đủ nghe,
dường như sợ nó tủi thân:
- Tội nghiệp, mới có một ngày
mà đã mồ côi.
Ý mụ muốn nói nó trở thành
trẻ mô côi chỉ mới có một ngày mà thôi. Mụ kéo nó
vào nhà, vuốt tóc nó. Mụ phải đưa tay lên cao mới sờ
tới vì vóc dáng mụ nhỏ thó, đứng bên nó bà còn thấp
hơn nó đến gần một cái đầu. Giọng mụ dịu dàng:
- Thằng Tân, em con đâu rồi? Sao
con đi chơi một mình? Con định đi tắm dưới sông phải
không?
Nó thủng thẳng đáp lại những
câu hỏi của mụ:
- Dạ, em con còn ngủ, con đi một
mình. Con không định xuống sông. Con đến đây tìm anh
Nậm.
Nói xong, nó nhìn quanh. Mụ thoáng
giật mình và gần như hốt hoảng. Tuy nhiên, đó chỉ là
phản xạ thôi chứ đứa bé nầy thì có gì phải sợ khi
nó hỏi đến thằng con Việt minh của mụ. Hai đứa vẫn
thường rủ nhau đi tắm sông, câu cá hoặc thả diều
trên cồn hoang kia mà. Vì vậy, mụ lấy lại bình tĩnh
một cách nhanh chóng. Mụ nói:
- Thằng Nậm đi ruộng với cha
nó rồi.
- Chừng mô anh Nậm về hả bác?
- Xong ruộng mới về. Chắc còn
lâu.
Nhìn Vinh cúi đầu buồn bã, mụ
cảm thấy thương hại:
- Con nhớ nó hả, không có đứa
nào khác đi chơi với con sao?
- Dạ không, thôi thưa bác con về.
Mụ đứng dậy, vừa đi vô bếp,
vừa nói:
- Khoan, chờ một chút. Bác có
gói sẵn một ít gạo, con đem về nấu cơm để hai anh em
ăn. Bác tính chút nữa đem lên cho tụi bây, nhưng thôi
sẵn đây con đem về cũng được. Chiều nay, nếu mua được
cá của kẻ chài, bác kho rồi mang lên cho.
- Dạ, chừng nào anh Nậm về,
bác nói lên cho con gặp liền nghe bác.
- Ừ, bác sẽ biểu nó lên.
Tuy nói thế chứ mụ biết thằng
Nậm, con mụ không bao giờ trở về lúc nầy. Hơn nửa
tháng trước, chồng mụ nghe phong phanh rằng trên đồn
nghi nó là liên lạc viên của Việt minh nên ông đã bảo
nó xin với tổ chức rút hẳn về chiến khu. Nó đã thoát
ly gia đình thì mong gì còn có ngày trở về với mụ. Mụ
ứa nước mắt khi nghĩ đến con nhưng vội bình tĩnh giữ
vẻ thản nhiên dù kẻ đứng trước mặt mụ chỉ là một
đứa bé mới lớn lên.
Thằng Vinh buồn bã ra về. Mặt
trời đang trên đỉnh đầu, nắng chang chang nhưng khí
trời không nóng lắm vì mới bước vào mùa xuân. Đường
làng vắng lặng không một bóng người. Những ngọn trúc
bất động hai bên đường in rõ những bóng đen dài đan
lên nhau trên mặt đất làm tăng thêm nỗi u tịch của
ngôi làng hẻo lánh đang bị chiến tranh dày xéo.
Ngày lại ngày tiếp nối đi qua,
thằng Vinh sống với tâm trạng bồn chồn khó chịu.
Thỉnh thoảng có nhiều đứa bạn cùng trang lứa đến
chơi. Đó là những đứa thuộc những gia đình vô cùng
nghèo khổ, không biết đi đâu nên đành phải bám vào
cái nơi chôn nhau cắt rốn tơi tả nầy mà sống.
Những lúc có bạn, thằng em dễ
dàng quên đi thân phận mồ côi để chơi đùa la hét với
bạn bè, trong khi đó, thằng Vinh vẫn ngồi im, lầm lì
nhìn em nó và chúng bạn chơi đùa. Nỗi đau đớn cùng
cực vừa qua, lòng mong muốn vào chiến khu theo cách mạng
để trả thù đã đột ngột bứt nó ra khỏi tuổi thơ,
đẩy nó vào một trạng thái lửng lơ, không còn thơ ấu
để đùa giỡn vô tư, lại chưa phải là người lớn để
tự quyết định lấy số phận của mình.
Nó ngồi bệt bên thềm, tay chống
vào cằm, lẩm bẩm nói một mình:
- Gần nửa tháng rồi.
Đã gần nửa tháng kể từ khi
nó tìm đến anh Nậm để nhờ anh quyết định giùm cho
nó vào chiến khu hay ở lại cùng em nó. Nó đã mỏi mòn
chờ đợi quá lâu, ngày nào cũng mong thấy anh bước vào
cổng rồi đi qua sân nhà nó. Nó không thể chờ đợi lâu
hơn nữa. Trưa nay, đợi em nó ngủ say, nó sẽ trở lại
mụ Cửu Điền. Biết đâu anh Nậm đã về và có mặt
dưới đó và mẹ anh đã quên nói lại lời nó nhắn gởi.
Nó hi vọng như thế vì nó biết người giàcó trí nhớ
rất kém. Nếu anh Nậm vẫn chưa về thì nó sẽ xin mụ
cho nó gởi thằng em ở đó một vài ngày để xuống
ruộng tìm anh. Ruộng ở đồng An thơ cách làng độ mười
cây số. Nó đã sống ở đó trong hai đợt tản cư, đợt
đầu là trốn máy bay Đồng minh đến đánh Nhật, đợt
thứ hai là trốn quân Pháp từ phía trong đánh ra. Nó biết
đường đi về ruộng và nó sẽ hỏi người ta để đến
cái chòi của ông Cửu Điền. Chắc chắn điều đó không
khó khăn gì.
Nhìn ra sân, thấy em nó và bọn
trẻ vẫn hăng hái chơi đùa, mồ hôi nhễ nhại, nó thở
dài, vào bếp nhúm lửa nấu cơm. Khi ngọn lửa bắt đầu
tí tách trong lò, nó giật mình nghe tiếng la to của một
đứa trẻ:
- Lính tới tụi bây ơi.
Rồi tiếng thằng Tân thét to:
- Anh Vinh ơi, lính vô nhà mình.
Vinh quay lui. Từ ngoài cổng, một
toán lính mang súng hùng hục đi vào. Mấy đứa trẻ ngừng
chơi, đứng im há hốc nhìn. Một người trong bọn lính
quát to:
- Mấy đứa bé, về nhà ngay đi.
Bọn trẻ chạy túa ra cổng còn
thằng Tân phóng vào nắm lấy tay anh nó. Vinh đứng bất
động như trời trồng, đầu óc căng thẳng.
Nó tự hỏi lính vào đây làm
gì? Khám xét nhà để tìm tài liệu của Việt minh? Nó
biết việc khám xét đã xảy ra nhiều lần trong làng.
Nhưng tại sao lại khám xét nhà nó? Trên đồn, người ta
đã biết mẹ nó vừa chết không lâu và nhà chỉ còn hai
đứa trẻ mà thôi.
Nó bấn loạn với nhiều câu hỏi
trong đầu. Trời ơi! Họ đã biết cha nó là một trong
bốn người đã tử trận cách nay mấy tháng? Hay là họ
đã biết nó tìm cách liên lạc với anh Nậm để ra chiến
khu? Bây giờ họ đến bắt anh em nó vì một trong hai
nguyên nhân đó phải không?
Nó run lên nắm chặt tay em nó.
Nỗi lo sợ tràn ngập trong lòng làm nó quên phứt đi mối
căm thù đã đốt cháy tâm can nó trong những ngày qua.
Toán lính dừng cả ngoài sân,
chỉ một người vào nhà. Trông dáng điệu ông ta, nó
đoán đó là người chỉ huy. Nó nghĩ rằng ông vào trước
để quan sát; sau đó sẽ ra lệnh cho cả toán lính ùa vào
lục tung đồ đạc, cuốc xới nền nhà để tìm tài liệu
hay vũ khí rồi trói hai anh em nó dẫn về đồn đánh đập.
Riêng nó có thể chịu đựng được còn em nó thì đáng
thương quá chừng.
Nhưng không, Vinh ngạc nhiên thấy
ông ta chẳng quan sát gì cả mà sầm sầm bước tới vỗ
nhẹ vào vai nó, giọng rổn rảng:
- Mày là thằng Vinh, còn đây là
em mày phải không?
Nó gật đầu. Ông tỏ vẻ hài
lòng:
- Tốt, chỉ sợ tụi bây đi
chơi, đến đây không gặp thì phiền. Hai anh em tụi bây
lấy hết áo quần và đồ dùng cá nhân đi theo tao. Nhanh
lên.
Ông ta buông vai nó, đẩy nhẹ về
phía trước. Hai đứa chạy vội lại giường nằm, lôi
ra một nùi vải nhăn nhó. Vinh ôm nùi vải, đứng im nhìn
ông chỉ huy. Giọng ông có vẻ gay gắt:
- Sao đứng vậy? Lấy hết đồ
đạc ra đây.
Vinh im lặng lắc đầu. Ông chỉ
huy thoáng ngạc nhiên:
- Có bao nhiêu đó sao? Thôi cũng
được, mặc áo vào.
Nó tung nùi vải ra lấy một cái
áo đưa cho em nó, một cái nó mặc vào người. Mỗi đứa
chỉ có một cái áo rách duy nhất để mặc vào mùa lạnh.
Mùa nóng, chúng ở trần suốt ngày suốt đêm. Vinh cúi
xuống lượm hai cái quần đùi rơi từ nùi vải ra. Nó
định cuốn chiếc chiếu trên giường tre và chiếc mền
rách mang đi nhưng viên chỉ huy ngăn lại và ra lệnh:
- Thôi bỏ mấy thứ đó lại.
Đi!
Hai đứa lủi thủi ra khỏi nhà,
lẽo đẽo theo sau viên chỉ huy băng qua sân. Bỗng thằng
Tân vùng khỏi tay anh nó, quay lui phóng vào nhà, quì xuống
úp mặt vào giường, gào to trong tiếng khóc:
- Mẹ ơi, mẹ!
Qua vài giây sửng sốt, nó chạy
theo vào và đứng chết trân trước cái giường mà trong
bao năm qua mẹ nó đã nghỉ lưng trên đó.
Một người lính dợm vào nhà
lôi hai đứa ra; viên chỉ huy ngăn lại. Ông ta nhìn hai
đứa bé rồi quay mặt ra đường theo dõi đám mây bạc
đang lững lờ trôi trên bầu trời.
Vài phút sau, ông ta quay lui lấy
tay ra hiệu cho một người lính vào dắt hai đứa bé ra.
Vinh dìu em đứng dậy và ra khỏi nhà. Thằng bé ngoan
ngoãn theo anh. Nó khóc thút thít, vừa đi vừa ngoảnh lại
nhìn ngôi nhà lá nghèo nàn.
Cái tin hai đứa con cô Hằng bị
lính bắt lập tức lan di khắp làng. Những đứa bé đã
chứng kiến toán lính ùa vào, chạy ngay về nhà mách với
cha mẹ chúng. Trong những căn nhà trên con đường dẫn
đến đồn, người ta lấp ló nhìn hai đứa bé đáng
thương lủi thủi theo sau viên chỉ huy mang súng ngắn,
cuối cùng là bốn người lính bảo an, vai mang súng dài,
thắt lưng đầy băng đạn và lựu đạn lòng thòng.
Nhiều người vội vàng chạy đến
nhà ông Lành. Ai cũng biết ông là người thân thiết nhất
của hai đứa bé. Một ông già hỏi ngay khi mới vào nhà:
- Anh Lành, anh hay tin hai đứa con
cô Hằng bị bắt chưa?
Ông Lành trả lời một cách thản
nhiên:
- Biết rồi. Bọn trẻ chơi ở
đó về báo tin.
- Tại sao vậy? Hai thằng bé còn
nhỏ quá đã biết làm gì đâu mà bị bắt?
- Ừ ừ, tôi đâu có biết. Có
lẽ vì cha chúng nó bị bắn chết. Nghe nói trận đó lính
trên đồn cũng có bị thiệt hại nhưng họ chở đi ngay
nên mình không biết.
Giọng ông già trở nên hằn học:
- Nhưng đó là chuyện người
lớn, có liên can gì đến trẻ con?
Ông Lành ngập ngừng, giọng vẫn
thản nhiên, không tỏ một mảy may xúc động:
- Ừ, ừ. Chắc tụi lính muốn
trả thù nhưng không biết trả thù vào đâu.
Ông già uất ức:
- Không biết trút cái thù vào
đâu rồi trút lên đầu hai đứa bé à? Thiệt là đồ
bất nhân!
Ông Lành không trả lời, im lặng
ngồi xuống ghế móc bọc thuốc ra hút. Mọi người đều
thấy cái vẻ thản nhiên đáng ghét của ông nên rủ nhau
đi về.
Đợi cho mọi người ra khỏi
cổng, ông Lành đứng dậy vào bếp nói nhỏ với vợ:
- Chuyện nầy ồn ào lắm đó;
nhớ phải tuyệt đối kín miệng nghe chưa. Nếu không
khéo, hở ra họ biết thì hai thân già mình có thể bị
bắt ra tòa án nhân dân rồi bị đưa đi đắp mền đất
như chơi.
Bà nguýt ông:
- Biết rồi. Bộ ông tưởng tôi
không sợ chết hay sao?
*
* *
Hai đứa trẻ theo toán lính đi
qua trạm gác, bước vào cổng. Cái đồn lính nằm trên
một khu đất khá rộng, cảnh quan khoảng khoát. Vinh đã
biết đồn nầy từ lâu nhưng chưa bao giờ vào đây. Vài
lần nó cùng bạn bè chơi trên quốc lộ, nhìn vào thấy
một gian nhà to lợp ngói, chung quanh là những nhà nhỏ
hơn, cái lợp ngói, cái lợp tranh, vài vọng gác cao lêu
nghêu nổi lên trên hàng rào kẽm gai bao quanh.
Có lần nó nghe một đứa bạn
bảo rằng bên trong đồn là một nơi rất ghê tởm và
lính tráng là bọn quỷ sứ như bọn đầu trâu mặt ngựa
dưới địa ngục. Thằng bạn đó còn kể rằng bọn quỷ
trong đồn thường bắt người vào đánh đập đến thịt
nát xương tan rồi giết chết và quăng xác xuống sông.
Trước khi thủ tiêu, bọn quỷ thường lóc một miếng
thịt ở đùi nạn nhân, nấu cháo ăn với nhau. Nó nghe
say sưa những chuyện khiếp đảm và hấp dẫn đó rồi
kể lại cho nhiều đứa khác nghe. Nó không tin lắm về
việc người ăn thịt người nhưng nó tin việc lính giết
người rồi thủ tiêu bằng việc ném xác xuống sông. Bây
giờ đến phiên chúng nó bị bắt vào đây. Khuya nay hay
ngày mai, hai anh em sẽ bị giết và xác cả hai sẽ trôi
lềnh bềnh trên dòng Ô lâu thân yêu của nó.
Nó cảm thấy đôi chân bủn rủn
nên dừng lại, hoảng sợ nhìn quanh. Bây giờ nó mới
nhận thấy những người lính theo sau đã biến đi đâu
cả, chỉ còn viên chỉ huy đi trước nó mà thôi. Ông ta
bước lên bậc thềm của gian nhà to nhất và quay lại
thấy hai đứa đứng tần ngần giữa sân. Ông vẫy tay
gọi, miệng mỉm cười, một nụ cười thực hiền lành.
Nó đứng sững nhìn nụ cười đó. Nó không hiểu gì cả.
Tại sao ông ta cười với vẻ đầy thiện cảm như thế?
Ông ta phải nhe răng, đưa những móng nhọn vồ nó mới
phải chứ. Chúng nó đã bị bắt vào sào huyệt của ông
ta rồi mà. Tuy nghĩ vậy, nó cũng ngoan ngoãn theo lệnh
tiến đến gần, bước lên mấy bậc thềm gạch.
Ông chỉ huy đưa tay dẫn hai đứa
đi xuyên qua một hành lang hẹp và dừng lại trước một
cánh cửa khép hờ. Ông đưa tay gõ cửa. Một giọng nói
ồm ồm từ bên trong phát ra, nhưng nó không hiểu giọng
đó nói gì.
Viên chỉ huy đẩy cửa, kéo hai
đứa vào. Căn phòng khá rộng, tường bằng gạch tô xi
măng và sơn màu vàng. Đối với nó thì đó là căn phòng
sang trọng, có đủ bàn ghế, giường tủ, giá súng….
Trước bàn có hai ông đang ngồi
nói chuyện với nhau bằng cái thứ tiếng rất lạ tai. Nó
đoán đó là tiếng Tây. Một ông là Tây thực sự, mặc
quân phục, trên mỗi vai có hai gạch vàng choé. Ông kia
người Việt, ăn bận rất sang trọng: áo trắng, quần
xám, giày đen bóng, kính trắng gọng vàng. Ông người
Việt đứng dậy bước đến nắm tay hai đứa, giọng xúc
động:
- Hai con là Vinh và Tân đây phải
không? Hai con chớ sợ. Cậu là cậu Danh của hai con đây.
Mẹ hai con là em của cậu. Cậu hay tin mẹ con mất nên
vội vàng về đây đưa hai con vào Nam sống với cậu.
Vinh đứng im nhìn trân trân cái
người tự xưng là cậu Danh của nó. Nó nhớ có lần đã
nghe mẹ nói về cậu Danh học giỏi, nhà giàu và đang làm
việc cho Tây ở Sài gòn. Lúc nghe mẹ kể, nó hình dung
cậu là một người hết sức xa lạ. Người xa lạ đó
đang đứng trước mặt nó đây. Nó không mừng rỡ mà tỏ
ra bối rối.
Thằng Tân thì không hiểu gì cả.
Nó chưa từng nghe nói đến cậu Danh nhưng nay thấy một
người đàn ông sang trọng vuốt ve nó và nói là anh của
mẹ nó thì nó sung sướng nắm tay, miệng nở nụ cười.
Nụ cười trên gương mặt thơ ngây của một đứa bé
vừa trải qua nỗi bất hạnh vô cùng to lớn.
Người ta đem hai anh em ra nhà sau
để tắm. Chúng được xát xà phòng khắp người. Lâu
lắm rồi chúng mới thấy bọt xà phòng thế nầy. Người
ta đưa cho hai đứa hai bộ áo quần cũ nhưng sạch sẽ
tươm tất. Có lẽ đó là áo quần của những đứa bé
sống cùng cha là lính trong đồn nầy.
Bữa cơm trưa và cơm chiều hôm
đó, hai đứa được dùng thức ăn ngon chưa từng thấy.
Đêm đến chúng ngủ trong một phòng của dãy nhà dành
cho gia đình binh sĩ. Đặt lưng xuống là em nó ngủ say
còn nó thì thao thức nhiều giờ sau đó. Nó nhớ lại
những việc trong những ngày qua. Đã có biết bao nhiêu là
đổi thay, và còn những đổi thay khác nữa trong những
ngày sắp tới. Riêng ngày hôm nay, mọi việc đã xảy ra
hoàn toàn khác hẳn với dự tính của nó. Nó không còn
có dịp gặp anh Nậm nữa. Nó sực nhớ đến mối thù
cha. Nửa tháng rồi nó bị dằn xé giữa mối thù này và
tình thương em. Để trả thù nó phải lên chiến khu, phải
xa em nó, còn ở lại với em thì nó sẽ bị dằn vặt vì
mối thù canh cánh bên lòng. Nó khổ sở vì cái quyết
định đi hay ở. Bây giờ thì nó không còn phải quyết
định gì nữa cả. Cậu nó đã về đây và tước mất
cái quyền quyết định của nó. Nó xuôi tay tuân theo sự
sắp đặt của cậu nó. Nó cảm thấy nhẹ nhàng vì ý
nghĩ không còn giải pháp ra đi một mình để em nó lại
trong ngôi làng có quá nhiều hiểm nguy nầy nữa.
Trời vừa rựng sáng, hai anh em
được gọi thức dậy và lập tức lên chiếc xe nhà binh
mười bánh đang nổ máy rì rầm trước sân. Một chiếc
xe nhỏ có bố trí súng đại liên chạy trước, xe chở
chúng nó cùng vài người lính bám theo sau, bon bon hướng
về Nam.
Vĩnh biệt ngôi làng bé nhỏ thân
yêu! Vĩnh biệt nơi chốn đã chứng kiến biết bao hạnh
phúc và biết bao khổ đau trong quãng đời thơ ấu của
chúng nó! Vĩnh biệt ông bà Lành và các bạn nhỏ cùng
trang lứa! Vĩnh biệt cha mẹ đang nằm yên trong lòng đất!
Miền Nam quá xa xôi, biết có ngày nào anh em nó trở về
quỳ lạy bên đôi mộ song thân.
Nó úp mặt vào hai bàn tay khóc
nức nở.
*
* *
Đây là thành phố Huế. Hai anh
em choáng ngợp trước cảnh phố phường.
Trước kia, lúc còn sống trong
làng thuở bình yên, thỉnh thoảng mấy đứa trẻ lên
chơi trên đầu làng. Khi nghe tiếng xe ô tô bắt đầu
vọng lại từ xa, cả bọn vội vàng kéo nhau chạy đến
gần quốc lộ để nhìn một chiếc xe đơn độc chạy
ngang qua. Bây giờ đến đây, xe cộ rộn ràng đến hoa cả
mắt.
Hai đứa nắm chặt tay cậu đi
trên lề đường sạch sẽ, mắt hau háu nhìn đủ loại
hàng hóa sặc sỡ hai bên phố xá. So với thời kỳ trước
chiến tranh và về sau nầy, Huế lúc bấy giờ sa sút
nhiều, nhưng đối với hai anh em chưa từng biết phố
phường, lại vừa mới rời khỏi vùng đất tiêu điều
thì Huế là một chốn cực kỳ hoa lệ.
Buổi chiều chúng được cậu
dẫn đi sắm áo quần mới và đôi dép da đầu tiên trong
đời. Đôi dép tạo nên một cảm giác lạ lùng nơi hai
bàn chân, một cảm giác vừa khó chịu, vừa thích thú.
Sau một đêm ngủ nhờ ở nhà
ông Đốc Tân, ba cậu cháu lên đường vào Đà nẵng trên
một chiếc xe nhà binh trong một đoàn công voa. Cậu Danh
ngồi phía trước với tài xế, hai đứa co ro trong một
góc phía sau cùng với một số lính, Pháp có, Việt có.
Đoàn xe dài dằng dặc; trước
tiên là hai xe bọc thép mở đường, kế đó hơn một
chục xe quân sự chở lính và quân dụng, gần hai mươi
xe dân sự chở hàng hóa và hành khách, và cuối cùng một
xe đầy lính và một thiết giáp nữa. Đoàn xe rầm rập
lên đường từ sáng tinh mơ. Đường rất xấu, đầy
những chỗ lồi lõm, hai bên đường trống trơn, cây cối
bị chặt bỏ cả vì an ninh của quốc lộ. Xa xa, sau màn
sương mỏng, xóm làng êm ả trong dáng vẻ thanh bình giả
tạo. Thỉnh thoảng, đoàn xe dừng lại, toán lính từ các
xe nhảy xuống, dè dặt từng bước, đến quan sát một
đống cây tươi chất đống bên vệ đường hay một mô
đất mới vun lên trên mặt lộ. Sau đó xe lại rú máy
tiếp tục cuộc hành trình.
Đến chân đèo Hải vân thì đã
quá trưa, đoàn xe chậm chạp nhích dần lên trên con đường
nguy hiểm, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là
vực sâu thăm thẳm.
Bỗng vài tiếng súng vang lên từ
trên cao, tiếng vọng dội vào những vách đá khá lâu mới
dứt. Rồi một tiếng nổ lớn làm cho khu rừng già xao
động. Xe dừng đột ngột, mọi người nhảy xuống mọp
hai bên vệ đường. Một toán lính băng lên núp sau những
tảng đá trong khi những tràng đạn đại liên từ các xe
bọc sắt nổ chát chúa. Rồi sau đó im lặng, hoàn toàn
im lặng. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, lần lượt leo
lên xe để tiếp tục cuộc hành trình. Đến xế chiều,
xe vào thành phố Đà nẵng một cách bình yên.
Ba cậu cháu lưu lại hai ngày
trong một khách sạn rồi xuống tàu thủy vào Nam. Đó là
chiếc Docteur Roux, một chiếc tàu khổng lồ dưới
mắt hai đứa bé, được quân đội Pháp thuê mướn để
chở lính và quân dụng. Ba cậu cháu cùng một số hành
khách dân sự được phép tháp tùng. Tàu hụ còi, máy tàu
gầm rú. Mặt biển phẳng lặng đổi từ màu xanh sang màu
tím khi tàu tiến dần ra khơi.
Vinh đứng trên bong, buồn bã
nhìn vào bờ. Những ngôi nhà rồi cả thành phố xa dần,
từ từ chìm xuống mặt nước, kéo theo cả một dải đất
dài, chỉ còn sót lại những đỉnh Trường sơn cố ngoi
lên trên chân trời, rải rác như những hòn đảo lẻ
loi. Rồi đến lượt những đỉnh núi kia cũng bị nhận
chìm dưới mặt nước. Không còn gì nữa cả ngoài mặt
đại dương mênh mông, vẽ nên một đường sắc nét với
bầu trời sáng rực bên trên.
Vinh chợt cảm thấy bàng hoàng.
Tay nắm chặt thanh sắt tròn của bong tàu, nó cố tập
trung tư tưởng để suy nghĩ về tương lai, nhưng đầu óc
nó thoáng trống rổng, thoáng đầy ắp những kỷ niệm
đã qua. Nó quay đầu về phía đuôi tàu, nhìn mặt nước
nổi bọt trắng xóa. Trong trí tưởng tượng của nó,
xuất hiện rõ ràng ngôi làng của tuổi thơ, mái nhà
tranh nghèo nàn nhưng thân yêu, hai ngôi mộ cha mẹ trên
vùng đất hoang vu…. Ôi chao, biết bao giờ nó mới quay
trở lại?
Sau hai ngày lênh đênh trên biển
cả buồn bã, tàu vào đến miền Nam. Từ sớm tinh mơ,
mọi người đã thức dậy chỉ cho nhau xem ngọn hải đăng
của Cap Saint Jacques, tắt chớp liên hồi trong bóng
đêm sắp dứt. Đến trưa tàu cặp bến Saigon, rồi hôm
sau ba cậu cháu về đến Mỹ tho.
Chiếc xe chở ba người dừng lại
trước một biệt thự nguy nga. Cậu nhấn chuông. Một
người đàn ông ra mở cổng, cúi chào cậu một cách lễ
phép và quay lại hai đứa bé, mỉm cười. Bên trong, vang
lên nhiều tiếng reo vui và có bóng người chạy ra.
Hai đứa nhìn sững ngôi nhà,
nhìn sững mọi người một cách bối rối, choáng ngợp
như khi đứng trước một khung cảnh to lớn và lạ lùng.
Cậu nắm lấy bàn tay hai đứa dẫn vào một căn phòng
sang trọng. Một tấm lịch đỏ chói treo trên tường vôi
trắng xóa đập ngay vào mắt. Vinh lẩm nhẩm đọc và ghi
nhớ ngày nó vào đến miền Nam.