Đặt chân xuống Sài gòn, Vinh
thấy lòng vui như mở hội. Nó đang thực sự sống trong
thành phố mà nó ước mơ từ lâu. Dù đã đi Sài gòn ba
lần trong hai năm qua, nhưng khi vừa đến Phú lâm, cửa
ngõ vào thành phố là nó đã thấy choáng ngợp vì nhà
cửa, người ta và xe cộ.
Xuống xe đò, người đàn bà dẫn
hai đứa đi bộ một khoảng rồi lên xe thổ mộ, một
loại xe hai bánh do một con ngựa kéo phía trước và hành
khách ngồi co ro phía sau, trên sàn gỗ có trải chiếu
hoa.
Sau khi chạy qua vài con đường,
chiếc xe thổ mộ đột ngột dừng lại sau tiếng la
“ngừng, ngừng” của người đàn bà. Vinh bước xuống
trước, nhảy lên vệ đường và quay lại nhìn con ngựa
đang đứng gồng mình, hai chân trước thẳng băng ghìm
trên mặt đường, đầu ngẩng cao, bọt mép sùi ra trắng
xóa hai bên cái mõm há to vì bị sợi dây cương kéo căng
về phía sau.
Người bàn bà xuống xe, trả
tiền xong, bước đi trước, hai anh em ôm hành lý lẽo đẽo
theo sau. Ba người đi sâu vào một con đường đất ngoằn
ngoèo, hai bên rải rác những mái nhà tranh lụp xụp tối
tăm nằm giữa những thửa đất hoang hay giữa những khu
vườn nho nhỏ cây cối mọc um tùm không theo một hàng
lối nào cả. Gần cuối hẻm, bỗng dưng nổi lên bốn
căn phố liền nhau, mái ngói âm dương cũ kỹ nhuộm màu
xanh thẫm của rêu, vách tường xi măng xám xịt, lỗ chỗ
những lỗ thủng màu đỏ bầm của lớp gạch bên trong.
Tuy vậy, bốn căn nhà nầy trông có vẻ vững chắc và
tươm tất hơn tất cả những gian nhà trong xóm. Người
đàn bà bước lên hàng hiên hẹp và mở khóa căn cuối
cùng. Hai đứa bước vào; gian nhà có ít đồ đạc đơn
sơ nhưng xếp đặt tươm tất, bầu không khí mát mẻ,
tương phản với cái nóng bên ngoài.
- Hai con để đồ đạc lên bàn
rồi ngồi nghỉ cho khỏe. Nhà nầy là của dì và từ rày
cũng là của hai con. Hai con gọi dì là dì Năm, nghe chưa?
Dân ở đây quen gọi là bà Năm Lê ghim. Đó không phải
là tên cúng cơm của dì đâu.
Dì Năm đặt giỏ xách ở góc
nhà rồi lại tiếp tục vui vẻ nói:
- Vì dì bán rau ngoài chợ nên
người ta gọi dì là Năm Lê ghim chớ cha mẹ dì đâu có
đặt cái tên kỳ cục vậy. Thôi hai con trải chiếu nằm
nghỉ trên đi văng đi, đợi dì nấu cơm xong thì ăn. Sáng
nay, tao có mua một ít thức ăn ở chợ Mỹ tho. Phải biết
lo xa như vậy mới được.
Sau lời độc thoại đó, dì Năm
bỏ đi xuống bếp để cho hai anh em ngồi thẫn thờ với
ngôi nhà xa lạ, từ nay trở thành ngôi nhà của chúng nó.
Sau bữa cơm trưa khá muộn, dì
Năm vào nằm trong chiếc giường nhỏ ở cuối phòng, sát
với vách tường ngăn chái bếp. Hai đứa nằm trên đi
văng kế bên cửa sổ, ngủ một giấc ngon lành.
Bữa cơm chiều xong xuôi thì màn
đêm buông xuống, bóng tối dần dần bao phủ xóm nhỏ
nghèo nàn với những ánh đèn dầu leo lét trong những căn
nhà lụp xụp. Tuy vậy, đêm không hoàn toàn tĩnh mịch vì
khắp nơi có tiếng nô đùa của trẻ nhỏ và tiếng côn
trùng ra rả trong những lùm cây.
Sáng hôm sau, dì Năm dậy rất
sớm. Thằng Tân vẫn ngủ say còn anh nó đã thức nhưng
vẫn nằm yên nhìn ánh sáng lập lòe trong bếp do dì Năm
nhóm lửa để bắc lên nồi cháo trắng.
Trời vừa rựng sáng, dì gọi
hai đứa và bảo:
- Bây giờ dì đi lấy rau, đem ra
chợ bán hết rồi mới về, trong khoảng từ mười giờ
đến mười hai giờ. Hai anh em tụi con lấy cháo ra ăn với
đường rồi đi quanh quẩn trong xóm mà chơi. Đừng đi
xa, coi chừng lạc đường. Khi đi, nhớ khóa cửa lại.
Xóm nầy chưa hề bị mất trộm nhưng cẩn thận thì hơn.
Dì đi rồi, hai đứa vâng lời
múc cháo ra ăn rồi khóa cửa, cùng nhau ra đường. Trong
xóm có nhiều con hẻm nhỏ giao nhau, dẫn về các hướng.
Hai đứa đi về phía sau, cách nhà độ hai trăm thước
thì bắt gặp một bờ đất sâu xuống thoai thoải, phía
dưới là những đường sắt chạy dài đến tận nhà ga
ở xa xa.
Vinh hỏi một người đàn ông đi
ngang qua thì được biết đó là ga Hòa hưng hay còn gọi
là ga Sài gòn hàng hóa. Ngoài ra còn có ga Sài gòn hành
khách mãi tận ở trung tâm thành phố.
Buổi chiều, cơm nước xong xuôi
thì trời còn sớm. Thằng Tân lân la ra làm quen với lũ
trẻ đang bày trò chơi trước sân rộng nơi đầu dãy
phố. Ở nhà chỉ còn dì Năm và Vinh. Hai người ngồi đối
diện nhau qua cái bàn cũ kỹ. Dì Năm hỏi:
- Các con về đây có buồn và
nhớ Mỹ tho không?
Vinh lắc đầu. Dì nói tiếp:
- Buồn thì cũng phải rán chịu
thôi. Con có biết ai đưa hai anh em về đây không?
- Dạ, anh Loan nói lãnh đạo đưa
về theo nguyện vọng của con.
Dì cười sằng sặc:
- Lãnh đạo cái con khỉ. Lãnh
đạo nào mà có thì giờ lo cái ăn cái ở cho các con.
Thằng Loan nó muốn lòe con đó.
Dì bỗng thôi cười, nghiêm mặt:
- Dì dặn con nghe cho kỹ đây
nầy. Kể từ rày, con không được nhắc tên thằng Loan
với bất cứ ai. Con cũng không được nói với ai con từ
Mỹ tho lên đây. Cần phải giấu biệt cái nơi mà mình
đã hoạt động để bọn nó không thể theo dõi được.
- Vậy nếu ai hỏi con từ đâu
đến đây thì phải nói thế nào?
- Con nói hai anh em là cháu ruột
của dì. Cha mẹ con ở tỉnh…, à, tỉnh gì cũng được,
tỉnh Long xuyên vậy. À, mà không được. Các con trọ trẹ
giọng Huế, nói ở Long xuyên ai mà tin. Thôi thì nói ba má
các con ở Huế. Ngoài đó không yên nên ba má gởi các
con vô đây ở với dì để ăn học.
Vinh hỏi dì, giọng ấp úng:
- Nhưng con về đây đâu phải
chỉ để đi học. Anh Loan nói tổ chức dưới đó giới
thiệu con về đây để bổ sung tổ chức cách mạng ở
Sài gòn mà.
Dì Năm lại cười sằng sặc, vỗ
nhẹ vào bàn tay nó đang đặt trên bàn:
- Dì hiểu rồi. Thằng Loan lại
phịa ra chuyện giới thiệu nữa. Chỉ có cán bộ tầm cỡ
nào đó mới được chính thức giới thiệu. Tầm thường
như dì với con thì ai mà thèm để tâm. Lãnh đạo ở
tuốt trên mây xanh lo những việc to lớn chứ mắt đâu
mà nhìn đến hạng như mình. Muốn hoạt động thì mình
ráng mà tìm tổ chức chui vào.
Dì thôi cười và nói tiếp với
giọng nghiêm trang:
- Về việc của con thì khỏi
phải lo. Thằng Loan đã lên đây kể rõ hoàn cảnh mồ
côi cha lẫn mẹ của hai anh em con. Nó cũng nói với dì
lòng căm thù của con đối với thằng Tây nên mong muốn
tham gia công tác cách mạng để trả thù nhà và đền nợ
nước. Thanh niên mà có lòng như thế là rất tốt. Vì
vậy, khi thằng Loan nhờ dì về Mỹ tho đón hai con lên là
dì chịu liền. Mấy năm nay, dì sống cu ky một mình cũng
buồn, có hai đứa tụi bây thì cũng đỡ cô độc. Về
chuyện công tác của con thì cũng không có gì khó khăn.
Vài hôm nữa, dì sẽ giới thiệu con với anh em đồng
chí. Nhưng trước hết phải lo chuyện học cái đã. Con
và em con học tới đâu rồi?
- Còn vài tháng nữa, con xong
trung học đệ nhất cấp. Em con thì còn hơn một năm nữa
mới xong tiểu học.
- Được rồi, hai con tiếp tục
việc học ở trường tư . Mọi chi phí dì lo; mấy anh em
đồng chí có lẽ cũng sẵn sàng giúp đỡ.
Dì nói xong đứng dậy, chấm dứt
câu chuyện. Vinh cảm thấy yên tâm. Cuộc sống của anh
em nó bước đầu đã được ổn thỏa.
Đúng một tuần lễ sau, hai anh
em lại bắt đầu cắp sách đến trường. Chính Vinh cũng
không ngờ dì Năm sốt sắng và mau lẹ đến như thế. Nó
không biết làm cách nào để tỏ cho dì hiểu là nó biết
ơn dì vô cùng. Sau khi học bài xong, nó thích ngồi nói
chuyện thân mật với dì. Dì cũng tỏ ra rất cởi mở
nên sẵn sàng kể quá khứ của dì cho nó nghe.
Quê dì ở Trung lương. Lúc còn
là con gái, dì có nhan sắc bình thường, không đẹp mà
cũng chẳng xấu lắm. Trong khi những chị em khác, cũng
nhan sắc bình thường như dì đều lần lượt nên gia
thất thì dì vẫn cu ky một mình cho đến ngày nay. Dạo
đó, ở nhà quê, người ta thỉnh thoảng bàn đến chuyện
ế chồng của dì lúc trà dư tửu hậu hay lúc không
chuyện gì khác để bàn. Có vài lần dì được mai mối
để kiếm tấm chồng nhưng đều thất bại. Có người
bảo tại số kiếp của dì, cái “tuổi dần” thì cung
phu nặng nề, khó có chồng lắm; nếu có chồng thì cũng
đứt gánh giữa đường. Kẻ ít học thì tin như vậy.
Người có học thì nghĩ rằng dì không lấy chồng được
là vì tính thông minh và nghịch ngợm của dì làm cho dì
nổi tiếng ngay từ lúc còn bé. Lớn lên, trong khi đám
con gái trong làng bắt đầu biết trang điểm, biết làm
duyên, làm dáng, thì dì vẫn giữ tính nghịch ngợm không
biết kiêng nể ai cả. Dì có thể thân mật với bất cứ
mọi người, bất kể trai gái, giàu nghèo và có thể trêu
chọc không từ một ai. Tuổi xuân của dì dần dần trôi
qua, bà con thân thuộc tỏ vẻ ái ngại nhưng dì vẫn tỉnh
bơ, trên nét mặt tươi cười không có một chút nào gọi
là buồn duyên tủi phận. Có lần, một bà cô hỏi thẳng
dì về chuyện chồng con, dì cười đáp:
- Có chồng thì như trâu cột
trong chuồng, không có chồng tha hồ đi dọc đi ngang.
Bà cô nổi giận:
- Nhưng mà mày không biết tội
nghiệp cho má mày sao?
Dì trả lời, vẫn trong tiếng
cười thoải mái:
- Có, bà già cứ cằn nhằn mãi.
Bà nói thèm có cháu ngoại để ẵm. Nhiều khi thương bả,
muốn cho bả một đứa cháu ngoại cho yên chuyện. Nhưng
đêm nào cũng nằm ngủ một mình thì làm sao cho cái bụng
nó to lên được. Không lẽ chạy ra ngoài đường, vớ
đại một ông nào đó mà năn nỉ: “Ông cho tôi một
chút xíu gì cho cái bụng tôi nó phình lên”.
Bà cô tức giận quát to:
- Con nầy ăn nói bậy bạ, chẳng
ai dám lấy mầy cũng phải.
Dì vẫn ở vậy cho đến khi mẹ
mất thì bán nhà, bán đất, lên Sài gòn để tránh xa cái
làng xóm đầy dẫy những người thích bàn tán chuyện
người khác. Dì thích ứng khá nhanh với chốn phồn hoa
đô hội. Dì thích nơi đây vì người ta không hay dòm ngó
vào những chuyện vặt vãnh của người khác. Dì giao du
rộng rãi nhờ tính tình xởi lởi và mau miệng, mau mồm.
Khi cách mạng Mùa Thu bùng nổ,
dì hăng hái vác biểu ngữ đến tham gia cuộc biểu dương
lực lượng tại đường Norodom. Sau khi cách mạng rút lui
về nông thôn, dì ở lại và không bao lâu sau, có người
đến rủ rê và dì trở thành Việt minh ngay trong thành
phố nầy.
Cái quá khứ của dì là như thế,
còn hiện tại, nhờ sự tốt bụng và giao du rộng rãi
của dì, chỉ một tuần sau khi đến đây, hai anh em đã
được nhập học.
Một buổi chiều, đi học về,
hai anh em ngạc nhiên thấy một bàn đầy thức ăn. Nơi
đầu bàn có hai cây nến cắm trên đáy hai cái ly úp
ngược. Đầu ngọn nến còn giữ nguyên chóp nhọn, giữa
có tim trắng thò ra.
Thấy hai đứa bước vào cửa,
dì quay ra bảo:
- Bữa nay giỗ má của dì. Dì
dọn sẵn đợi hai đứa tụi bây về mới cúng. Tụi bây
cất cặp sách nhanh lên rồi lại đây. Mấy hôm rồi
trong đầu dì nãy ra một ý kiến hay hay, bữa nay dì muốn
thực hiện.
Hai đứa chưa hết ngạc nhiên
nhưng cũng nhanh chóng làm theo lời dì. Chúng đứng nghiêm
trang nhìn hai ngọn lửa cháy bập bùng trên hai cây nến
mà dì mới đốt lên. Dì đốt thêm một nắm nhang, cắm
vào lư. Khói nhang thơm tỏa ra khắp phòng. Dì ngồi thụp
xuống chiếu, khom lưng lạy rồi ngước mặt lên nhìn
thẳng phía trước.
Hai anh em bị lôi cuốn vào không
khí mang tính linh thiêng. Người đàn bà phúc hậu, thường
ngày hay đùa giỡn với giọng nói rổn rảng và tiếng
cười sảng khoái, đang xì xụp lạy một cách kính cẩn
làm hai anh em cảm thấy rờn rợn trong người. Bỗng chúng
khẽ giật mình khi nghe dì nói to:
- Thưa má. Cho tới lúc chết, má
cũng còn muốn có cháu ngoại để nhìn mặt. Con buồn là
không làm cho má toại nguyện trước khi nhắm mắt. Bây
giờ, có hai đứa trẻ mồ côi, mồ cút đáng thương,
trời xui đất khiến đến đây sống với con. Má nhận
anh em nó làm cháu ngoại đi cho vừa lòng má. Má có chịu
không?
Giọng dì bỗng trầm lại như
giọng người già:
- Ừ, tao chịu rồi đó.
Dì nói xong đứng lên. Không khí
trang nghiêm vụt biến mất vì tiếng cười ha hả trên
khuôn mặt rạng rỡ của dì. Thấy hai đứa đứng sững,
dì kéo tay đến trước bàn thờ, giọng nói đầy phấn
khởi:
- Hai đứa con đến lạy bà ngoại
đi. Bà chịu nhận hai đứa làm cháu ngoại rồi đó. Bà
ngoại phúc đức lắm. Bả ăn chay niệm Phật cả đời
để cầu phúc cho người khác. Các con làm cháu ngoại của
bả, chắc sẽ được phúc nhiều hơn người khác.
Hai anh em vâng lời, khom mình cúi
lạy. Trong bữa cơm sau đó, dì thường gác đũa nhìn hai
đứa trẻ ăn uống ngon lành.
Dì hài lòng vì cảm thấy được
hạnh phúc. Trong suốt những năm dài, sống đơn độc, dì
không hề biết niềm hạnh phúc được sống chung với
người khác dưới một mái nhà. Với hai đứa trẻ, cuộc
sống của dì càng ngày càng dễ chịu, mặc dù phải tốn
kém thêm vào việc ăn uống của cả ba người. Dì bắt
đầu phải rút bớt một tí số tiền mà dì để dành
cho cuộc sống về già của mình. Tuy thế, dì vẫn hài
lòng.
Hai đứa trẻ cũng nhanh chóng cảm
thấy thích căn phố nghèo nàn nầy, có lẽ còn hơn cả
ngôi biệt thự mà chúng đã từng sống với những người
thực sự là bà con của chúng. Vài tháng sau, thằng Tân
học xong lớp nhì và nộp đơn xin vào lớp nhất trường
tiểu học Chí hòa. Anh nó qua dễ dàng kỳ thi trung học
đệ nhất cấp chương trình Pháp ngữ còn gọi là Brevet
d’études du premier cycle và nhất định xin dì nghỉ học
để tìm việc làm. Vinh biết rằng lợi tức từ gánh rau
hàng ngày của dì chỉ đủ nuôi sống dì mà thôi. Nó
phải đi làm kiếm tiền để nuôi thân hai anh em nó.
Dì Năm chấp nhận ý kiến đó
một cách nhanh chóng. Dì tìm đến nhiều nơi quen biết để
xin việc và cuối cùng, nó được hãng BGI, nằm cạnh bờ
sông Sài gòn nhận vào làm việc. Công việc khá nặng
nhọc vì phải vác những cây nước đá từ nhà máy vào
hầm chứa rồi từ hầm chứa lên xe giao hàng. Sở dĩ nó
tìm được việc nhanh chóng là vì công việc đã nặng
nhọc lại phải chịu cái rét căm căm trong hầm lạnh.
Lúc đầu, việc nầy làm nó rất khổ sở, nhưng nghĩ đến
đứa em đang cần sống và đi học nên nó cố chịu đựng.
Dần dần nó cũng quen với công việc và thấy dễ chịu
hơn. Nhận được tháng lương đầu tiên, nó mua ngay cho
thằng em vài món mà nó biết em nó thèm muốn, còn lại
đưa cả cho dì Năm nhưng dì chỉ nhận phân nửa số tiền
nó đưa mà thôi.
Vài tháng sau, một hôm, ông Tây
chủ hãng vào nhà kho đúng lúc nó vác cây nước đá đi
ra. Ông Tây dừng lại ở cửa để nhường đường cho nó
và buộc miệng nói một lời chào xã giao. Như một phản
xạ, nó đáp lại lời chào bằng chính tiếng mẹ đẻ
của ông. Vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, ông chủ Tây
hỏi tên nó rồi bỏ đi ra ngoài kho.
Hai ngày sau, nó được chuyển
sang công việc giao hàng, được nhận một ô tô cùng tài
xế. Hằng ngày, nó đem những két bia và nước ngọt đến
những nơi được chỉ định rồi trở về với một bao
tiền nộp cho thủ quỹ. Công việc thực nhẹ nhàng mà
lãnh gấp đôi lương khuân vác trước đây. Nó ăn mặc
lịch sự và thái độ cùng lời ăn tiếng nói cũng trở
nên chững chạc hơn. Nó không còn là đứa trẻ mồ côi
cơ cực nữa mà đã trở thành một tư chức hẳn hoi.
Việc trở lại tham gia công tác
cách mạng của nó cũng được dì Năm thu xếp nhanh chóng.
Chỉ vài tuần sau khi nó đến Sài gòn, có một thanh niên
ăn mặc lịch sự đến nhà dì. Dì giới thiệu đó là
người em bà con. Giới thiệu xong, dì bỏ đi qua nhà hàng
xóm chơi để mặc nó ngồi nói chuyện với người thanh
niên. Anh ta tự xưng tên là Dự, chấp nhận nó vào tổ
chức qua sự giới thiệu của dì Năm và sẽ giao công tác
cho nó trong một ngày gần đây.
*
* *
Vào giữa mùa hè, dì Năm dẫn
thằng Tân vào trường Tiểu học Chí hòa. Tháng trước,
bà đã nộp đơn xin nhập học cho nó nhưng lo lắng đơn
không được chấp thuận.
Ngôi trường vắng vẻ vì đang
kỳ nghỉ nhưng dì may mắn gặp được hiệu trưởng đến
đây làm việc một mình. Dì trình bày cặn kẽ tình cảnh
đáng thương của cháu dì. Ông hiệu trưởng ngồi chăm
chú nghe rồi đến tủ đựng hồ sơ lục tìm lá đơn,
đọc qua một lượt và nói với giọng dịu dàng:
- Trường có hai lớp nhất đều
dành cho học sinh của chúng tôi từ lớp nhì lên. Tuy
nhiên hoàn cảnh của cháu rất đáng thương. Tôi hiểu
nỗi khổ của những người dân quê, nạn nhân của chiến
tranh phải bỏ làng mạc chạy về đây. Được, tôi thu
nhận em Tân vào học ở trường nầy. Bà về lo bổ túc
hồ sơ cho em và mang đến đây càng sớm càng tốt.
Hai dì cháu ra về, lòng phơi
phới.
Vào đầu niên khóa, thằng Tân
được nhận vào học trường tiểu học Chí hòa. Nó
chính thức được học trường công nên cũng đỡ phần
nào chi phí cho anh nó. Nó là một đứa trẻ thông minh,
hiếu động nhưng hiền lành. Vì vậy không bao lâu sau khi
nhập học, nó đã được thầy và bạn yêu mến.
Một hôm đi học về, Tân bước
vào nhà và thấy hai thanh niên đang đóng tấm vách ngăn
bằng ván ngay giữa phòng. Thế là căn phố dài khoảng
bảy mét được chia thành hai phòng bằng nhau. Phòng trước
có cái đi văng, chỗ ngủ của hai anh em, bộ bàn ghề
dùng để học và để ăn cơm. Phòng trong có giường của
dì Năm và tủ đựng quần áo.
Hôm sau, tấm vách ngăn hoàn tất,
nó nhìn quanh, thấy thích thú và nhớ lại căn phòng nho
nhỏ mà cậu mợ Danh dành cho hai anh em nó trong hai năm
sống tại Mỹ tho. Đó là giang sơn riêng của hai đứa;
nơi đó, nó đã sống những ngày ấm cúng bên anh nó, kể
từ khi lìa hơi ấm của mẹ. Cha mẹ qua đời quá sớm,
nhưng nhờ có tình thương của anh nên nó cũng bớt phần
nào nỗi bất hạnh của đứa trẻ mồ côi. Cái gia đình
mới mẻ và nhỏ bé hiện nay chỉ gồm có ba người nhưng
nó vẫn thèm muốn có nơi riêng biệt cho hai anh em nó. Cái
phòng nho nhỏ nầy thực sự làm cho nó vui thích.
Vài hôm sau, vào buổi chiều,
người thanh niên dễ mến, mà nó gọi là chú Dự, đến
chơi và ở lại dùng cơm với gia đình nó. Trước đây,
thỉnh thoảng chú có đến đây, nói chuyện với dì Năm
hoặc anh Vinh một chốc rồi về ngay. Hôm nay, chú có ý
định nghỉ lại đêm trong phòng của chúng nó.
Trời vừa sập tối, mọi nhà
đều đã lên đèn. Những bóng đèn dầu tù mù chỉ đủ
soi sáng không gian nhỏ hẹp của riêng mỗi nhà. Nó ngồi
vào bàn học. Anh Vinh của nó đến đứng sau lưng và hỏi:
- Tối nay, em học bài gì?
Đó là câu hỏi gần như hằng
đêm của anh nó. Nó vui vẻ trả lời:
- Em làm toán và học một bài
thuộc lòng.
- Được rồi, toán thì để mai
dậy sớm làm, đem bài học thuộc lòng ra học đi. Đọc
cho to đừng nghỉ cho tới khi nào anh bảo đi ngủ mới
thôi.
Nó ngạc nhiên, cãi lại:
- Nhưng bài học thuộc lòng thì
ngắn lắm và em cũng đã gần thuộc rồi, chỉ cần học
thêm một chút là xong. Toán thì có đến bốn bài, phải
làm cho xong để sáng mai góp tập cho thầy ngay trong giờ
đầu.
Anh nó nghiêm nét mặt:
- Đừng cãi. Tối nay chỉ học
thuộc lòng mà thôi. Thuộc rồi cũng cứ đọc lại cho
thực to. Đọc sang bài khác cũng được, cốt sao đọc
cho to và liên tục.
Nói xong, anh đứng lên, đóng cửa
lại và gài cẩn thận. Cửa sổ vẫn mở, ánh đèn dầu
trên bàn học in một vầng sáng vàng vọt trên nền sân
đất bên ngoài. Nó quay lui, chỉ kịp thấy lưng anh nó
khuất vội qua cánh cửa thông vào buồng trong. Cánh cửa
đóng lại ngay. Qua một khe hở, nó trông thấy vệt sáng
từ chiếc đèn trong buồng di động rồi dừng lại.
Nó tần ngần một phút rồi mở
sách ra đọc. Xong một lượt, nó dừng lại và ngạc
nhiên nghe có tiếng động lạ từ trong buồng phát ra. Tò
mò, nó chăm chú lắng tai. Nó nhận ra rồi. Rõ ràng là
tiếng đào xới; sột sột, tiếng xẻng xắn vào đất;
bịch bịch tiếng những khối đất rơi xuống nền nhà.
Nó chợt hiểu. Dì Năm, chú Dự và anh nó đang đào một
cái hầm bên trong đó. Nó quay lại rống to cho át tiếng
đào đất vọng ra:
- Bà Trưng quê ở Châu Phong, giận
người tham bạo thù chồng chẳng quên….
Hơn một giờ sau, cửa buồng
bỗng hé mở. Nó ngừng đọc, quay lại. Dì Năm bước ra,
không nhìn nó, đến mở cửa thông ra sân và đi thẳng ra
ngoài. Vài phút sau, dì bước vào, vói tay khép cửa sổ
lại để ngăn ánh đèn học của nó hắt ra ngoài rồi
trở vô buồng. Có tiếng rì rầm nói chuyện với nhau. Nó
vội cất tiếng học to trong khi hai bóng người trong buồng
vội lướt qua, khom về phía trước dưới sức nặng của
một bao khá to trên lưng mỗi người.
Công việc diễn ra trong năm hôm
liên tiếp. Đêm đêm nó vẫn căng cổ ra gào to để át
tiếng đào đất trong buồng dì Năm. Anh Vinh và chú Dự
mỗi đêm ba hoặc bốn lần, âm thầm vác những bao đất
ra rải dài trên bờ dốc mà bên dưới là những đường
sắt vô tri vô giác. Sau cùng, công việc chấm dứt. Cái
hầm được giấu kín dưới những tấm ván, bên trên là
đôi gióng, chiếc đòn gánh cùng vài món lặt vặt khác.
Từ lâu không ai nói, nhưng nó
biết rằng dì Năm, chú Dự và anh nó đều đang hoạt
động cho Việt minh và nhà dì Năm là một cơ sở bí mật.
Nó đã qua tuổi mười hai, cái tuổi mà lý trí bắt đầu
có một nhận xét về chính nghĩa và phi nghĩa của cuộc
chiến tranh đang dày xéo quê hương nó, giết chết cha mẹ
nó và đẩy anh em nó vào tận trong nầy. Giữa hai phía
đang tham gia vào cuộc chiến, tình cảm nó ngã hẳn về
phía Việt minh vì cha nó chính là Việt minh đã ngã xuống
và bây giờ, người anh vô cùng thân yêu của nó cũng
đang nối gót theo con đường của cha. Nó chưa ý thức rõ
ràng về sự hiểm nguy của công tác hoạt động địch
hậu trong nội thành nên rất thích thú với cái hầm bí
mật ngay trong nhà nó.
Một hôm nó hỏi anh:
- Cái hầm dưới giường dì Năm
chứa thứ gì vậy?
Anh nó trừng mắt:
- Chuyện của người lớn, không
được tò mò. Tuyệt đối em không được nói cho ai biết
cái hầm và cả những hoạt động trong nhà mình nghe
chưa?
Nó cảm thấy hơi bị chạm tự
ái:
- Em biết chứ. Anh tưởng em ngu
lắm sao?
Anh nó dấu dịu:
- Thôi được rồi. Em lo học bài
đi.
- Nhưng em muốn làm việc đó với
anh.
Vinh nhìn em một cách ngạc nhiên
rồi mỉm cười:
- Được rồi, em lo học đi.
Chuyện đó rồi tính sau.
Không bao lâu sau, ước muốn của
thằng Tân có dịp thực hiện. Hôm đó là ngày thứ năm;
như thường lệ, nó được nghỉ học cả ngày. Từ sáng
sớm, dì Năm quang gánh ra chợ, anh nó đến sở làm để
theo xe đi giao hàng cho hãng. Nhà chỉ còn nó và chú Dự
đêm rồi ngủ lại trên chiếc ghế bố đặt kế bên
giường của nó. Thông thường, ngày nghỉ, nó nhập bọn
với mấy đứa trẻ bày trò chơi ở các nhà có sân rộng.
Sáng nay nó ở nhà vì chú Dự bảo nó:
- Hôm nay, cháu có muốn giúp chú
làm việc không?
Nó hỏi một cách tò mò:
- Việc gì chú? Có phải cái việc
bí mật không?
Chú Dự gật đầu. Nó nói một
cách phấn khởi:
- Làm, cháu làm với chú.
- Thế thì cháu hãy mang một cái
bàn và một cái ghế ra hàng hiên ngồi học. Hôm nay cháu
phải học những bài gì cho ngày mai nào?
- Nhưng chiều hay tối cháu học
cũng được, còn bây giờ cháu dành tất cả thì giờ để
làm việc với chú.
Chú Dự cười:
- Được rồi, chú đang sắp đặt
cho cháu làm việc giúp chú. Nào, nói cho chú biết cháu
phải học những bài gì?
Nó suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Làm ba bài toán và một bài
luận văn.
- Có bài học thuộc lòng không?
- Dạ không.
- Thôi được rồi, đóng cửa
lại và cháu ngồi ở hàng hiên làm toán, làm luận. Cháu
vừa làm bài, vừa để ý người qua lại ngoài đường.
Nếu thấy ai vào sân thì cháu đọc to lên bài học thuộc
lòng mà cháu đã đọc hôm đó….
- Hôm đào hầm?
- Suỵt, đừng nhắc đến chuyện
đào hầm. Cháu còn nhớ bài học thuộc lòng đó không?
- Dạ nhớ chứ. Bà Trưng quê ở
Châu Phong….
- Được rồi. Nghe cháu đọc to
luôn mấy bữa, chú cũng thuộc bài thơ đó luôn. Nầy
nhé, mình dùng bài thơ đó làm ám hiệu báo động.
Nó nhìn chú Dự, mắt sáng lên
một cách thích thú:
- Nghĩa là cháu canh gác để chú
làm việc trong đó.
- Đúng vậy.
- Nhưng tại sao chú không làm ban
đêm như mấy hôm đó. Ban đêm đâu có ai vào nhà mình.
- Không được. Công việc đào
hầm có thể kéo dài và thực hiện từ từ trong nhiều
đêm liên tiếp, còn công việc hôm nay phải làm liên tục
suốt ngày cho xong. Làm ban đêm rất bất tiện vì phài
đốt đèn cho sáng, người ta sẽ để ý ngay.
Giọng chú bỗng trở nên khó
chịu:
- Cháu không nên hỏi nhiều.
Nguyên tắc làm việc là người lớn phân công thế nào
thì cháu cứ lẳng lặng mà thi hành cho thực tốt, cháu
hiểu chưa?
- Dạ hiểu.
Hai chú cháu khiêng bàn ghế, sách
vở ra hàng hiên. Khi cánh cửa khép lại và có tiếng gài
chốt bên trong thì nó ngồi vào ghế và im lặng cúi gập
người trên trang giấy. Buổi sáng, trong xóm khá tĩnh
mịch; văng vẳng có tiếng xe chạy ngoài đường lộ,
tiếng người lớn nói cười và tiếng trẻ em nô đùa.
Vì vậy, nó nghe khá rõ tiếng động từ trong nhà phát
ra. Những tiếng động khá lạ lùng như tiếng gỗ chạm
vào nhau, tiếng một vật gì đó kéo trượt dài trên vải,
xen lẫn với tiếng sột soạt của những tờ giấy giống
như tiếng lật những trang vở học trò.
Gần trưa, dì Năm đi chợ về.
Dì gõ nhẹ vào cửa hai lần ba tiếng gần nhau. Tiếng
động bên trong im bặt, có tiếng chân người lê dép và
tiếng cửa mở ra. Dì Năm vào nhà và cửa lại đóng kín.
Nó lắng tai nghe. Tiếng sột soạt lại bắt đầu, xen lẫn
với tiếng son nồi va chạm vào nhau. Nó biết dì Năm đang
chuẩn bị cho bữa ăn trưa. Một lát sau, cánh cửa đột
ngột mở ra. Nó quay lại, dì Năm tươi cười bảo nó:
- Thôi ngưng học vào ăn cơm đi
con.
Nó đứng lên ngay, cố giữ vẻ
thản nhiên thẳng xuống bếp. Ngang qua căn buồng nhỏ của
dì Năm, nó ngạc nhiên thấy căn buồng vẫn như bình
thường, không có gì khác hơn là chiếc tủ đen thui ở
góc buồng, chiếc gường nhỏ với quang gánh xếp gọn
vào bên dưới. Nó chợt hiểu. Tất cả những gì mà nó
tò mò muốn biết đều đã được cho vào chiếc hầm bí
mật nằm bên dưới kia.
Cơm nước xong, chú Dự lại bảo
nó ra ngoài hàng hiên, ngồi vào bàn học. Cánh cửa đóng
lại, công việc bên trong tiếp tục cho đến hết buổi
chiều.
*
* *
Ngày hai buổi, đến ngôi trường
mà nó vừa mới được nhận vào, thằng Tân phải đi qua
một con hẻm khá rộng, hai bên chỉ có vài căn phố khang
trang, ngoài ra toàn những căn nhà lá lụp xụp xen lẫn
với nhà lợp tôn vách ván. Người ta bảo khu nầy trước
kia là vườn cao su của Pháp. Chiến tranh đẩy dân quê bỏ
ruộng vườn lên đây kiếm sống nên những ngôi nhà mọc
lên nhanh chóng.
Một buổi sáng, vừa bước vào
hẻm, nó bị ngay vài người lính cầm súng chận lại. Nó
chợt nhớ lại cuộc bố ráp mà nó đã chứng kiến ba
năm trước đây ở Mỹ tho, có “con ma” trùm trong bao bố
với hai mắt đen ngòm, lom lom nhìn những vòng người
khiếp hãi chung quanh. Nó lo sợ lại bị trễ học như dạo
nọ nên hỏi một chị đang đứng cạnh:
- Tại sao người ta chận đường
vậy? Có bố ráp trong đó phải không?
- Không phải bố ráp. Hồi hôm
Việt minh về rải truyền đơn cùng khắp xóm. Lính chận
lại để lượm cho sạch rồi mới cho đi.
Nghe chị nói, nó sực liên tưởng
đến công việc bí mật trong nhà nó trước đây vài hôm.
Những tờ truyền đơn nầy có thể đã được in trong
nhà nó và đã được đem rải trong xóm nầy. Nó bỗng
cảm thấy thích thú vì chính nó biết được cái nơi
xuất phát cảnh nhốn nháo trước mặt nó. Hơn nữa, nó
cũng đã góp công phần nào làm ra những tờ truyền đơn
nầy. Nó đã canh gác để chú Dự làm việc và chú cùng
nó đã định ra mật hiệu báo động là bài học thuộc
lòng của nó. Những người ở đây không ai biết được
điều đó, chỉ một mình nó biết mà thôi.
Nhưng có quả thực là chú Dự
in truyền đơn như nó phỏng đoán hay không? Và nếu đúng
như thế thì những tờ truyền đơn nói gì trong đó? Có
giống những tờ mà nó đã đọc lúc còn ở Mỹ tho
không? Nó đã canh gác cho chú Dự in tức là đã tham gia
vào công việc thì nó phải biết là việc gì mới được.
Nhất định nó phải tìm hiểu cho thỏa tính tò mò. Nó
nhớ lời của chú Dự và của anh Vinh căn dăn nó không
được dòm vào chuyện người lớn. Lời dặn đó chỉ
làm tăng thêm tính tò mò của nó mà thôi.
Hai hôm sau vào buổi sáng chúa
nhật, mọi người đều đi vắng, chỉ một mình nó ở
nhà. Nó đóng cửa trước, gài kỹ lưỡng rồi lần vào
buồng trong, gài thêm một lần cửa nữa. Trong ánh sáng
lờ mờ nó nhận thấy bên dưới giường của dì Năm
trống rổng vì quang gánh đã được dì mang đi chợ sáng
nay. Thay vào đó là một nùi giẻ dơ dáy, một bao đựng
gạo và vài tờ nhật báo nằm rải rác che kín mặt đất.
Nó lần tay xuống thì chạm ngay nắp ván. Nó tìm cách
nâng nắp lên nhưng không thể được. Nó loay hoay một
chốc rồi đứng dậy suy nghĩ. Nó cúi xuống nhìn kỹ và
nhận ra cái nắp được đóng rất khít trong khung gỗ. Ắt
hẳn phải có một chốt cài. Phải tìm ra cái chốt đó
mới có thể mở nắp được. Nó lần mò đến phía đầu
giường và tìm được cái chốt đó. Nó ấn mạnh vào
chốt, nắp hầm hé mở. Nó vội vàng nâng nắp lên rồi
chống hai tay vào miệng hầm, dùng đầu giữ lấy nắp.
Nó căng mắt nhìn nhưng bên dưới tối đen chẳng thấy
gì. Nó đưa bàn tay xuống mò thì đụng ngay một xấp
giấy. Nó bốc một nắm, đưa lên chỗ sáng nhìn thấy
chữ chi chít. Nó mừng rỡ vì biết chắc đó là những
tờ truyền đơn đã được in ra trước đây vài ngày và
có lẽ chưa kịp phân phát hết cho các nơi. Nó lùi lại,
ngồi xổm, dùng hai tay đậy nắp hầm, đẩy cái chốt
lại như cũ, kéo nùi giẻ và những tờ báo che nắp hầm.
Nó đứng lên quan sát một lần
nữa rồi mở cửa buồng ra. Nó đến ngồi trên giường,
lật một tờ giấy ra đọc. Những dòng chữ nói đến
thắng lợi của Việt minh trên nhiều chiến trường từ
Bắc vô Nam và sau cùng kêu gọi thanh niên chống lại sự
bắt lính của quân thù.
Có tiếng ai đó nói to trước
nhà. Thằng Tân hoảng hốt nhét vội xấp truyền đơn
xuống chiếu và đứng dậy ra mở cửa, trống ngực đập
thình thịch. Một người đàn bà lạ, đứng trong sân hỏi
to:
- Đây có phải nhà cô Hạnh
không em?
- Dạ không, nhà cô Hạnh trong
kia, bà đi thêm một đoạn nữa.
Nó trở vào nhà, thở ra nhẹ
nhõm. Nó ngồi xuống giường, nghĩ đến một chương
trình hành động thực hấp dẫn với xấp truyền đơn
vừa đánh cắp được. Nó nhớ, hai hôm trước, khi đứng
đợi những người lính đi lượm cho hết những tờ
truyền đơn, nó tưởng tượng trong đêm khuya, chính nó
đi làm công việc rải những tờ truyền đơn đó. Ý nghĩ
nầy đã làm cho nó rất hào hứng. Bây giờ, có truyền
đơn trong tay rồi, nhất định phải làm một cái gì đó
mới được.
*
* *
Trường Tiểu học Chí hòa nằm
trên một khu đất trống, không có tường rào gì cả.
Trường gồm bốn dãy phòng. Một hành lang nối liền hàng
hiên của các dãy. Dãy đầu tiên có phòng hiệu trưởng,
phòng nhân viên và hai lớp nhất. Trước trường là khu
đất trống rộng mênh mông, với những cây hoang dại lúp
xúp và cỏ xanh rì. Đứng trước lớp, nó có thể nhìn
xuyên qua khu đất trống đó và thấy rõ ràng khám Chí
hòa, một ngôi nhà đồ sộ có tường cao bao bọc chung
quanh.
Khu đất trống chính là nơi đùa
giỡn rất lý thú của bọn con trai. Về mùa nắng, đó là
nơi đá banh và thả diều mỗi buổi chiều tan học. Bắt
đầu sa mưa, học sinh thường đến trường rất sớm,
lùng sục vào đám đất hoang để tìm bắt dế đá. Vì
vậy, gia đình ông gác trường đã quá quen với cảnh
những đứa học trò nhỏ có mặt lúc trời chưa sáng
hẳn, quăng cặp học trên hàng hiên của lớp và lao đi
tìm dế.
Sáng nay, thằng Tân vào trường
rất sớm. Trường vắng ngắt, gia đình bác gác trường
vẫn chưa thức dậy, ngôi nhà nhỏ dành riêng cho bác còn
đóng cửa im ỉm. Nó nhón chân đi qua các hàng hiên, nhanh
nhẹn rút một tờ truyền đơn nhét vào khe cửa của mỗi
lớp, còn lại nhiều tờ nó cho vào khe cửa phòng học
của nó. Phải dành ưu tiên cho lớp mình chứ. Xong xuôi,
nó thở ra một cách khoái trá và lủi ra khu đất hoang.
Mùa mưa vừa chấm dứt, khu đất
hoang nhiều nơi còn sũng nước, cây cỏ mọc um tùm vì
nhiều tháng qua không có những bàn chân của bọn trẻ
dẫm lên. Nó ngần ngại quay lui nhìn ngôi trường đang
bắt đầu sáng rực lên trong ánh bình minh. Nó rời khu
đất hoang, men theo một con đường nhỏ đi vào xóm trên.
Nó đánh một vòng khá rộng rồi trở lại trường. Từ
xa, nó đã thấy lố nhố học sinh lũ lượt trên đường
đi, nhiều đứa đang đứng trên sân trường và trên các
hành lang.
Một hồi trống vang lên, báo
hiệu giờ học sắp bắt đầu. Học sinh nhanh chóng sắp
hàng trước cửa lớp còn đóng kín. Kể từ khi có một
khẩu hiệu của Việt minh viết nguệch ngoạc bằng sơn
đỏ trên bức tường trong lớp nhì “C” cách nay hai
tháng, các lớp chỉ được mở cửa khi giờ học bắt
đầu. Vì vậy, khi nghe tiếng trống, học sinh sắp hàng
trước lớp, chờ đợi bác lao công mang một chùm chìa
khóa to tướng lần lượt đi mở cửa từ lớp nầy đến
lớp nọ, bắt đầu từ các lớp của dãy cuối cùng.
Bỗng nhiên có tiếng ồn ào nổi
lên, bác lao công già hớt hơ hớt hải chạy vào phòng
hiệu trưởng. Cả trường đều nhốn nháo. Học sinh các
lớp bỏ cả hàng ngũ chạy ra các hành lang dòm ngó một
cách tò mò.
Từ phòng hiệu trưởng, bác lao
công già vội vã bước ra, leo lên xe đạp phóng đi. Không
lâu sau, có tiếng còi hụ vang. Hai xe chở đầy cảnh sát
chạy vào sân trường. Thầy cô từ văn phòng túa về các
lớp lùa học sinh ra sân và sắp hàng ngay ngắn. “Chuyện
gì vậy?”.Học sinh hỏi han nhau. “Việt minh rải truyền
đơn trong trường”, tiếng một thầy giáo trả lời cho
học sinh.
Ông hiệu trưởng dẫn toán cảnh
sát đi về dãy cuối, mặt ông tái xanh vì lo lắng và vì
sợ hãi. Các cửa phòng học lần lượt được mở ra;
mỗi phòng đều có một tờ truyền đơn, cảnh sát nhặt
lấy ngay. Đến phòng nó, cửa vừa mở, có nhiều tiếng
“ồ” vang lên cùng lúc; những tờ truyền đơn trắng
xoá phủ kín lối đi vào. Một người cảnh sát cúi xuống
lượm. Nhiều người quay nhìn lớp nó. Thầy giáo Hải
mặt tái xanh, học sinh cả lớp im thin thít.
Thầy trò lần lượt trở vào
lớp học, riêng lớp nó vẫn được lệnh đứng ngoài.
Một viên cảnh sát đến gần gằn giọng:
- Trong lớp mấy em, ai mang truyền
đơn Việt minh vào trường? Em nào biết tố cáo ngay đi,
nếu không tất cả các em sẽ bị đưa về bót để điều
tra. Ai biết, nói nhanh.
Cả lớp sợ hãi im thin thít.
Viên cảnh sát đang tiếp tục gầm thét thì người chỉ
huy đến gần vỗ vai:
- Thôi về. Bọn nhóc con nầy
chẳng biết gì đâu. Cho bọn nó vào học.
Viên cảnh sát, mặt vẫn còn vẻ
tức giận, cố cãi:
- Nếu không phải bọn nầy thì
tại sao lớp nó có nguyên cả một xấp giấy khốn nạn
nầy?
Viên chỉ huy cười:
- Không phải bọn nầy rải đâu.
Nếu một đứa trong bọn nầy rải thì nó dại gì làm
cho lớp nó khác với những lớp kia. Thôi rút lui.
Hai chiếc xe rú máy lao ra khỏi
sân trường. Thầy Hải dẫn học sinh vào lớp. Buổi học
hôm đó thực nhạt nhẽo, thầy thì chưa hết sợ hãi còn
trò thì thích tiếp tục bàn tán với nhau hơn là nghe lời
thầy giảng.
Khi trống trường báo hiệu tan
học, thầy và trò đều thở hơi dài khoan khoái và ra về.
Thằng Tân vừa đi vừa nhớ trò chơi của nó sáng nay, nó
không ngờ chỉ mất một chút thì giờ khi sáng sớm mà
làm cho bao người lớn phải hốt hoảng. Nó thích thú
cười một mình. Tuy nhiên khi về đến gần nhà, nó chợt
thấy lo lắng. Chuyện sáng nay ở trường ồn ào như vậy,
liệu có đến tai dì Năm hay không? Có lẽ dì Năm đã hay
biết rồi vì chợ là cái nơi người ta thông báo cho nhau
một cách nhanh chóng mọi tin tức gần xa. Nếu những
người lớn trong gia đình khám phá ra mất một số truyền
đơn và số truyền đơn bị mất lại xuất hiện trong
trường thì chắc chắn “kỳ công” của nó bị bại lộ
và chưa biết dì Năm, chú Dự và anh Vinh sẽ la rầy hay
trừng phạt nó đến mức nào. Nụ cười tắt trên môi
nó; nó đi về, càng gần đến nhà thì nỗi lo lắng lại
tăng lên.
Buổi trưa, chỉ có nó và dì Năm
ăn cơm tại nhà. Nó nuốt vội một chén cơm rồi buông
đũa, lấy sách ra nằm trên đi văng để học bài. Nó
không có can đảm ngồi ăn lâu với dì Năm, sợ dì mang
chuyện rải truyền đơn ra hỏi.
Tan giờ học buổi chiều, trên
đường về, nó vẫn mang tâm trạng lo lắng. Bữa cơm
chiều có đủ bốn người nên câu chuyện thường vui vẻ
hơn bữa cơm trưa. Trước hết là lời của chú Dự hỏi
nó:
- Nghe nói sáng nay có rải truyền
đơn trong trường, cháu có biết không?
Nó rất hồi hộp nhưng cố giữ
bình tĩnh để trả lời:
- Dạ có. Hai xe đầy cảnh sát
vào lượm hết.
- Cháu có biết truyền đơn nói
gì không?
- Dạ kêu gọi thanh niên chống
bắt lính.
Nó giật mình. Tất cả truyền
đơn đều bị tịch thu, có học sinh nào đọc được
đâu. Nếu chú Dự hỏi tại sao nó biết nội dung của
truyền đơn thì nó phải trả lời thế nào cho xuôi tai.
Cũng may, chú Dự và hai người kia không để ý. Dì Năm
chen lời:
- Không biết bộ phận nào phụ
trách khu đó vậy. Nhưng tại sao lại kêu gọi chống bắt
lính trong trường tiểu học. Thầy giáo thì đâu phải đi
lính, học sinh thì còn nhỏ quá, chống bắt lính nỗi gì.
Chú Dự giải thích:
- Khu ủy ra nghị quyết chống
bắt lính thì các cơ sở cứ thế mà làm, chỗ nào rải
được truyền đơn thì cứ rải chứ chẳng cần biết
hiệu quả thế nào. Mình chống thì chống, chúng nó bắt
thì cứ vẫn bắt một cách ồ ạt.
Vinh chen lời, hỏi chú:
- Nghe nói bây giờ chúng nó bắt
lính một cách bừa bãi lắm phải không?
- Rất bừa bãi. Tây ra lệnh cho
những người đến tuổi phải vào trại huấn luyện để
ra cầm súng đánh Việt minh. Lệnh gọi đến nhà thì
thanh niên bỏ trốn. Hơn nữa, từ khi chiến tranh bắt
đầu, dân quê đổ lên thành phố hầu hết không khai báo
gì cả nên một phần không nhỏ thanh niên đến tuổi đi
lính, không có trong hồ sơ sổ sách. Vì vậy, chính quyền
theo lệnh của Tây bất ngờ chận trước cửa những rạp
hát và những chỗ đông đúc khác, bắt tất cả đàn ông
nhỏ tuổi chở lên xe về trại huấn luyện. Hôm nọ ở
trước rạp hát Văn cầm xảy ra một chuyện thực buồn
cười.
- Chuyện gì vậy?
- Có một anh chàng dáng còn trẻ
nhưng miệng móm mém bị lính bắt đưa lên xe. Anh ta la
to: “Tôi già rồi, răng cỏ rụng hết thì còn đánh đá
gì được nữa”. Nói xong, anh há miệng ra, phía trước
chỉ còn hai cái lợi trụi lủi. Đám đông bu chung quanh
cười ồ. Viên thượng sĩ, nhìn ông ta, tức giận quát
to: “Anh đi lính, ra chiến trường bắn nhau bằng súng
đạn chớ đâu phải ra đó cắn nhau với Việt minh đâu
mà anh bảo không có răng thì khỏi đi lính.” Đám đông
bu chung quanh càng cười to, kể cả những người đang bị
bắt. Cái anh thanh niên hết răng ngơ ngác nhìn mọi người
rồi lủi thủi lên xe.
Khi chú Dự kể xong, cả nhà cùng
cười. Chú quay sang anh Vinh:
- Những thanh niên bị bắt về
trại nhập ngũ sẽ được lọc lựa. Ai có công ăn việc
làm ở công hoặc tư sở thì được thả ra vì chúng cũng
muốn giữ sinh hoạt dân sự bình thường. Chỉ những
người vô công rồi nghề thì bị bắt đi luôn. Cháu là
tư chức không đáng ngại, nhưng cũng nên tránh vào rạp
hát. Nếu bị bắt đi mà được cho về cũng mất hết
vài ngày, có khi bị hãng xưởng cho nghỉ việc luôn.
Câu chuyện tới đó chấm dứt.
Thằng Tân rất mừng vì không bị khám phá đã trộm
truyền đơn đi rải.
*
* *
Cuối năm học, Tân thi đậu tiểu
học rồi lại đậu luôn vào trường Trung học Pétrus
Trương vĩnh Ký sau một kỳ thi tuyển khá gay go. Anh nó
hết sức vui mừng và thưởng ngay cho nó một chiếc xe
đạp vì trường cách xa nhà đến non ba cây số. Từ ngày
nó có xe đạp, chú Dự giao thêm cho nó nhiệm vụ liên
lạc và chuyển tài liệu, chính yếu là những bó truyền
đơn đến nhiều nơi trong thành phố. Nhiều lần, nó
quăng bó tài liệu qua bức tường cao của một ngôi nhà
đã được chú Dự chỉ rõ, có hôm nó trao tài liệu cho
một ông già đội mũ bê rê xanh đứng hóng mát tại một
ngã tư đường, hoặc cho một chị bán hàng mặc áo tím,
cổ có quàng chiếc khăn hồng.
Nó thường đi giao tài liệu vào
buổi chiều lúc trời đã sẩm tối, khi mắt không trông
rõ cảnh vật xa xa vì ánh đèn đường vàng vọt không
thay thế được ánh sáng của một ngày vừa mới tắt
trên đường phố.
Khi nó ở trường về, dựng xe
trước thềm nhà và bước vào là cánh cửa đóng lại
ngay. Hầm bí mật được nâng lên rồi ập xuống tức
thì. Nó rốc tất cả sách vở trong cặp ra, nhận gói tài
liệu từ tay dì Năm, chăm chú nghe những lời dặn và ra
đi sau khi gài cẩn thận chiếc cặp vào sườn xe. Đôi
khi, nó nhận tài liệu vào buổi trưa, mang vào lớp suốt
buổi học và đi giao buổi chiều trên đường về. Chú
Dự, dì Năm và cả anh Vinh luôn luôn nhắc nhở nó phải
cẩn thận vì đây là những thứ gây nguy hiểm chết
người. Nếu rơi vào tay địch, không phải chỉ hại cho
thân nó mà toàn bộ tổ chức bị lâm nguy. Nó vâng dạ
nhưng chẳng sợ hãi chút nào. Nó tin vào sự an toàn của
công việc mà nó nhận lãnh. Nó ung dung đạp xe mang tài
liệu đi giao, không khác tí nào với lúc đạp xe đến
trường hay dạo chơi trên phố. Nó đã làm bổn phận một
cách hoàn hảo, những người lớn trong nhà tỏ ra rất
hài lòng và tín nhiệm.
Tuy nhiên có một lần nó suýt
lâm nguy vì cái tính ham chơi của nó.
Trò chơi mà nó và các bạn cùng
lớp thích nhất là môn đá banh. Trước trường, bên kia
đường là một bãi đất trống được chúng nó dùng làm
sân banh. Mỗi buổi trưa, nó và một số bạn đi học rất
sớm, đến nơi là lập tức quăng xe đạp dưới gốc
những cây cổ thụ dọc theo hai bên đường. Chúng cởi
phăng áo và quần dài, nhào ra bãi trống và quần nhau với
quả banh cao su, dưới cái nắng đổ lửa cho đến khi
nghe hồi trống báo hiệu cửa trường sắp mở.
Những trận đấu banh buổi trưa
thì vui vì có đông cầu thủ nhưng không thích thú bằng
buổi chiều. Tan học, hầu hết học sinh về nhà, chỉ
còn một số ít ở lại chơi. Đó là những đứa biết
luật lệ đá banh nên chia thành hai phe rõ rệt, một phe
mặc áo, một phe cởi trần, có cả trọng tài không dùng
còi mà dùng miệng hét to để điều khiển trận đấu.
Cầu môn là hai đống ngổn ngang gồm cặp học, áo quần,
giày dép, vân vân.
Trận đấu thường diễn ra sôi
nổi, có bàn thắng bàn thua hẳn hòi cho đến khi đường
phố bắt đầu lên đèn thì kết thúc; cầu thủ hể hả
đạp xe ra về và một số sẽ nhận những roi đòn của
cha mẹ đang đứng tựa cửa ngóng trông. Nó không thuộc
vào nhóm trẻ bị ăn đòn nhưng nó rất ít tham gia vào
các trận đấu buổi chiều vì ngại anh nó đợi cơm ở
nhà. Từ ngày anh nó thôi học để đi làm việc thì nó
biết anh đã thay thế cha mẹ nuôi nấng nó, nhờ vậy nó
có thể đến trường như bao đứa trẻ khác. Quả thực
nó không dám làm phật lòng anh, nhưng mỗi buổi chiều,
nhìn những thằng bạn ở lại đang cởi áo quần chuẩn
bị cho trận đấu, nó đành đạp xe về nhà với nỗi
thèm thuồng to lớn.
Hôm nay, nó có thể ở lại dự
trận đấu. Các bạn sẽ rất vui mừng khi nó ở lại
tham gia cuộc chơi vì nó có kỹ thuật lừa banh khá nhất
trong bọn và bên nào cũng giành nó về phe mình. Trong suốt
buổi học, nó thường nghĩ đến trận đấu chiều nay.
Thỉnh thoảng, nó thò tay vào hộc bàn, nắn cái cặp căng
phồng. Gói tài liệu bí mật bên trong chính là tờ giấy
phép cho nó về trễ đến lúc nào cũng được. Nơi nhận
gói tài liệu nầy là một căn nhà ở mãi trong Chợ lớn.
Nó không sợ mất thì giờ tìm địa chỉ vì căn nhà đó
dễ tìm và nó đã đến đấy một lần. Nó sẽ vui chơi
thỏa thích với trận banh chiều nay rồi sẽ đạp xe đến
ngôi nhà đó sau.
Nó hăng hái lao vào cuộc chơi
sau khi vứt mọi thứ vào trụ cầu môn của phe nó. Cuộc
chơi diễn ra thực sôi nổi cho đến lúc trời bắt đầu
sâm sẩm tối, trọng tài tuyên bố kết thúc trận đấu.
Cả bọn chạy vội đến hai đầu sân để lấy áo quần
thật nhanh. Bấy giờ nó mới nhớ đến xấp tài liệu
chết người trong cặp nên lao ngay đến đống đồ vật
làm trụ cầu môn.
Nó chết sững, còn một ít đồ
đạc nằm lăn lóc, cái áo và đôi dép của nó còn đó
nhưng cái cặp biến mất. Nó hét to:
- Ê tụi bây, đứa nào lấy cặp
của tao, trả lại đây.
Trời bắt đầu tối. Nó phóng
lại mấy đứa đã dẫn xe ra đường, giọng lạc hẳn
đi:
- Khoan về đã. Đứa nào lấy
lộn cặp tao trả lại đây.
Nghe tiếng hét lạc giọng của
nó, cả bọn dừng lại. Một đứa nói to:
- Cặp tao đây nầy, mày lại xem
có phải của mày không.
Rồi một giọng khác:
- Kìa, còn cái cặp đằng kia
chưa ai lấy. Không phải của mày hả, vậy thì thằng nào
lấy lộn rồi.
- Thôi đúng rồi, hồi nãy thằng
Châu bên tao về sớm, chắc nó lấy rồi.
- Bên tao, thằng Thu cũng về sớm.
Thôi ôm cặp của nó về đi, ngày mai đổi lại.
Thằng Tân hét to:
- Không được, cặp tao có….
Nó kịp dừng lại. Một giọng
nói tiếp theo:
- Có gì? Tiền? Nhiều lắm hả?
Đi học mang theo nhiều tiền làm gì? Ai gởi cho mày phải
không? Chà chà, mất thì khổ thân con. Mày lại mở xem
cái cặp bỏ lại thì có thể biết thằng nào lấy lộn
cặp mày. Vở nào cũng có ghi tên trên étiquette.
Tân chạy ngay đến chiếc cặp,
vội vàng mở ra rút một quyển vở mang lại ánh đèn
đường đọc to:
- Elève Vũ thanh Châu.
Có tiếng một đứa la lên:
- Đúng rồi, thằng Vũ thanh Châu
lớp tao. Nhà nó ở Phú nhuận.
Thằng Tân chụp vai thằng vừa
nói:
- Ở Phú nhuận mà chỗ nào? Mày
biết nhà thì làm ơn dẫn tao đến đó ngay bây giờ đi.
- Không được. Nhà tao ở Phú
thọ, ngược đường, tao phải về ngay. Ba tao đang cầm
roi đợi tao ở nhà đó. Mày đi một mình đi. Nhà nó dễ
tìm lắm. Đến cổng xe lửa, mày nhìn vô phía bên trái
độ một trăm mét thấy cái nhà nào có trồng bông giấy
um tùm phía trước là nhà nó. Tìm không ra thì hỏi hàng
xóm. Nhanh lên, nếu không, rủi có ai trong nhà nó lục cặp
ra lấy tiền thì nguy.
Nhanh lên, phải rồi. Nếu thằng
Châu về nhà lục cặp thấy gói tài liệu ắt sẽ tò mò
mở ra xem rồi la toáng lên. Ba má nó sẽ đi trình cảnh
sát để tránh bị liên lụy. Trong cặp lại có những
quyển vở đề tên của nó. Thế là hết chối cãi và cả
nhà nó sẽ chết hết. Trời đất hỡi!
Nó mặc áo vội vàng, lượm
chiếc cặp của thằng Châu, đẩy xe đạp ra đường và
phóng chạy. Nó thở hồng hộc, đầu cứ bưng bưng vì
những lời dặn của chú Dự: “Nguy hiểm chết người…
Không những có hại cho cháu mà cả tổ chức cũng lâm
nguy”. Trời ơi, anh nó cũng ở trong tổ chức kia mà.
Chuyến nầy, nó làm hại anh nó rồi!
Mười lăm phút sau, nó đến cổng
xe lửa. Kia kìa, nhà có nhiều bông giấy. Nó xông đến
đập rầm rầm vào cánh cổng. Thằng Châu chạy ra, hỏi
to:
- Ai đó?
Nó hổn hển trả lời:
- Tao là Tân đây. Mầy lấy lộn
cặp tao, có biết không?
- Không, tao không biết. Nó còn
nằm trên xe đạp của tao kia kìa.
Thế là hai đứa trao đổi cặp
cho nhau. Chiếc cặp vẫn còn nguyên vẹn. Bó tài liệu vẫn
còn nằm bên trong làm cho cái cặp phồng lên một cách
đáng yêu. Khi thằng Châu quay lưng đi vào, nó nâng cái
cặp lên và hôn một cách đắm đuối. Nó cảm thấy hai
chân mỏi nhừ vì một buổi chiều đá banh rồi lại phải
đạp xe như bay từ trường đến đây. Tuy nhiên, nó phải
vội lên xe phóng vào Chợ lớn rồi trở về nhà trước
khi giờ giới nghiêm bắt đầu.
*
* *
Một buổi chiều, đi học về,
thằng Tân quăng cặp sách trên bàn, chạy ào xuống bếp,
suýt đụng phải dì Năm. Dì hét to:
- Thằng nầy, chạy đi đâu dữ
vậy. Đổ hết trơn hết trọi rồi đây.
Thằng bé cười khì khì:
- Dì Năm, anh Vinh chưa về hả
dì?
- Chưa, hôm nay nó đi giao hàng
dưới tỉnh. Hồi trưa nó ghé về bảo rằng phải đi
giao tận Cái bè, Cai lậy gì đó nên về rất trễ. Nếu
quá giờ giới nghiêm mà nó chưa về thì nó ngủ lại
dưới đó hay trong sở của nó.
Thằng bé có vẻ thất vọng,
quay lên nhà, không dấu được vẻ bồn chồn. Dì Năm
nhận ra cái vẻ đó nên đun vội cây củi vào bếp và
ngẩng đầu lên hỏi to:
- Tân, có chuyện gì phải không
con?
- Dì Năm, hôm nay trong trường
con có chuyện hay lắm, con muốn về kể cho anh Vinh nghe.
Anh con ghét Tây lắm nên chuyện nầy chắc làm cho ảnh
vui thích.
- Con kể cho dì nghe không được
sao? Dì có thương thằng Tây đâu.
- Dì biết đường Hui bon Hoa
không?
- Biết. Đường đó ở Ngã Bảy
đi lên trường con.
Tân gật đầu:
- Dạ phải. Ở đó có một thành
lính toàn là lê dương, có nhiều thằng đen như cột nhà
cháy. Dì có biết thành lính đó không?
- Không biết. Ở Sài gòn có
nhiều thành lính Tây lắm, làm sao biết hết được.
Thằng Tân tỏ vẻ tự đắc:
- Con biết thành lính đó.
- Có chuyện gì trong đó phải
không?
- Chuyện không xảy ra trong đó
mà ngay cổng trường con. Trưa nay, tụi con đang đá banh
trước trường để chờ giờ học thì có hai anh Tây đen
từ hướng Hui bon Hoa đi lên. Đám học trò đang đứng
chơi dưới bóng mát của mấy cây còng bên lề đường,
phát la to: “Ê tụi bây, Tây đen”. Tiếp theo là nhiều
tiếng hét: “Đập chết cha nó đi, trả thù cho anh Ơn”.
Thế là hai anh Tây đen bị một trận mưa gạch đá ném
vào. Cả hai hoảng hốt quay lui bỏ chạy.
Dì Năm chú ý nghe một cách sửng
sốt, vừa hứng thú, vừa lo sợ. Dì hỏi nhanh:
- Chúng nó không mang súng theo à?
- Không, hai đứa đi tay không,
chẳng súng ống gì cả. Vì vậy tụi con mới dám chơi.
Nếu chúng nó có mang súng theo thì ai mà dám đụng đến.
Dì Năm có vẻ sốt ruột:
- Rồi sao nữa? Chúng nó có bị
trúng đá của tụi bây không?
- Có chớ sao không. Hai bên đường
có nhiều đá lắm. Lục lộ đang rải để làm đường
cho người đi bộ. Con thấy rõ ràng có một anh bị chảy
máu đầu. Hai anh quay lui chạy nhưng không thoát được.
Học trò đông lắm. Mấy đứa vừa đến cũng tham gia xáp
chiến. Có một đứa quăng chiếc xe đạp vào làm cho một
anh Tây đen ngã nhào trên mặt đường lộ. Anh kia vội
quay lui lôi bạn dậy và cùng chạy về phía Ngã Sáu. Tụi
con hò hét đuổi theo đến hết đường Nancy thì gặp xe
cảnh sát trờ tới chặn lại.
- Lúc đó đồng bào có tham gia
không?
- Con không biết, học trò đông
lắm nên không biết có đồng bào hay không.
Dì Năm khẳng định:
- Chắc sau đó thế nào đồng
bào cũng tham gia cuộc đấu tranh của các con.
Thằng bé ngạc nhiên:
- Đấu tranh gì hả dì Năm?
- Đấu tranh chống thực dân Pháp
cùng các con.
Tân lắc đầu:
- Tụi con có nghĩ tới đấu
tranh gì đâu. Nghe thằng nào đó hét lên thì chúng con
nhào ra liệng đá vì hào hứng đó thôi. Vì ham vui mà làm
đó mà.
- Nhưng tại sao các con lại lựa
hai thằng Tây đen mà liệng đá?
- Mấy hôm trước tụi con vừa
làm đám giỗ cho anh Ơn thì bị đuổi chạy tán loạn.
Mấy tờ truyền đơn mà mấy anh lớp lớn học buổi sáng
để lại trong hộc bàn tụi con bảo rằng anh Ơn bị Tây
bắn chết. Vì vậy, thấy hai anh Tây đen, nhiều đứa
trong tụi con nhớ chuyện đó nên rượt chúng nó chạy.
Dì Năm coi bộ hứng khởi lắm:
- Trong trường có rải truyền
đơn hả?
- Có, nhưng không phải rải mà
cho vào bàn học trò. Chắc có tổ chức nào đó cũng làm
như mình phải không dì?
Dì cười hiền lành:
- Thiếu gì tổ chức. Khắp cả
Sài gòn nầy chỗ nào cũng có Việt minh. À, tụi con làm
đám giỗ trò Ơn ra sao?
- Trước giờ vào lớp, con thấy
ở vài góc tường và phòng học, học trò túm tụm đốt
nhang, có đứa đốt cả đèn cầy nữa. Tụi mật thám
lùng sục đuổi học trò chạy và gom hết nhang đèn. Giờ
chơi, tụi nó lại lén đốt nữa, lại bị đuổi chạy.
Cũng vui nhưng sao con thấy….
Nó nhăn mặt rồi nói tiếp:
- Như trò giỡn chơi, chẳng có ý
nghĩa gì cả.
Dì Năm cãi lại:
- Có ý nghĩa lắm chứ. Chuyện
đó nhắc nhở học sinh các con mối căm thù với quân
giặc trong việc đàn áp dã man sinh viên học sinh. Chủ
trương của lãnh đạo Việt minh là luôn luôn nuôi dưỡng
lòng căm thù trong quần chúng. Mà con có tham gia vô chuyện
đó, nghĩa là có vác đá liệng thằng Tây hay không?
- Không.
- Đúng rồi. Mấy việc đó dành
riêng cho quần chúng. Con là người trong tổ chức không
nên dính vào.
- Con không nghĩ như vậy. Con
không tham gia là vì thấy việc đó có vẻ tàn ác quá.
Dì cười hiền lành:
- Cháu của dì thực là nhân đức.
Nhưng, trên con đường cách mạng, đôi khi lòng nhân đức
cũng gây trở ngại.
Tân im lặng một lúc rồi lên
nhà trên lấy bài ra học.
*
* *
Sài gòn rúng động vì một loạt
những vụ nổ nơi đông người, làm cho nhiều thường
dân chết và bị thương. Quả lựu đạn nổ trong rạp
hát, khối chất nổ được nhét đầy trong ống sườn xe
đạp nổ tung trên đường phố đông đúc, quả mìn dấu
trong giỏ xách được đặt vào nơi kín đáo trước cửa
chợ nổ tung vào giờ chợ đang đông…. Những cái chết
bi thảm, những thân thể quằn quại trong vũng máu nhắc
nhở mọi người rằng cách mạng có mặt khắp nơi trên
đất nước nầy, rằng không được xem là an toàn dưới
sự che chở của kẻ thù.
Mỗi lần xảy ra một vụ nổ,
báo chí đều đăng tải tỉ mỉ các chi tiết, gây nên sự
bàn tán xôn xao khắp nơi kể cả các lớp học. Trẻ con
thích những tin tức rùng rợn như thế nên lập tức
chúng kể cho nhau những gì chúng nghe được từ cha mẹ,
anh chị trong nhà, từ hàng xóm và từ những người lạ
mặt trên đường phố. Câu chuyện chúng kể lại thường
được thêm thắt, có khi thành một chuyện có đầu có
đuôi, biến những kẻ sát nhân thành những vị anh hùng
tài ba lỗi lạc. Thấy bạn bè kể những câu chuyện thực
ly kỳ hấp dẫn, thằng Tân nảy ra ý muốn được chứng
kiến một lần tận mắt.
Nó không phải chờ đợi lâu.
Một buổi sáng chúa nhật, anh Vinh cho nó tiền để đi
xem cine tại rạp Nam Quang. Sau khi mua vé xong, nó cùng đám
đông đứng chờ đợi được khám xét trước khi vào
rạp.
Nơi cửa vào chỉ mở một lối
nhỏ vừa hai người đi. Hai bên cửa là hai người cảnh
sát, một đàn ông và một đàn bà, giữ nhiệm vụ khám
xét. Khán giả chia làm hai hàng, một bên nam, một bên nữ
lần lượt bước đến, tay đưa cao lên trời. Một người
cảnh sát nhanh nhẹn vuốt dọc thân thể khán giả từ
trên nách đến tận bàn chân để tìm xem có lựu đạn
hay chất nổ mang theo hay không. Bên dãy nam, sự khám xét
diễn ra giản dị, người ta lần lượt nối đuôi vào
làm cho đoàn người ngắn đi một cách nhanh chóng. Bên
dãy nữ thì phức tạp và chậm chạp hơn vì phải khám
những chiếc ví và giỏ xách mà mỗi bà, mỗi cô thường
mang theo. Cuối cùng, mọi người đều vào rạp, các ghế
trống được lấp đầy.
Đèn trong rạp tắt phụp; trên
màn bạc, sau một khúc phim thời sự, phim chính thức bắt
đầu. Người xem đang say sưa theo dõi thì “rầm”, một
tiếng nổ long trời làm ù tai mọi người. Lập tức,
tiếng la hét nổi lên như sấm dậy, trong phòng tối đen,
nỗi kinh hoàng lên đến tột đỉnh. Cửa ra vào bị đẩy
tung , bức màn nhung nặng nề rơi xuống úp chụp một số
người trong đó. Họ chưa kịp vùng dậy thì đám đông
đã dẫm lên để tràn ra ngoài.
Thằng Tân đứng bật dậy vọt
ra nhưng vấp phải thanh ghế, ngã chúi về phía trước,
trán đập vào một vật gì đó làm nó đau điếng. Nó ôm
đầu đứng dậy thì vừa lúc đèn bật sáng. Sau lưng nó,
cánh cửa thoát hiểm mở tung. Nó quay lui vọt nhanh ra
nhưng cũng kịp nhận thấy một thân người nằm vắt
trên dãy ghế đầu tiên, gần màn bạc.
Ra khỏi rạp, ánh sáng chói lòa
trước mắt làm cho nó biết là đã thoát khỏi hiểm
nguy. Nó cùng những người khác chạy dài theo một con hẻm
ngắn và thoát ra đường cái. Tại đây, bộ hành và xe
cộ đều dừng lại, bóng người lố nhố, tiếng la hét
vang lên không dứt. Nó xông vào đám đông, băng qua đường.
Nó cảm thấy hụt hơi nên dừng lại, đứng tựa vào một
gốc cây và thở hồng hộc.
Hình ảnh cái thây người nằm
vắt ngang trên ghế làm cho nó run lên. Nó buộc miệng thì
thầm: “May quá”.
Đúng là hôm nay, số nó may vì
nó được anh Vinh cho tiền mua vé hạng nhì, ngồi giữa
rạp. Những lần trước, nó chỉ mua vé hạng ba loại rẻ
tiền nhất và ngồi ở những hàng ghế đầu tiên, nơi
quả lựu đạn vừa nổ tung. Nó lại lẩm bẩm trong hơi
thở hổn hển:
- Chắc người đó chết rồi.
Sáng hôm sau, bạn bè cả lớp bu
quanh để nghe nó kể câu chuyện kinh hoàng vừa qua. Nó
chỉ vào khối u bầm tím rên trán, một chứng minh hùng
hồn cho câu chuyện hấp dẫn của nó. Nghe kể xong, bọn
trẻ bàn tán xôn xao. Nó chợt nghe giọng một đứa nào
đứng sau lưng nó:
- Tụi cảnh sát khám xét như vậy
mà họ cũng đem vào được. Anh hùng thực.
Nó lắc đầu bỏ đi vào lớp,
tiếng anh hùng mà nó vừa nghe không gây cho nó tí hứng
khởi nào cả, vì hình ảnh xác nạn nhân nằm vắt trên
thành ghế cứ chờn vờn trong trí óc nó.
Hơn một tuần lễ sau, buổi
chiều đi học về, dì Năm đợi nó bước vào nhà xong,
vội đóng cửa lại. Nó biết hôm nay nó phải đi liên
lạc hoặc giao tài liệu ở đâu đó. Nó theo sau dì vào
buồng và nhận lấy một gói nhỏ trong tay dì. Khác với
bó truyền đơn hay tài liệu mật thường lệ, cái gói
hôm nay có dáng dấp tròn tròn và nằng nặng. Dì Năm bảo
nó:
- Cháu cầm và mang đi cẩn thận,
đừng để rớt xuống đất nguy hiểm. Cháu đi giao rồi
trở về ngay.
Nó chợt hiểu nhưng vẫn hỏi
dì:
- Lựu đạn? Có phải cái thứ
mà cháu đi giao tuần trước cho nhà ở Phú lâm?
Dì gật đầu, nhắc lại:
- Nhớ cẩn thận, đừng để
rớt. Lần nầy, cháu đem đến tiệm uốn tóc Liliane ở
đường Testard. Chỗ đó cháu biết rồi. Trao tận tay cô
Chi. Nhanh rồi về ăn cơm, đừng ghé vào nơi nào khác.
Nó trút sách vở ra bàn, cho cái
gói vào cặp học rồi dẫn xe ra đường. Nó ngồi trên
xe uể oải đạp đi, lòng bỗng thấy nặng nề chứ không
thấy vui vẻ phấn khởi như những lần giao hàng trước
đây.
*
* *
Chiến tranh càng ngày càng ác
liệt. Báo chí mỗi ngày đều đăng tải những trận đánh
lớn khắp nơi, từ miền rừng núi Bắc Việt đến tận
những làng mạc xa xôi của đồng bằng Cửu long. Chiến
tranh chưa vào đến tận Sài gòn, nhưng đời sống người
dân ở đây cũng chẳng yên ổn chút nào. Những cuộc
biểu tình tiếp nối những cuộc đình công bãi thị. Lựu
đạn nổ nơi nầy, ám sát nơi kia. Truyền đơn rải đầy
xóm trên, biểu ngữ, cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở xóm
dưới. Nền chính trị cũng lung lay như sinh hoạt của
người dân. Mỗi lần bên Pháp có thay đổi đảng cầm
quyền qua bầu cử thì lập tức bên nầy chính phủ bị
lật đổ, ông thủ tướng cùng nội các của ông cuốn
gói ra đi, nhường chỗ cho một ông thủ tướng khác mới
được phe phái từ bên Pháp đưa lên.
Một buổi sáng, thằng Tân giật
mình thức dậy vì tiếng ồn ào bên ngoài. Nó xuống
giường mở tung cửa. Trong xóm, gần như mọi người đều
ra khỏi nhà. Trẻ con thì nhào ra đường, vừa chạy vừa
la hét, người lớn lấp ló ở cửa hoặc đứng hẳn ra
sân, nhìn lên bên trên, chỉ chỏ lung tung. “Kìa kìa”,
tiếng la lẫn trong tiếng cười khoái trá.
Thằng Tân bước ra sân và nhìn
lên trời như họ. Nó thấy một cánh chim vụt bay qua. Đó
là một chú bồ câu mà nó thường thấy, vì trong xóm,
nhiều người nuôi như một loài gia cầm. Nhưng đây không
phải là chú chim bình thường. Phía sau nó, phấp phới
một lá cờ đỏ sao vàng được cột chặt vào chân.
Chiều hôm đó, nó đi học về,
thấy dì Năm đang nhổ lông chim bồ câu. Nó chưa kịp hỏi
thì dì đã giải thích:
- Bữa nay, ngoài chợ chim bồ câu
bán nhiều lắm, rẻ rề.
- Có phải mấy con chim mang cờ
sáng nay không?
Dì lắc đầu:
- Không phải mấy con đó. Hồi
sáng, cháu đi học rồi thì lính vác súng tới đuổi bắn.
Từ sáng tới trưa, chúng chỉ hạ được vài ba con thôi,
còn lại bay trốn hết.
- Trốn đi đâu? Chắc bay vô
rừng.
Dì cười:
- Làm gì có rừng ở đây. Nó
bay vô trốn trong mấy cái chuồng đang nuôi bồ câu. Nó
chui vô mấy cái lỗ tròn để trốn, nhưng lá cờ đỏ
còn lòng thòng ngoài cửa chuồng. Tụi lính ào vào leo lên
bắt được hết.
- Chủ nhà có bị làm khó dễ
không?
- Có chứ. Chủ nhà bị bắt đưa
lên xe cùng với những con chim mang cờ. Tụi lính bảo bồ
câu nhà nào thì bay về nhà nấy. Mấy con bồ câu báo
hại. Có khi không phải của họ nuôi, nhưng bị đuổi
quá, chúng hoảng sợ, thấy chuồng có đồng loại thì
bay xuống.
Dì lại cười vui vẻ và nói
tiếp:
- Chuyện nầy chắc cả Sài gòn
đều biết. Dì đoán người ta hạ ngay cái chuồng bồ
câu xuống, bắt tất cả mang ra chợ bán đổ bán tháo.
Bà Giáo Thành ở ngay đầu ngõ có một chuồng lớn. Thằng
con cả của bà ấy leo lên nhanh tay tóm được gần hai
chục con, phần lớn đang ấp trứng hoặc nuôi con. Nó vặn
cổ chết hết. Dì đi ngang, bả kêu dì vô và nói rằng
bả thương mấy con chim lắm. Mấy đứa con của bả cũng
vậy không chịu ăn thịt những con chim vừa bị vặn cổ
chết nên gọi dì vào cho mang về nhà làm thịt ăn.
- Nhưng tại sao phải giết chết
những con chim đáng thương đó. Không muốn nuôi nữa thì
mang ra chợ mà bán đi.
- Không được. Bà giáo Thành bảo
rằng nếu đem bán, người ta mua về rồi sáng mai lại
cột cờ vào chân chim và thả ra; chim quen đường cũ bay
về nhà thì nguy. Vì vậy, bả biểu thằng con vặn cổ
cho chết hết.
Dì nhìn con chim bị vặt lông
xong, vừa nói vừa cười:
- Đấu tranh thắng lợi lại có
chim ăn khỏi tốn tiền.
Thằng Tân cũng cười theo. Nó
cảm thấy nhẹ nhàng. Đấu ⁴ranh kiểu nầy có vẻ như
một trò đùa giỡn, dễ chịu hơn cuộc đấu tranh có máu
đổ mà nó đã chứng kiến tận mắt trong rạp Nam Quang
tuần lễ trước đây.
*
* *
Sáng nay, nhà dì Năm có một
buổi họp bí mật. Nó biết đó là một buổi họp quan
trọng vì nó được chú Dự bảo nghỉ học ở nhà để
làm nhiệm vụ cảnh báo. Chú bảo nó:
- Chúng ta được chỉ thị chuẩn
bị đẩy mạnh cuộc đấu tranh trong các thành phố, đặc
biệt là Sài gòn để yểm trợ cho chiến dịch Điện
biên phủ vừa mới được khởi động. Mọi nổ lực của
công tác địch hậu đều tập trung vào việc khấy động
sau lưng địch để làm lung lay tinh thần của binh lính
địch ngoài chiến trường.
Sau mấy năm tham gia vào tổ chức
bí mật, nó dần dần được sự tín nhiệm của dì Năm
và chú Dự. Bây giờ nó đã khá lớn và hiểu biết khá
nhiều nên chú thường hay tìm dịp để giải thích cho nó
nghe chủ trương đường lối của mặt trận Việt minh và
lý tưởng cộng sản của cách mạng Việt Nam. Lời nói
của chú thực mạch lạc và có sức cuốn hút mạnh mẽ.
Nó tin rằng chú là một cán bộ nồng cốt của Việt
minh. Thực vậy, có lần dì Năm vui miệng muốn khoe khoang
người em họ của dì nên đã bảo với nó rằng thành
tích cách mạng của chú không phải tầm thường. Chú đã
tham gia tổ chức cộng sản từ 1944, một năm trước khi
cách mạng Tháng Tám thành công. Năm 1945, chú nằm trong
thành phần lãnh đạo thanh niên Tiền phong của một tỉnh,
sau đó bị bắt, vượt ngục và trốn lên Sài gòn hoạt
động. Những điều dì Năm kể thực sơ sài nhưng cũng
đủ làm cho nó hết sức kính phục người cán bộ đáng
nể nầy.
Tuy được chú Dự tín nhiệm
nhưng công tác của nó cũng vẫn như những ngày đầu:
canh gác khi trong nhà có in tài liệu hay hội họp, đi nhận
hoặc giao tài liệu cho một cơ sở khác. Nó là một đứa
trẻ hiếu động nên công tác nầy dần dần trở nên
nhạt nhẽo. Một hôm nó than phiền với anh nó và có ý
nhận thêm công tác khác hấp dẫn hơn nhưng anh nó đã
bảo:
- Chú Dự và anh em khác muốn
giao thêm công tác cho em nhưng anh không muốn. Anh đề nghị
phải dành tối đa thì giờ cho việc học của em. Hôm quỳ
trước mộ cha mẹ, anh có khấn và hứa ráng sức thay cha
mẹ lo cho em ăn học tới nơi tới chốn. Tham gia cách mạng
để giành độc lập là nghĩa vụ thiêng liêng của người
dân ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng với em, anh không
thể nào quên lời hứa xưa kia trước mộ cha mẹ được.
Nói xong, nét mặt anh nó buồn
dàu dàu. Cứ mỗi lần nhắc đến cha mẹ là anh nó đều
buồn rầu như thế. Nó thương anh và cố gắng học hành
cho anh vui lòng. May mắn, nó là đứa trẻ thông minh nên
ba năm liền ở bậc trung học nó đều mang phần thưởng
cuối năm về để nhận nụ cười rạng rỡ trên mặt
anh. Sau đó, anh nó luôn luôn dẫn nó đi phố, mua cho nó
một phần thưởng khác, một đôi giày hay một bộ áo
quần mới. Kể từ khi anh nó có công việc làm ổn định
cách nay hơn ba năm, hai anh em đã hoàn toàn sống với đồng
lương của anh, không phải tốn kém cho dì Năm nữa. Ngoài
ra, thỉnh thoảng anh nó còn gọi thợ đến sửa sang nhà
cửa, mua sắm thêm đồ dùng đáng giá làm cho căn nhà
không còn cái vẻ khốn cùng của những ngày chúng nó mới
đến.
Anh nó là một tư chức có năng
lực. Ngày đi làm việc ở sở, tối còn đi học thêm và
đậu được tú tài bán phần năm vừa rồi. Sau đó, anh
chuyển sang học đánh máy, tốc ký và kế toán. Chính nhờ
vậy, anh được chuyển vào làm việc ở phòng kế hoạch
thay vì phải theo xe đi giao hàng các nơi. Công việc mới,
lương tiền của anh khá hơn. Nghe anh cho biết như thế,
nó hết sức vui mừng vì đời sống vật chất của hai
anh em từ nay càng được sung túc. Nó không ngờ việc anh
nó cố học để được vào phòng kế hoạch lại là một
sự sắp đặt của cách mạng. Nó dần dần biết được
điều đó qua những lần báo cáo và bàn bạc giữa anh và
chú Dự. Nó là đứa trẻ thông minh nên có thể tổng hợp
những điều nghe lỏm được để hiểu rằng anh nó chui
vào phòng kế hoạch của hãng với mục đích lấy những
tin tức chiến sự mà hãng mua được.
Thực vậy, phòng kế hoạch của
hãng BGI có trách nhiệm chính là tiêu thụ sản phẩm càng
nhiều càng tốt. Phòng có một bộ phận tình báo, chuyên
tung tiền mua những tin tức tối mật về những cuộc
hành quân phối hợp của liên quân Pháp Việt. Những cuộc
hành quân nầy thường diễn ra hai bên trục lộ, gây tắt
nghẽn giao thông, có khi kéo dài đến hơn một tuần lễ.
Cả một vùng rộng lớn phía sau nơi xảy ra chiến sự
cạn kiệt hàng hóa từ Sài gòn chở xuống, gây thiệt
hại cho những ngành sản xuất có tầm tiêu thụ rộng
lớn như hãng bia và nước ngọt BGI. Vì vậy, hãng cần
biết trước những cuộc hành quân đó để tập trung
chuyên chở hàng cho những vùng sẽ bị cô lập. Thế là
ông chủ Tây phải chi ra rất nhiều tiền để mua tin tức
từ bộ quốc phòng còn cách mạng chẳng tốn xu nào. Đó
cũng chính là nhờ có anh nó.
Ngoài nguồn tin quý giá đó, anh
nó còn nổ lực thu nhặt thêm tin tức khắp các tỉnh
thành, có khi tận hai nước Miên và Lào qua lời kể của
các nhân viên và tài xế chuyên chở hàng hóa của hãng.
Chính do một nhân viên nầy, anh nó mới biết được một
tin khủng khiếp, một nỗi bất hạnh cực kỳ to lớn xảy
ra cho gia đình cậu Danh ở Rạch giá.
Buổi chiều hôm đó, Vinh về nhà
với vẻ mệt mỏi và buồn rầu. Anh báo với dì Năm rằng
hai anh em đi chơi đến tối mới về. Cả hai cùng đi trên
một chiếc xích lô về trung tâm thành phố, ra bờ sông
và ngồi trên một ghế đá. Anh ngồi im lặng, mắt đăm
đăm nhìn những chiếc ghe nho nhỏ di chuyển dọc theo bờ
hoang vắng bên kia sông. Chợt anh quay lại, nắm chặt lấy
tay nó, giọng xúc động:
- Cậu Danh và chị bé Hiền chết
rồi.
Tân giật mình, lưỡi như líu
lại:
- Hả? Anh nói gì?
Vinh lặp lại:
- Cậu Danh và chị Hiền chết
rồi.
Thằng Tân mếu máo:
- Anh nói sao? Tại sao chết?
- Bị ám sát chết.
Tay nó run bần bật trong tay anh
nó, miệng cứng đờ, mắt mở to nhìn anh nó. Nó nghe anh
nói tiếp:
- Xe bị ném lựu đạn cách nay
một tuần trước cửa chợ Rạch giá.
Nó dần dần trấn tỉnh lại sau
cơn xúc động, giọng vẫn còn run:
- Sao anh biết?
- Anh Thanh đưa hàng xuống Rạch
giá về cho hay. Người quen của anh Thanh đã chứng kiến
tận mắt vụ ám sát, kể tỉ mỉ lại cho anh ấy nghe.
Cậu Danh và chị Hiền đang ngồi trên xe Jeep thì một quả
lựu đạn do ai đó quăng vào trong xe nổ tung. Cậu Danh và
chị Hiền chết ngay tại chỗ, nhiều người khác đứng
trước chợ bị thương.
Giọng nó vẫn mếu máo:
- Nhưng có đúng là cậu Danh và
chị Hiền không?
- Đúng rồi. Đám ma to lắm. Cả
tỉnh ai cũng biết. Ngày mai, anh xin phép nghỉ vài hôm để
về dưới đó.
Nó níu chặt tay anh:
- Anh Vinh, anh cho em đi với.
- Không được, anh đi một mình.
Đường xá nguy hiểm, Rạch giá lại xa lạ, không biết
tình hình an ninh ra sao, một mình anh đi dễ lo liệu hơn.
- Nhưng em muốn gặp cậu Danh và
chị Hiền. À không, em muốn gặp mợ Danh, bé Hạnh và
lạy trước mộ cậu và chị Hiền của em.
Nó nói xong, ôm mặt khóc nức
nở. Vinh ôm chặt vai em, bậm môi nhưng không ngăn được
nước mắt. Giọng anh đầy xúc động:
- Em nên ở nhà. Sau nầy có dịp
anh sẽ đưa em về dưới đó.
Tân lau nước mắt. Hai anh em ngồi
im lặng một lúc lâu. Vinh quay sang nói với em, giọng đã
bình thản trở lại:
- Không nên cho dì Năm và chú Dự
biết việc nầy.
- Tại sao vậy?
- Anh không muốn họ biết mình
có bà con thân thuộc với người vừa bị cách mạng giết
chết. Họ có lập trường rất rõ ràng và dứt khoát nên
có thể vô tình hay hữu ý có những lời xúc phạm đến
cậu Danh. Cậu chết rồi, anh không muốn ai xúc phạm đến
cậu trong lúc nầy.
Anh nhìn thẳng vào mắt nó, nói
tiếp:
- Em hiểu chưa. Rán bình thản
như không có việc gì xảy ra. Anh sẽ nói với dì Năm là
hãng cử anh đi công tác xa trong vài hôm. Thôi, chúng ta
về.
Nói xong, anh đứng dậy, nó đứng
dậy theo.
Đêm đó, hai anh em nằm thao thức
nhưng không nói với nhau câu nào. Bên ngoài, đêm khuya dập
tắt mọi âm thanh của thành phố, chỉ còn tiếng kêu ra
rả không ngừng của con vạt sành đậu trên hàng rào
tươi gần cửa sổ.
Từ ba năm nay, hình bóng gia đình
cậu Danh xa dần, không mấy khi nó nghĩ đến, nay bỗng
dưng trở lại làm cho nó có cảm tưởng đang nằm trong
căn phòng nhỏ, phía sau ngôi biệt thự nguy nga của cậu
nó. Nó nhớ rõ mồn một như mới ngày hôm qua, khung cảnh
cái đồn Tây ở làng quê, người đàn ông sang trọng với
đôi mắt hiền lành sau đôi kính trắng, ân cần đưa tay
nắm lấy vai chúng nó. Nó thấy như đang lắc lư trên
đoạn đường hun hút rồi bồng bềnh trên biển cả để
đến sáng tinh mơ cùng mọi người đổ xô lên bong tàu,
nhìn ánh đèn pha tắt chớp. Có tiếng ai đó la lên: “Miền
Nam đây rồi”.
Ôi miền Nam! Miền Nam của nó
đầu tiên là ngôi nhà sang trọng làm cho nó hoảng sợ
lúc mới bước chân vào. Bây giờ, trước mặt nó, trong
bóng đêm dày đặt, ngôi nhà đó trở nên đáng yêu biết
bao. Vườn hoa nho nhỏ trước nhà…. Lòng nó nhói đau khi
hình dung một khuôn mặt xinh đẹp lấp ló bên những bông
hoa sặc sỡ. Trong hai năm liền, khuôn mặt rạng rỡ đó
đã in sâu trong tâm trí của nó. Khuôn mặt đó đã xua đi
phần lớn nỗi ưu sầu vì cha mẹ vĩnh viễn xa rời nó,
khi ngôi làng bé nhỏ gói gọn tuổi thơ của nó đã lùi
vào chốn xa xôi mịt mờ.
Bé Hiền, bé Hiền, người bạn
thân yêu của những ngày đầu tiên nó mang thân phận
long đong của đứa trẻ mồ côi lưu lạc vào miền Nam xa
lạ nầy! Kể từ nay, nó không còn bao giờ gặp lại
người bạn bé nhỏ đó nữa. Không, không thể như thế
được, chị bé Hiền vẫn còn sống, một ngày nào đó
nó sẽ gặp lại chị, sẽ nắm tay kể cho chị nghe những
ngày sống xa chị ở đất Sài gòn nầy. Nó sẽ được
nhìn nụ cười cả trên đôi môi lẫn trên khoé mắt của
chị. Nó sẽ được nghe giọng cười trong trẻo của chị.
Nó sẽ đưa chị về thăm ngôi nhà sang trọng xưa kia, nó
sẽ nhìn ngắm gương mặt chị ngời lên hạnh phúc khi
đôi chân thoăn thoắt của chị đi giữa những cây hoa mà
hai đứa thường làm nơi ẩn núp trong trò chơi trốn tìm
của tuổi thơ ngây.
Nó nhắm mắt cho hai giọt nước
lăn dài xuống má. Nó lâm râm khấn nguyện cho nguồn tin
anh nó nhận được là hoàn toàn sai lạc và cậu Danh cùng
chị Hiền của nó không phải là hai người đã ngã xuống
sau tiếng nổ kinh hoàng.
Trong những ngày anh Vinh xin nghỉ
phép về Rạch giá, nó vẫn lâm râm khấn nguyện, ban đêm
trước khi đi ngủ và cả ban ngày trong lúc đi đường,
trong lớp học và ở nhà trước mỗi bữa ăn.
Nhưng thảm thương thay, ơn trên
không khứng những lời khấn nguyện của nó. Anh Vinh về,
nó đau đớn nghe anh bảo rằng nguồn tin trên là xác
thực, hai nạn nhân của vụ ám sát chính là cậu Danh và
chị Hiền của nó. Mợ Danh thoát chết vì vừa xuống xe
đi vào chợ. Thôi rồi, cậu nó không còn nữa, chị bé
Hiền cũng không còn nữa. Nhiều đêm sau đó nó vẫn còn
nằm mơ nắm bàn tay bé nhỏ của bé Hiền tung tăng dạo
chơi. Giật mình thức dậy giữa đêm khuya, nó đau đớn
nghĩ rằng, lúc từ bỏ cõi đời nầy, Hiền vừa lên
mười sáu, cái tuổi yêu đời và tràn đầy sức sống.
*
* *
Nỗi đau trong lòng thằng Tân kéo
dài ít lâu rồi cũng nguôi ngoai dần vì nó đang nổ lực
học để kết thúc bậc trung học đệ nhất cấp với kỳ
thi lấy bằng tốt nghiệp trong vòng vài tháng nữa.
Từ trường, nó thong thả đạp
xe về nhà, vừa đi vừa suy nghĩ mông lung. Nó sẽ cố
gắng thực hiện ý muốn của anh nó là tiếp tục cho hết
bậc trung học và lên đại học. Một đứa trẻ sớm mồ
côi mà được lên đại học thì còn gì vui sướng cho
bằng. Nhất định nó phải làm được điều đó, vì
tình thương của anh nó. Tân thấy lòng phơi phới và nhấn
mạnh bàn đạp để chóng về nhà.
Vừa quẹo vào hẻm, Tân bỗng
nghe tiếng gọi đúng tên mình. Nó vội bóp thắng, quay
đầu lại thì thấy bà giáo Thanh đang dùng tay ngoắt lia
lịa. Khi nó thụt lui và đến gần, bà nói nhanh, giọng
nghiêm trọng và sợ sệt:
- Tân, con đừng về nhà. Cảnh
sát và mật thám đang xét nhà con đó. Anh con, chị Năm Lê
ghim và một người đàn ông đã bị mật vụ còng tay.
Con mà về bây giờ thì có thể bị bắt luôn đó. Họ
khám nhà gần một giờ đồng hồ rồi. Họ sắp ra rồi.
Trốn đi, nhanh lên.
Bà Ba ở kế bên ló đầu ra nói
xen vào:
- Thằng Tân là học sinh thì có
liên can gì mà bị bắt. Cứ về đi để trông coi nhà
cửa, coi chừng bọn nó lợi dụng khám xét để lấy cắp.
Chúng nó đi bắt Việt minh chứ đâu có đi bắt học
sinh. Về đi, đừng sợ.
Nó nghĩ thầm: “Đúng là người
ta đi bắt Việt minh chứ không cốt bắt học sinh. Nhưng
mình vừa là thứ nầy, vừa là thứ kia nên trốn đi là
phải”. Nó vội chào hai bà, quay lui và phóng xe ra đường.
Lòng nó vô cùng rối loạn. Đi
đâu bây giờ? Nó có quen biết vài đứa bạn trong lớp:
thằng Thắng, thằng Quý, thằng Sanh, vân vân. Tuy nhiên,
đến chơi một chốc thì được chứ làm sao ở được
nhiều ngày. Thôi được, đến nhà thằng Thắng chơi đến
chiều rồi tính sau. Nhưng bây giờ đang bữa trưa, có lẽ
gia đình nó đang ăn cơm. Vậy thì phải giải quyết cái
ăn trước đã. Mặc dù không đói nhưng nó vẫn ghé vào
một quán cơm tồi tàn ở góc đường. Cơm xong, nó ra
đường, nắng đổ lửa. Nó vịn xe, đứng tần ngần
dưới bóng mát của một cây to. Hơi nóng từ mặt đường
nhựa bốc lên làm cho nó ngại ngùng khi nghĩ đến chuyện
đạp xe dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa mùa khô
hạn.
Chợt đằng xa có dáng một xe
cảnh sát đang chạy đến. Ruột nó như thắt lại. Nó
vội vòng lại đứng sau gốc cây. Ở thành phố trong thời
loạn nầy, xe cảnh sát thường xuyên chạy tuần trên
đường phố. Nó biết điều đó nhưng vẫn hồi hộp. Nó
như con chim đang trốn tránh cây cung nên thấy cành cong
cũng sợ.
Cuối cùng, nó cũng lên xe, đạp
đi chầm chậm. Mồ hôi rịn ra dán vải áo vào lưng, cái
mũ đội trên đầu như siết chặt lại. Nó đi ngang qua
vườn Bồ rô, nhìn thấy khu cây cao bóng mát, tương phản
với những dãy phố ngột ngạt dưới ánh nắng chói
chang. Nó rẽ vào cổng, tìm đến một băng đá mát mẻ,
ngồi phịch xuống, nhắm mắt lại. Nó cảm thấy chới
với trong một khoảng trống không, trôi vật vờ trong một
đám mây bồng bềnh. Đầu óc quay cuồng một lúc rồi từ
từ trở lại với ngôi nhà nho nhỏ mà nó đã sống với
anh Vinh và dì Năm trong suốt gần năm năm rồi.
Nó hình dung ngôi nhà bị lục
soát lung tung, cái hầm bí mật bị khui lên với nhiều
tài liệu và cả chiếc máy in. Bao nhiêu đó cũng quá đủ
để người ta tra tấn những người bị bắt cho đến
chết đi sống lại.
Chiếc xe bít bùng mà nó thoáng
thấy khi đứng ở nhà bà giáo Thanh nhìn về hướng nhà
nó, bây giờ hiện rõ trong trí, màu xám xịt, ghê tởm
như một con quái vật hung ác. Chiếc xe đã đưa anh nó
cùng các tài liệu quan trọng về nơi tra tấn. Nó đã
từng nghe chú Dự mô tả khung cảnh khủng khiếp ở nơi
địa ngục của trần gian đó.
Trời ơi, giờ nầy anh nó ra sao?
Nó hình dung anh đang cúi gập mình chịu những trận đòn
dã man. Anh ngã xuống nền gạch, đau đớn quằn quại,
máu tuôn từ miệng từ mũi ra ngoài. Nó đưa hai tay ôm
đầu, miệng rên ư ử như chính nó đang bị tra tấn vậy.
Nó vùng đứng dậy, đưa cả hai
tay nắm vào tóc giật mạnh và dùng hết sức ném vật gì
đó vô hình ra xa. Nó định thét lên một tiếng như con
thú hoang bị sa bẫy nhưng kịp ngưng lại vì thấy ở
cách đó một khoảng không xa, một cụ già ngồi trên
băng đá, đôi mắt mở to nhìn nó một cách ngạc nhiên.
Nó bắt gặp cái nhìn của cụ, cảm thấy như ruột gan
mình bị phơi bày ra trước mặt người khác. Nó vội
vàng dắt xe đi nhanh về hướng ngược lại với cụ già
và vòng ra cổng.
Nó đứng tần ngần nhìn về
hướng Hòa hưng, trong lòng cồn cào một ý muốn quay trở
lại nhìn căn nhà của nó. Nó do dự. Giờ nầy, mật vụ
đang canh giữ căn nhà một cách nghiêm nhặt để đợi nó
về hay đã rút lui cả rồi sau khi hốt hết tài liệu
mang đi?
Mật vụ đang gài bẫy; mật vụ
đã rút lui. Hai ý nghĩ trái ngược liên tục thay nhau
trong đầu nó. Cuối cùng, nó thở dài, bỏ ý định trở
về căn nhà, leo lên xe, đạp về hướng Tân định.
Nó vào nhà thằng Thắng, ngồi
chơi một lúc rồi đạp xe dài trên đường Paul Blanchy,
thẳng đến bờ sông, tìm đúng cái băng đá mà hai anh em
đã ngồi và anh nó đã báo tin cậu Danh và chị bé Hiền
chết vì quả lựu đạn ném vào xe.
Mặt trời đã ngã về hướng
Tây, chui vào đám mây to nên không gian dịu lại. Gió từ
bờ sông thổi hơi nước mát mẻ phả vào mặt nó. Nó cố
tìm một cảm giác thoải mái mà không được. Lòng nó
nặng trĩu ưu tư. Ý nghĩ của nó bay mông lung, từ cái
chết của chị bé Hiền đến tình cảnh của anh nó trong
phòng điều tra. Nó cúi gập mình, úp mặt trong hai tay, cố
xua đuổi những hình ảnh ghê rợn trong trí tưởng tượng.
Nó lắng nghe tiếng nói lao xao và tiếng chèo khua nhẹ
trên mặt nước, tiếng xe chạy trên con đường sau lưng
và tiếng chân người dẫm trên đá sỏi ngay phía trước.
Nó muốn khóc tức tưởi như khi còn bé thơ. Lúc bé, nếu
muốn điều gì quá khó khăn, nó thường tưởng tượng
một đấng siêu nhiên đến giúp. Bây giờ nó cầu mong
các thiên thần hiện lên, đưa anh nó ra khỏi ngục tù và
lôi hai anh em bay lên cao, cao mãi cho khỏi cái thế gian đầy
biến động nầy.
Chợt nó giật mình, một tiếng
xe thắng kít trên đường phố, nhiều tiếng la hoảng lôi
nó về với thực tế. Nó quay lui và nhận thấy một tai
nạn giao thông vừa xảy ra. Người ta chạy lại mỗi lúc
một đông. Nó đứng dậy, lắc đầu chán nản, chậm rãi
dắt xe đi dọc bờ sông.
Nó tự hỏi bây giờ về đâu?
Đêm nay ngủ tại đâu? Trong cái thành phố rộng mênh
mông nầy, nó chỉ có một nơi duy nhất để ngủ mà nó
không trở lại được. Nó chẳng có bà con quyến thuộc,
không có bạn bè thân thiết để có thể nghỉ qua đêm
mà không cần lý do.
Nó dừng lại ngẩn ngơ nhìn dòng
sông rộng, ngọn gió chiều đùa trên những con sóng lăn
tăn. Nó nghĩ mình như một cánh chim lạc loài, không biết
trú vào đâu trong đêm dài đang đến. Màn đêm không bao
lâu nữa sẽ buông xuống và nó sẽ không thể đi lang
thang mãi sau giờ giới nghiêm của thành phố. Nó chợt
nhớ tới vườn Bồ rô. Phía sau chiếc băng mà trưa nay
nó đã ngồi, có một bụi rậm. Nó có thể nhét xe đạp
vào đó và nằm trên đám cỏ kế bên. Nó quyết định
đến đó trú qua đêm nay. Nó vội vàng thót lên yên xe.
Phải nhanh lên vì chắc chắn công viên sẽ đóng kín khi
đêm xuống. Nó dừng lại trước cánh cổng của khu vườn.
Bên trong vắng tanh không một bóng người. Sau lưng nó,
trên con đường Verdun, xe cộ qua lại dập dìu.
Nó dáo dác nhìn quanh và khi thấy
không ai để ý, vội vã dắt xe qua cổng và khuất bóng
sau những lùm cây, đến chiếc băng đá đã ngồi sáng
nay, vòng ra phía sau, đẩy chiếc xe vào bụi rậm. Bụi
cây xao động, cành lá rung rinh, vài đóa hoa lìa cành rơi
xuống cỏ.
Nó đứng yên, nhìn về hướng
đường Chasseloup Laubat, ánh đèn vàng vọt thấp thoáng,
tiếng xe cộ nghe có vẻ rộn rịp trên đường. Nó quay
lại, giật mình vì thấy cánh cổng sắt từ từ đóng
lại, tiếng ken két vang lên. Nó ngồi thụp xuống, tựa
lưng vào chân ghế đá, ngước nhìn bầu trời mỗi lúc
một sẫm hơn. Cảnh vật trong công viên trở nên u tịch.
Một con dơi phành phạch bay qua rồi biến mất tức thì,
nhưng quảng thời gian rất ngắn ngũi đó bỗng làm cho nó
chợt thấy lòng quặn thắt vì cảm giác cô đơn.
Tiếng xe cộ vẫn còn rầm rì xa
xa. Đó là dư âm của xã hội của loài người ngoài kia.
Ở đây, nó đang trốn tránh cái xã hội đó và nương
nhờ bóng đêm để được yên ổn đêm nay.
Đầu óc nó quay cuồng với bao
nhiêu câu hỏi. Rồi ngày mai sẽ ra sao? Nó sẽ đi đâu,
ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Có nên trở về nhà, có nên
đến lớp hay không? Người ta có ý định bắt nó hay
không? Nếu có thì về nhà hay đến trường có nghĩa là
tự nguyện chui vào tròng của cảnh sát mật vụ.
Nó sực nhớ suốt từ trưa đến
giờ chưa có một chút thức ăn nào vào bụng. Tuy nhiên,
nó không thấy đói mà khát khô cả cổ. Nó nhìn quanh, hi
vọng trông thấy một vòi nước nhưng chỉ nhìn thấy
những lùm cây và bãi cỏ đen sì hai bên con đường nhỏ
hiện lờ mờ trong ánh sáng yếu ớt phản chiếu từ ánh
đèn đường thành phố.
Nó mệt mỏi nằm dài xuống cỏ,
đầu óc quay cuồng với bao nhiêu hình ảnh chập chờn
của quá khứ nối đuôi nhau rồi dừng lại nơi cảnh tra
tấn mà nó tượng tượng anh Vinh đang chịu đựng.
Tiếng động của thành phố giảm
dần rồi tắt lịm. Nó hiểu rằng đã bắt đầu giờ
giới nghiêm. Nó nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi lúc nào
không hay. Dù sao, nó cũng còn quá trẻ nên dẫu nằm trên
bãi cỏ, nó cũng được một giấc ngủ say sưa cho đến
khi trời rựng sáng.
Cánh cổng công viên vừa mở
rộng. Nó nhìn thấy xa xa, qua màng sương mỏng, vài người
đang đi vào để tập thể dục buổi sáng. Nó vội đứng
lên, bước ra đường bắt đầu chạy chầm chậm như
người mới vào rồi quay lui, lôi chiếc xe đạp ra khỏi
bụi rậm, đạp thẳng ra cổng, đi tìm một quán điểm
tâm. Ăn xong, nó thong thả đạp xe trên đường phố đã
bắt đầu rộn rịp.
Đi đâu bây giờ? Về nhà? Không,
nó không muốn về nhà nữa. Nơi đó, người ta đang chờ
nó về để còng tay nó lại. Vì nó là liên lạc viên nên
người ta muốn bắt nó để tìm ra những người khác.
Đến trường? Nó cúi nhìn quần áo xộc xệch. Không, nó
không thể đến trường với hình hài lôi thôi và cái
tâm trạng thảm hại nầy. Làm sao nó chịu đựng nổi
bốn giờ đồng hồ trong lớp, chung quanh bạn bè chăm chỉ
học hành. Nó biết chắc mình không thể ngồi yên như
thế trong khi cơn bão tố cứ gào thét trong lòng; nó không
thể ngồi yên nghe thầy giảng bài khi trí óc vẫn nghĩ
đến cảnh tra tấn mà anh Vinh phải chịu đựng và hoàn
cảnh lạc lõng của nó trong thành phố mênh mông nầy.
Nó cần phải tìm đến ai đó
thông hiểu cảnh ngộ của nó để giúp giải quyết cuộc
sống hay ít nhất chỉ bảo cho nó một cái gì đó để
có thể tìm ra lối thoát. Nó nghĩ đến những người
trong tổ chức cách mạng. Chú Dự và dì Năm bị bắt
cùng một lượt với anh nó rồi. Những nơi nó đến liên
lạc thì không nhất định và thay đổi luôn luôn. Chỉ
có một chỗ mà nó đã đến một đôi lần và biết tên
cả người tiếp xúc. Đó là chị Chi ở tiệm uốn tóc
Liliane, trên đường Testard. Phải rồi, nó đến đó, chỉ
có thể đến đó mà thôi. Nhưng cũng phải cẩn thận, vì
biết đâu tổ chức đã bị bể một mảng to bao gồm cả
nơi chốn đó. Nó quay lui, đến rạp hát Nam Quang thì dừng
lại.
Nó chợt nhớ buổi chiếu phim
kinh hoàng trước đây. Nó vội gạt bỏ hình ảnh của
quá khứ đó, nhón chân nhìn về phía tiệm uốn tóc
Liliane. Khung cảnh có vẻ bình thường, một người khách
bước vào rồi một người khách khác bước ra. Nó chăm
chú nhìn qua bên kia đường, cố tìm bóng dáng một viên
an ninh chìm nhưng không thấy. Nó lên xe, đạp rất chậm
ngang qua cửa tiệm, kín đáo liếc mắt nhìn vào, yên tâm
thấy bên trong vẫn sinh hoạt bình thường. Nó dừng lại,
sửa áo quần cho ngay ngắn và quay lui. Nó dựng xe đạp
bên lề đường, cố lấy vẻ thản nhiên bước tới. Nó
chưa kịp lên tiếng hỏi thì may thay, chị Chi trông thấy
nó, vội bước ra cửa, đến gần và nói nhanh:
- Tại sao đến giờ nầy? Có gì
không, đưa cho chị ngay.
- Không có hàng, nhưng có chuyện
quan trọng.
- Gì thế?
- Mọi người đều bị bắt. Nhà
em bị khám xét hôm qua, có lẽ hôm nay còn bị mật vụ
bao vây.
Chị Chi thất sắc:
- Trời đất, vậy sao?
Chị quay lui, liếc nhanh vào tiệm
rồi nhìn thẳng vào mắt nó bảo nhỏ, giọng có vẻ vừa
ngạc nhiên, vừa nghi ngờ:
- Tại sao em thoát được?
- Em đi học về, bà giáo ở đầu
đường chận lại báo tin nên em đi luôn, từ hôm qua đến
giờ không dám về nhà.
- Đêm rồi em ở đâu?
- Em trốn trong vườn Bồ rô.
Chị nhìn nó, vô cùng ngạc
nhiên:
- Tại sao lại trốn trong đó? Em
không có nhà bà con nào tại đây sao?
- Không có ai cả. Bây giờ em
không dám về nhà, không biết đi đâu, không biết làm gì
nên đến nhờ chị giúp em.
- Thôi được rồi. Em không nên
về nhà, rất nguy hiểm. Đi loanh quanh cho hết ngày, rồi
đúng năm giờ chiều nay, đến quán cà phê đầu đường
nầy chờ chị. Nhớ chưa?
- Dạ nhớ.
- Thôi đi đi.
Nó quay ra đường, cảm thấy
gánh nặng trong lòng vơi đi khá nhiều. Nó không biết chị
Chi có giải quyết được cuộc sống mai sau cho nó hay
không nhưng ít nhất nó cũng bám vào được một chiếc
phao trong khi lênh đênh giữa biển nổi ba đào.
Đúng năm giờ chiều, nó trở
lại và không phải chờ đợi lâu. Chị Chi ra khỏi tiệm,
nháy mắt với nó rồi bước lên một xích lô, nó vội
vàng đạp theo sau. Nó chăm chú nhìn lưng chiếc áo xanh
bạc màu của bác phu xe mà đầu óc suy nghĩ miên man.
Chiếc xe rẽ vào khu Bàn cờ, xuyên qua nhiều đường hẻm
ngoằn ngoèo và dừng lại trước một căn nhà nho nhỏ.
Nó theo chị bước vào nhà. Gian nhà có vẻ nghèo nàn
nhưng tươm tất. Chị Chi bảo nó ngồi xuống ghế rồi
chị đi thẳng vào bên trong một chốc và trở ra ngồi
đối diện với nó qua chiếc bàn nhỏ, trên trải tấm
vải nhựa cũ kỹ, rách lỗ chỗ. Chị nói với nó, giọng
nhỏ nhẹ và điềm đạm:
- Em ở đây với chị vài hôm,
chờ chị bắt liên lạc.
- Em có thể trở về nhà để
lấy đồ đạc và áo quần được không?
- Không nên đâu. Nhà em chắc
chắn đã bị niêm phong rồi, em về đó thì rất nguy
hiểm, chị đã nói với em rồi.
- Nhưng sách vở em đều để tại
nhà làm sao đến lớp được?
- Tạm thời nghỉ học cho đến
khi tổ chức dò xét xong tình hình thì sẽ quyết định
cho em.
Nó cảm thấy nhói trong lòng vì
sự nhớ tiếc lớp học. Nó là học sinh giỏi nhất lớp,
bạn bè và thầy cô đều quý mến. Chị Chi nhìn nó và
biết tâm trạng của cậu học sinh hiếu học nầy. Chị
nói một cách ôn tồn:
- Em hãy nghe lời chị. Em là
người của cách mạng, việc cứu nước quan trọng hơn
việc học hành. Cơ sở của em đã bị khám phá và đang
bị địch cố sức khai thác. Em lại là liên lạc viên,
đầu mối để địch có thể tìm ra những cơ sở khác.
Vì vậy, em phải rất thận trọng. Bảo vệ mình có nghĩa
là bảo vệ cho tổ chức.
Chị nhìn thẳng vào mắt nó,
giọng nhỏ lại, gằn từng tiếng:
- Mạng sống của nhiều người,
trong đó có chị, đang tùy thuộc vào em. Em không được
hành động theo ý riêng của mình. Em nghe rõ chưa?
Tiếng nói của chị bỗng như
tiếng rít; nó nhìn chị, cảm thấy sợ hãi vì đôi mắt
đột nhiên trở nên nghiêm khắc đến lạnh lùng, nét dịu
dàng trong cái nhìn hoàn toàn biến mất.
Một phút sau, giọng chị dịu
lại:
- Em không phải lo lắng nhiều;
cấp trên sẽ lo liệu mọi việc cho em. Em cứ sống ở
đây vài hôm. Đây là nhà của chị. Trong nhà chỉ có hai
mẹ con mà thôi. Có lẽ mẹ chị đi mua thức ăn thêm và
sắp về. Ở đây, em tự nhiên như ở nhà mình. Mỗi
ngày, chị đi làm từ sáng đến tối, chỉ một mình mẹ
chị ở nhà mà thôi.
- Trưa chị không về đây à?
- Không. Nghề của chị là uốn
tóc, phải làm việc vào giờ nghỉ của thiên hạ. Em ở
trên gác không nên đi ra ngoài làm người khác chú ý. Nếu
bất chợt có ai hỏi thì em bảo rằng em là em của chị
từ dưới quê lên chơi vài ngày. Nhưng tốt nhất là đừng
nên gặp ai cả.
Nó cúi đầu buồn bã:
- Nghĩa là em đang đi trốn nơi
đây phải không?
- Gần như thế. Dấn thân làm
cách mạng thì trốn tránh là chuyện thường.
*
* *
Nó nằm trên gác xép được đúng
một tuần lễ rồi. Hôm đầu, mới bước lên nó ngột
ngạt vì căn gác đầy bụi bặm. Từ lâu, nơi nầy chỉ
dùng để chứa các vật không còn dùng đến của gia
đình. Bà Hai, mẹ chị Chi giúp Tân thu dọn đồ đạc bừa
bãi để cho có chỗ nằm khá rộng rãi. Nó vâng lời chị
Chi, ở luôn trên gác, mỗi ngày chỉ xuống ăn cơm và tắm
rửa mà thôi.
Thỉnh thoảng, bà Hai chậm chạp
bò lên chiếc thang gỗ ọp ẹp, mang lên cho nó, khi thì
chai nước uống, khi thì cái quà, cái bánh mà bà mua ở
chợ mang về. Đó là một bà già hiền lành phúc hậu mà
nó có cảm tình ngay từ lần gặp đầu tiên. Chính bà đã
giúp nó bớt cay cực trong những ngày tự giam hãm trong
không gian nhỏ hẹp nầy.
Ngày kéo dài lê thê một cách
chán chường, đêm nó nằm thao thức, nhớ trường, nhớ
bạn, nhớ căn nhà nhỏ ở xóm Hòa hưng, nhớ những đêm
ngủ bình yên bên người anh thân yêu. Tim nó như
vỡ vụn ra khi nghĩ rằng, kể từ nay nó không còn được
sống chung với anh Vinh, không còn được nhìn đôi mắt
tươi cười của anh lúc nghe nó kể chuyện học hành. Kể
từ khi mẹ lìa trần, nó sống trong vòng tay bảo bọc của
anh. Bây giờ, người ta đã mang vòng tay đó đi mất rồi,
biết bao giờ nó lại được sống trong những ngày vui
xưa?
Những ngày xưa của nó chỉ là
những ngày của một trẻ mồ côi nhưng, trong nhiều năm,
nó đã sống một cách hồn nhiên, vẫn hưởng được sự
êm đềm của tuổi thơ nhờ có một điểm tựa che chở
mà nó không ý thức thật rõ trong những ngày vô tư đó.
Khi sự che chở đó không còn nữa thì nó mới biết sự
cần thiết của điểm tựa trước đây.
Hôm nay, trái với thường lệ,
chị Chi về nhà lúc trời chưa tối. Chị bò lên gác và
bảo nó:
- Sáng sớm mai em lên đường.
Nó sửng sốt:
- Em đi đâu hả chị?
- Vô chiến khu.
- Chiến khu nào?
- Chiến khu Đồng Tháp mười.
- Nhưng….
Chị ngắt lời, giọng trở nên
gắt gỏng:
- Thôi đừng hỏi nữa. Lệnh
trên bảo thế nào thì làm thế nấy.
Chị ngước lên nhìn đôi mắt
thơ ngây buồn bã của nó, cảm thấy thương hại nên dịu
giọng:
- Em hãy can đảm lên. Vào trong
đó ít lâu để các anh lo cho em. Địch đang truy lùng ráo
riết, em không thể sống ở đây trong lúc nầy được.
Nó nghẹn ngào:
- Nhưng anh Vinh của em…. Em muốn
gặp anh một lần trước khi đi.
Chị lắc đầu:
- Không được đâu. Theo chị
biết, anh ấy cùng những người khác đang trong giai đoạn
điều tra, ít nhất hai tháng nữa mới có thể liên lạc
được.
- Em có thể chờ gặp anh Vinh một
lần được không?
- Không được.
Giọng chị trở nên cương quyết:
- Sáng mai em phải lên đường vì
chị đã liên lạc được vào chiến khu. Việc thăm nuôi
anh Vinh có tổ chức lo. Em hãy làm theo sự xếp đặt của
tổ chức. Phải tuyệt đối tuân hành, đừng để tình
cảm tiểu tư sản chen vào làm cho chao đảo, hỏng việc
lớn. Bước vào con đường cách mạng thì sự hi sinh phải
đặt lên hàng đầu. Nếu gặp được anh Vinh lúc nầy
thì em cũng sẽ nhận được những lời chị vừa nói với
em mà thôi.
Chị ngừng một chút rồi giải
thích thêm:
- Em phải vào chiến khu ít lâu
để cho bọn nó mất dấu. Hiện tại, có thể bọn nó
đang tìm cách bắt em để khai thác. Sau một thời gian,
bọn nó sẽ xếp hồ sơ vụ nầy, các anh sẽ đưa em về
hoạt động lại tại đây. Còn nếu em muốn ở luôn
trong chiến khu để công tác cũng được. Đó là chuyện
về sau, còn bây giờ, em cần phải lánh mặt khỏi Sài
gòn. Phải cảnh giác, tai mắt của bọn mật thám ghê gớm
lắm. Em thông suốt chưa?
Nó thở dài:
- Dạ thông suốt.
Nói xong, nó nghe nhói trong lòng
với ý nghĩ rằng từ nay không còn dịp ngồi trên băng
ghế học trò, từ nay không còn được gần gũi anh Vinh
nó nữa. Nó nén tiếng thở dài. Tâm hồn như rã ra trong
trạng thái buông trôi, mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy, mặc
cho người khác quyết định số phận của mình.
Đêm hôm đó, nó nằm thao thức,
nghiêng bên nầy, lật trở lại bên kia, có lúc nằm yên,
lắng nghe thành phố ngủ say trong giờ giới nghiêm. Qua
khung cửa sổ hẹp nó nhìn thấy bầu trời mờ mờ sáng
với ánh trăng bị mây che khuất. Bên dưới nhà, từ đầu
hôm, có tiếng máy may chạy lạch cạch đến khuya. Khi máy
ngừng một lúc khá lâu, nó từ từ chìm vào giấc ngủ
nặng nề.
Trong đêm vắng nó nghe lãng đãng tiếng
ai gọi tên mình. Tiếng gọi cách quãng như từ cõi xa xăm mộng mị dội về. Nó chậm chạp mở mắt, nhưng rồi vội vàng nhắm lại vì mắt cay
xè sau một đêm ít ngủ. Tiếng gọi thì thào tiếp theo lôi nó bật
dậy. Trời còn tối nhưng tiếng xe ngoài đường đã vọng
vào. Trong ánh sáng từ bên dưới hắt lên qua lỗ cầu
thang, nó trông thấy cái đầu chị Chi thò lên to sừng sững.
- Dậy. Đến giờ rồi.
- Dậy. Đến giờ rồi.
Nó hốt hoảng mở mùng bò ra, vơ lấy bộ áo quần định mặc vào. Chị Chi
khoát tay la nhỏ:
- Em bỏ cái áo học sinh đó lại.
Vô đó, thứ đó không dùng được. Em mặc áo nầy,
chị mới mua cho em chiều hôm qua.
Chị trao cho nó cái áo màu xanh
thẫm và nói tiếp:
- Em bỏ cặp sách vở lại đây
luôn. Nhanh lên rồi xuống nhà dưới chị dặn thêm.
Nó vội vàng mặc áo và bước
xuống. Chị Chi trao cho nó một cái bao bằng cói và bảo:
- Trong nầy có một cái ba lô
đựng bộ bà ba đen, hai cái quần ngắn, một khăn rằn
và một cái mùng mà chị vừa may xong đêm rồi. Bao nhiêu
đó đủ cho em sống trong Đồng Tháp mười. Chị đã từng
sống trong đó nên biết rõ. Đừng lo, đời sống ở
chiến khu thoải mái lắm.
Chị nhìn đồng hồ và nói tiếp:
- Tới giờ rồi, em nghe chị dặn
thêm. Chị đưa em đến bến xe và giới thiệu em với
giao liên. Em cứ theo người đó. Thôi lên đường.
Hai chị em ra khỏi nhà, bước
lên chiếc xích lô vừa trờ tới. Phố phường còn yên
ngủ, rải rác vài nhà đã thức dậy, ánh đèn vàng vọt
hắt ra từ khung cửa sổ.
Bến xe đò đã rộn rịp, lao xao
tiếng cười tiếng nói. Một dãy xe đò nằm im trên một
khoảng đường phố, vài chiếc đã lên đèn, máy chạy
rì rầm. Nó đứng yên nhìn quanh, cảm thấy lạc loài
trong khung cảnh xa lạ. Chị Chi bỏ đi một lát rồi trở
lại nói nhỏ vào tai nó:
- Em phải đi một mình xuống Cái
bè.
Nó giật thót người:
- Em đi một mình sao? Em chưa từng
biết đường xuống Cái bè. Thế….
- Suỵt, nói nhỏ vậy. Em nghe
đây, rán làm đúng theo lời chị. Em cầm món tiền nầy,
lên xe mới trả. Đến Cái bè thì em xuống xe.
Nó không dằn được nỗi lo
lắng:
- Thế tại sao không có người
dẫn đường?
Giọng đáp của chị Chi bỗng có
vẻ gắt gỏng:
- Người giao liên thình lình được
lệnh đổi đi hướng khác. Nhưng em đừng lo. Tới Cái
bè, em đi chơi loanh quanh đến xế chiều thì xuống bến
đò đi Thiên hộ. Tại bến đò, có người sẽ đến gặp
em. Nhớ kỹ chưa.
- Dạ nhớ.
*
* *
Chiếc xe đò cũ kỹ chở đầy
hành khách, nặng nề bò ra khỏi bến, lao nhanh dần trên
đường phố còn thưa thớt người đi. Trời vừa rựng
sáng. Gió sớm mát lạnh phả ào ào vào mặt, thằng Tân
kéo cao cổ áo, quay nhìn lại những con đường phố đang
lùi dần về sau. Bầu trời màu xám xịt. Từ chân trời,
những tia sáng đầu tiên vọt lên bắn vào dải mây ngang
vắt vẻo, làm cho bên dưới sáng rực. Những mái nhà lô
nhô bắt đầu hiện rõ, đèn đường chưa kịp tắt trở
nên mờ nhạt trong ánh sáng bình minh.
Tân mở to mắt, cố thu vào lần
cuối cùng hình ảnh của thành phố, từ bao năm qua đã
trở thành nơi chốn thân yêu . Chính nơi chốn đó, nó
được nối tiếp lại quảng đời thơ ấu đã bị đứt
đoạn kể từ khi chiến tranh tràn về tàn phá quê hương.
Bây giờ nó đang lìa xa chốn đó bỏ lại sau lưng những
giờ phút cực kỳ êm đềm trong lớp học, những buổi
đá banh sôi nổi vơi bạn bè trên miếng đất trống
trước trường. Và nhất là….
Lòng nó lại nhói đau. Nó quay
mặt về phía trước, cố nuốt đi hình ảnh của anh nó
bao nhiêu năm rồi sống cận kề bên nó, săn sóc nó những
lúc ốm đau, mua cho nó quyển vở cây bút, sắm cho nó cái
áo đôi giày. Nó đã cố gắng học hành thực giỏi.
Nguồn kích thích to lớn nhất trong những giờ miệt mài
trên trang vở học trò chính là ánh mắt vui mừng và nụ
cười rạng rỡ của anh khi đọc những bản điểm mỗi
lục cá nguyệt kèm theo lời khen của tất cả giáo sư
dành cho nó.
Xe tăng thêm tốc lực, tiếng máy
xe gầm thét như con thú điên cuồng, thùng xe cũ kỹ run
lên bần bật trong tiếng khua rầm rầm. Tiếng động to
làm nó khó chịu nên thò mặt ra ngoài cửa sổ để tìm
chút thư giãn trong lòng. Đang bắt đầu mùa nắng, nghĩa
là vào thời gian thu hoạch trên những cánh đồng, từng
đoàn người lũ lượt kéo nhau đi dài theo những bờ đất,
bóng họ in rõ trên những miếng ruộng lúa chín vàng và
những nơi gặt xong chỉ còn trơ gốc rạ. Xa xa, xóm làng
nằm rải rác với những mái lá lấp ló bên dưới hàng
cây xanh. Một đàn cò trắng bay thong thả, ánh nắng làm
nổi bật những chiếc cánh trắng phau trên nền trời
xanh thẳm.
Tân ngoái cổ nhìn theo đàn cò
đang thụt lùi về sau, bỗng cảm thấy trở nên thơ thới.
Nó nghĩ đến chiến khu và nghe lòng nao nao. Chiến khu là
nơi bạn bè nó thường nhắc đến và cũng được ca tụng
qua một bản nhạc rất nổi tiếng lúc bấy giờ. Cách
nay không lâu lắm, nó có đọc một tờ truyền đơn trong
lớp kêu gọi học sinh thoát ly gia đình vào khu để chiến
đấu. Bạn bè nó chuyền tay nhau xem một cách thích thú
nhưng không đứa nào đủ can đảm làm theo lời kêu gọi.
Lúc đó, nó không quan tâm lắm đến những tờ truyền
đơn. Nó biết rằng những thứ đó chỉ dành cho quần
chúng, còn nó thì đã là một thành viên của tổ chức
cách mạng hoạt động nội thành. Tuy nhiên, cũng như
những đứa trẻ mới lớn lên, nó vẫn xem chiến khu là
một nơi chốn thực hào hùng. Nơi đó có toàn là những
con người yêu nước, dám từ bỏ cuộc sống bình yên,
từ bỏ tổ ấm của gia đình, hi sinh tất cả để chiến
đấu dành độc lập cho Tổ quốc.
Chiến khu, chiến khu! Nơi đó,
mỗi ngọn cây, mỗi cọng cỏ, mỗi tấc đất đều toát
lên nét oai hùng. Nơi đó, ngọn lửa cách mạng rực cháy
một cách hiên ngang; người ta công khai hoan hô kháng
chiến, người ta tự do hát những bài ca yêu nước, người
ta to tiếng mắng chửi thực dân và tay sai bán nước mà
không phải lo sợ mật thám rình rập quanh mình.
Chiến khu, chiến khu! Ôi, đó
thực là nơi xứng đáng để nó từ bỏ phố phường
nhộn nhịp, từ bỏ quảng đời học sinh của nó.
Người ta thường bảo trẻ thơ
thì thoạt khóc thoạt cười. Tân vẫn chưa rời hẳn tuổi
thơ nên hình ảnh chiến khu trước mặt dễ dàng thay thế
cho thành phố sau lưng. Nỗi buồn phiền nhanh chóng đi qua
nhường chỗ cho lòng rạo rực đầy phấn khởi.
Xe đến bến, Tân bước xuống
nhìn quanh, lòng thấy vui vui trước cảnh rộn rịp của
nơi mà lần đầu tiên nó bước chân đến.
Cái bè là một thị trấn nhỏ
nhưng sầm uất nằm trên một nhánh của Tiền giang. Cũng
như hầu hết các thị trấn khác của miền Nam, Cái bè
nằm trong sự đe dọa của chiến tranh đang hồi ác liệt.
Tuy nhiên, sự đe dọa đó chỉ có ý nghĩa về đêm. Ban
ngày, phố xá vẫn tấp nập, người buôn kẻ bán nói
cười thoải mái như đang sống trong cảnh yên bình thịnh
trị. Cuộc chiến kéo dài đến tám năm rồi, dân chúng
đã quen với chịu đựng, nỗi khổ đau trở thành chuyện
bình thường nên họ đã trở lại với nếp sống hồn
nhiên đúng với tâm hồn vô tư của họ.
Trong bến xe nhỏ đầy rác và
bụi bặm, vài chiếc xe đò cũ kỹ nằm im dưới ánh
nắng. Một chiếc xe hơi nho nhỏ và xấu xí nổ máy xành
xạch ngay ở bên đường. Một dãy hàng quán chi chít dưới
những mái nhà lụp xụp, phía trước bày nhiều thứ thức
ăn trên những chiếc bàn đầy bụi.
Nó bỏ qua nhiều tiếng mời gọi
từ trong quán, quay lưng đi thẳng về hướng chợ. Nó
dừng lại trên chiếc cầu bắc qua sông Cái bè, nhìn ghe
thuyền tấp nập bên dưới. Nó bước xuống bờ sông và
nhanh chóng tìm được nơi đậu của chiếc tàu đò chở
khách đi Thiên hộ. Nó yên tâm nên suốt buổi trưa thơ
thẩn dạo quanh khu phố chợ rồi đi theo con đường rợp
bóng mát chạy dọc bờ sông.
Khi mặt trời đã ngã hẳn về
hướng Tây, nó quay trở lại đầu cầu, xuống bến sông,
đến đứng gần con đò sẽ chở nó vào chiến khu. Nó
nhớ lời chị Chi sáng nay nói với nó rằng sẽ có người
đến gặp nó để dẫn nó đi. Người đó là ai, đã đến
chưa? Nó nhìn quanh, hi vọng gặp một gương mặt nào đó
đang đợi nó, nhưng nó chẳng thấy ai như thế cả. Người
thì đông nhưng họ chỉ đi ngang qua hay lúi húi với công
việc riêng, chẳng ai buồn nhìn đến nó.
Trời tối dần, nỗi lo của nó
mỗi lúc một tăng lên. Mặt trăng rằm to tướng và tròn
trịa chui lên từ rặng cây đen ngòm ở cuối chân trời.
Trên bờ, phố xá đã lên đèn; dưới nước, ghe thuyền
đã đậu lại im lìm bên bờ sông. Gió chiều phe phẩy
xua đi cái nóng của một ngày vừa mới tắt. Trên sông,
ánh trăng bị xé vụn thành muôn ngàn mảnh lấp lánh đùa
giỡn trên mặt nước gợn sóng lăn tăn.
Nó nhìn cảnh đêm, lòng nặng
trĩu ưu tư. Phải làm sao đây? Người mà nó cần gặp có
lẽ sẽ không đến nữa. Ngày mai nó phải quay về Sài
gòn, trở lại nhà chị Chi để nghe chị giải thích lý
do và xếp đặt lại một chuyến đi khác. Nhưng làm sao
để về tới Sài gòn? Nó hoảng hốt sực nhớ ra rằng
trong túi nó không còn tiền. Số tiền mà chị Chi dúi cho
nó sáng nay chỉ vừa đủ tiền xe. Số tiền trong túi mà
nó mang theo khi đi học đã tiêu tốn trong các bữa ăn
trong quán. Nó thò cả hai tay vào túi, túi trống không. Nó
choáng váng mặt mày. Bây giờ nó mới biết đồng tiền
cần thiết đến mức nào. Từ trước đến nay, nó được
anh Vinh hoàn toàn bảo bọc nên không hề biết giá của
tiền bạc. Bây giờ đứng đây một mình không còn một
xu dính túi nó mới thấy sự quan trọng vô cùng của
đồng tiền. Nó thở dài, đến ngồi ở bậc thang lên
xuống của bờ sông.
Tại sao chị Chi chỉ đưa cho nó
vừa đủ tiền xe rồi đẩy nó xuống đây? Có phải chị
muốn tống nó ra khỏi nhà như vứt đi một món đồ vật
nguy hiểm để món đồ đó không thể trở về lại nhà
chị hay không? Nó lo lắng, nó khổ sở vì ý nghĩ đen tối
đó. Làm sao có thể trở lại Sài gòn nếu không trả
được tiền xe? Nhưng trước cả chuyện trở về Sài
gòn, nó cần phải tìm một chỗ trú ngụ đêm nay trong
cái thị trấn xa lạ nầy.
Nó đau đớn nhớ lại căn nhà
nhỏ nghèo nàn của dì Năm mà mỗi đêm nằm xuống nó
được một giấc ngủ bình an để sáng hôm sau cắp sách
đến trường. Nó vĩnh viễn mất chốn bình yên đó rồi.
Nó liên tưởng đến vạt cỏ sau chiếc băng đá của
vườn Bồ rô trong cái đêm đầu tiên ra khỏi nhà. Giá
mà giờ nầy nó được nằm trên bãi cỏ đó, lắng nghe
côn trùng ra rả trong các lùm cây, tiếng xe cộ ngoài xa
tắt dần để biết rằng thành phố đang đi vào giấc
ngủ tronh giờ giới nghiêm.
Cái bãi cỏ sau băng đá làm nó
liên tưởng đến những sạp bán tạp hóa trong chợ Cái
bè mà sáng nay nó đã đi dạo qua. Nó phải lên trên đó
để tìm một chỗ ngủ qua đêm, rồi ngày mai nó sẽ đi
khắp chợ xin từng đồng bạc để có tiền xe về Sài
gòn. Than ôi, nó những tưởng đi theo con đường cách
mạng đầy vinh quang, ngờ đâu lại đưa đẩy đến thân
phận của đứa ăn xin đầu đường xó chợ. “Phải chi
anh nó đừng hoạt động cho cách mạng thì giờ nầy đây
anh em nó đang hạnh phúc trong căn nhà nhỏ và ngày mai nó
lại cắp sách đến trường”. Ý nghĩ nầy lần đầu
tiên xuất hiện làm cho nó hoảng hốt như vừa chạm phải
một cái gì không nên mó tới. Nó vội xua đuổi ý nghĩ
đó đi và nhỏm dậy đứng tần ngần một lát, lưng quay
về phía bờ sông. Nó chuẩn bị bước lên bậc thang thì
giật thót người vì tiếng nói ngay sau lưng nó:
- Cháu muốn đi Thiên hộ phải
không? Tàu đò đi Thiên hộ đây nhưng sáng sớm mai mới
chạy.
Nó quay phắt lại. Mặt trăng đã
lên khá cao, sáng vằng vặc. Nó trông thấy một cụ già
tóc bạc phơ, chùm râu bạc lưa thưa dưới cằm. Nó nhìn
trân ông cụ, nửa mừng, nửa sợ. Nó đổ liều:
- Dạ phải, cháu muốn vào Thiên
hộ thăm bà con nhưng không có tiền đi đò.
Ông già vỗ vai nó cười hiền
lành:
- Thôi xuống đây. Sáng mai đi,
qua trả tiền cho. Đi thăm bà con mà không có tiền đi đò,
nói vậy mà nghe được à?
Ông hỏi nhỏ:
- Em ở Sài gòn xuống và muốn
vào trong đó phải không?
Lỡ liều thì liều luôn, nó đáp:
- Dạ phải.
- Vậy thì xuống đò đi, ngủ
qua đêm dưới đó.
Nói xong, ông đi trước, nó lẽo
đẽo theo sau, bước qua tấm ván nhỏ và lên tàu. Nó nhìn
vào trong mui, thấy trên hai hàng ghế hai bên có vài người
ngồi và nằm hút thuốc. Ông già bảo nó:
- Em vô trong kia nằm ngủ đi.
Nó lắc đầu:
- Cháu thích ngồi ngoài nầy nhìn
trăng sáng.
Ông già mỉm cuời rồi bước
vào trong. Nó ngồi trên sàn tàu đò, nhìn ánh trăng rải
xuống đồng ruộng mênh mông. Có tiếng trẻ con nô đùa
trong xóm nhà bên kia sông, lòng nó bỗng chùng xuống trong
nỗi buồn rười rượi. Nó chợt nhớ đến một hình ảnh
rất xa xưa, những đêm trăng trong ngôi làng bé nhỏ ở
quê miền Trung, nơi nó đã hưởng được hạnh phúc của
tuổi thơ. Bây giờ tuổi thơ của nó qua rồi, không còn
bao giờ trở lại nữa. Nó xua đuổi quá khứ để trở
về hiện tại. Nó đã cởi được mối lo chỉ vài phút
trước đây cơ hồ bóp nghẹt tim nó. Bây giờ nó tin
chắc ông già chính là người sẽ đưa nó vào chiến khu
Đồng Tháp. Nó muốn thừa thế lấy lại niềm phấn khởi
khi nghĩ đến chiến khu, vùng đất hào hùng làm say mê
bọn trẻ ở thành phố. Nó lẩm bẩm:
- Chiến khu, chiến khu, ta sắp
vào đến chiến khu rồi.
Nó lặp lại vài lần nhưng chẳng
thấy chút phấn khởi nào. Nó chán nản nằm dài lên sàn
ván, gác một tay lên che mắt. Con tàu lắc lư nhè nhẹ,
ru nó vào giấc ngủ êm đềm.
Nó giật mình tỉnh giấc vì
tiếng nói lao xao. Mặt trăng tròn đã chênh chếch về
Tây, sắp chắm đọt cây cao bên bờ sông. Trời chưa sáng
hẳn nhưng quận lỵ đã thức dậy sau khi giới nghiêm
chấm dứt. Trên cầu có nhiều người qua lại, hầu hết
quang gánh trên vai. Trên bờ sông, lố nhố bóng người.
Tấm ván dài từ ghe được buông
xuống mé nước, người ta lũ lượt lên tàu. Một hồi
kẻng leng keng, tiếng còi rúc lên, tàu từ từ rời bến.
Cảnh vật hiện rõ dần trong ánh sáng ban mai. Một làn
sương mỏng còn vấn vương trên cánh đồng bát ngát kéo
dài đến tận chân trời.
Tân ngồi trước mũi tàu đò,
say sưa ngắm nhìn dòng sông phẳng lặng. Nước bị xé
đôi phía trước, róc rách chảy dài theo hai bên mạn và
cuồn cuộn nổi bọt trắng xóa ở đuôi tàu.
Tàu đò ra giữa dòng sông rộng
và lừ đừ tiến tới. Tiếng máy tàu rì rầm lẫn với
tiếng cười, tiếng nói xôn xao của hành khách. Hai bên
bờ, những sợi khói mỏng tỏa ra từ những mái lá cho
người nhìn cảm giác ấm áp trong lòng.
Đến trưa, tàu đò ghé lại môt
ngôi chợ ven sông, người lên kẻ xuống vội vàng, rồi
tàu lại rúc còi tiếp tục lên đường, rẽ vào một con
kinh thẳng tắp như kẻ chỉ.
Khi mặt trời chênh chếch ngã về
hướng Tây, tàu ngừng lại. Nó theo chân ông già bước
lên bờ, nhìn quanh chỉ thấy một nhà lá nhỏ trên bờ
kinh, phía sau là cánh đồng rộng mênh mông. Thấy nó nhìn
với vẻ ngạc nhiên, ông già lên tiếng:
- Đây thuộc về Thiên hộ rồi
nhưng còn một đoạn đường nữa mới tới chợ. Ông đưa
tay chỉ vào hàng cây rất xa, nói tiếp:
- Trong đó là Đồng Tháp mười
nhưng chưa vô bây giờ. Mình dừng đây ăn cơm chiều, đợi
tối mới qua bót gác được. Vô nhà đi. Nhà nầy là của
con gái qua. Hai vợ chồng và hai đứa con ra chợ rồi,
sáng mai mới về.
Nói xong ông chui vào nhà và không
bao lâu có tiếng lửa nổ tí tách vui tai.
Bữa ăn thanh đạm được dọn
ra trên chiếc giường tre ọp ẹp duy nhất trong nhà. Nồi
cơm bốc hơi nóng lên nghi ngút, miếng cá khô nướng thơm
phưng phức làm cho Tân nghe bụng đói cồn cào.
Ăn xong, ông già bảo nó:
- Từ đây đi thêm hai cây số
nữa là tới kinh Nguyễn Tiếp, thêm một đoạn nữa là
tới kinh Bằng lăng. Tại ngã ba nầy có một bót gác của
lính bảo an gắt gao lắm. Qua được bót nầy là vô khu
giải phóng.
Ông ngừng lại, nhìn thẳng vào
mắt nó rồi nói tiếp:
- Qua đã đưa nhiều học sinh vô
trong đó theo kháng chiến nhưng qua thấy em thì qua thương
lắm. Chiều hôm rồi, qua ngồi trong tàu thấy em đứng
trên bờ mặt buồn thiu nên qua để em đứng đó cho tới
tối. Thoát ly gia đình, xa cha, xa mẹ buồn là phải. Con
người thì phải biết vui biết buồn cho đúng lúc. Mình
đi vì nhiệm vụ chớ phải đi chơi đâu mà vui cười hớn
hở. Mấy lần trước, có nhiều đứa vô khu mà mặt mày
tươi rói, được vài tháng nhớ nhà khóc lóc đòi về,
làm khổ anh em trong đó rồi khổ cho qua nữa.
Ông quay mặt nhìn ra cánh đồng
rộng, giọng trầm xuống, man mác buồn:
- Tội nghiệp, có một cậu mặt
mày sáng sủa lắm, mới vô được có một tháng thì nhứt
định xin về. Gặp lúc có tin Tây và lính quốc gia đang
tập trung ở Thiên hộ chuẩn bị càn quét nên mấy anh
không cho đi. Tới khi yên rồi, qua được lệnh cho cậu
ấy ra khỏi chiến khu. Không may, đêm đó bà vợ qua lên
cơn đau bụng, qua phải hoãn lại chuyến đi một đôi
ngày. Không ngờ cậu ta nhớ nhà quá chịu không nổi lén
lấy xuồng tự mình bơi ra. Đến ngã ba Bằng lăng thì bị
lính trong đồn bắn chết, mấy ngày sau xác nổi lên,
đồng bào ở chợ Thiên hộ vớt lên đem chôn nhưng không
biết con nhà ai để báo tin về cho cha mẹ nó biết.
Ông thở dài:
- Vụ đó làm qua buồn và hối
hận mãi cho tới bây giờ. Phải chi đêm đó qua để mặc
bà vợ qua, đưa nó đi thì nó đâu có chết, bả đau bụng
vì ăn bậy, tới sáng thì hết đau chớ có thuốc thang gì
đâu.
Tân nhìn trân trân ông lão lạ
lùng. Nó cảm thấy trong đầu ông già nông dân hiền lành
ấy, có cái gì đó vượt ra ngoài sự hiểu biết của
nó. Cái điều mơ hồ đó gây cho nó một tình cảm vừa
kính mến vừa sợ hãi, lẫn tò mò. Nó muốn hỏi ông
nhiều điều nhưng không biết mở lời thế nào cho phải.
Bản chất nó không phải là của đứa trẻ nhút nhát,
nhưng khung cảnh xa lạ nầy làm cho nó e dè. Tuy nhiên nó
rất mong muốn biết trước bộ mặt của chiến khu, nơi
mà nó sắp bước vào để sống những ngày chiến đấu.
Nó rụt rè hỏi ông lão:
- Dạ thưa, ông vô chiến khu lâu
chưa?
Ông lão cười ha hả:
- Vô lâu chưa hả? Chính qua cũng
không nhớ vô từ lúc nào. Qua còn nhớ lờ mờ là lúc
qua còn nhỏ thì cánh đồng đó mênh mông và hoang vu; đế,
sậy, tràm mọc như rừng, đi cả ngày không gặp một
bóng người. Sau này, Tây vô đào kinh thông thương, dân
tứ xứ theo đường nước vô làm nhà để ở, đất đai
của trời, có bao nhiêu sức cứ khẩn ra mà cấy lúa.
- Ủa, họ vô đó làm ruộng sao?
Cháu tưởng trong đó là chiến khu chỉ có toàn là Việt
minh, ai vô trong đó cũng có nhiệm vụ đánh Tây thôi mà.
Ông lão lại cười to hơn:
- Đâu phải ai ở trong đó cũng
đều là Việt minh hết. Như qua đây, sống trong đó làm
ruộng để sống chứ có phải Việt minh đâu.
Tân chưng hửng:
- Ủa?
Ông lão cảm thấy thương hại
khi nhìn cặp mắt thơ ngây đầy ngạc nhiên của thằng
bé:
- Ngày mai em vô trong đó rồi
biết.
Ông ngừng nói, ngồi bệt xuống
đất, tay bứt một cọng cỏ dại đưa vào miệng nhâm
nhi. Đột nhiên ông quay lại nhìn nó:
- Hồi hôm, thấy em đứng buồn
xo trên bờ sông Cái bè, tối nằm chèo queo trên sàn mũi
tàu đò, qua thấy thương lắm. Qua muốn nhận em làm con
nuôi của qua.
Ông cảm thấy lời đề nghị
nầy có vẻ đường đột đối với thằng bé nên vội
phân trần:
- Trong chiến khu, thanh niên như
em nhận bọn già như qua làm cha nuôi, mẹ nuôi là chuyện
thường. Qua muốn nhận em làm con út của qua. Qua muốn có
một đứa con trai mà bả đẻ luôn ba đứa con gái rồi
thôi không đẻ nữa.
Lời đề nghị của ông lão, quả
thực làm cho nó ngạc nhiên đến sửng sốt. Tuy thế,
chính lời đề nghị đường đột nầy làm cho nó cảm
thấy ông lão trở nên gần gũi với nó một cách lạ
lùng. Nó bắt chuyện với ông bằng giọng nói tự nhiên
hơn:
- Chắc ba chị lớn cả rồi?
- Ừa, đứa nào cũng chồng con
đùm đề. Con Hai ở chợ Thiên hộ, con Ba chợ Cai lậy
đều mở tiệm buôn bán, con Tư ở tại nhà nầy, hai vợ
chồng nó làm ruộng.
- Vậy là chỉ có hai ông bà già
ở với nhau trong đó?
- Trong đó khổ lắm con ơi. Máy
bay bắn phá liên miên nên chẳng có đứa nào chịu vô
trong đó để sống.
- Sao hai bác không ra sống với
các anh chị ngoài nầy cho yên ổn hơn.
- Qua cũng muốn như vậy nhưng
anh em năn nỉ ở lại, nhờ qua đưa đón cán bộ, học
sinh và thanh niên vô ra bưng biền.
- Tại sao người ta không cắt cử
người khác còn trẻ khỏe mạnh hơn bác làm công việc
liên lạc đó?
- Không được đâu. Qua già rồi
lại biết rõ tính nết mấy thằng lính trong đồn nên
làm việc đó mới được.
Ông đứng dậy, nói tiếp:
- Thôi, sắp tối rồi, sửa soạn
đi con. Chèo riết tới ngã ba thì vừa lúc. Đi sớm hơn,
tụi lính bắt ghé xuồng vào xét kỹ lắm, còn đi trễ
hơn thì chúng nó không cho vô. À, qua dặn, con nghe cho kỹ
đây nè. Chút xíu nữa xuống xuồng, con nằm co như con
tôm trên tấm ván ở đáy xuồng, bên trên qua đậy tấm
đệm rồi để lên vài bó củi. Ráng nằm yên, tụi lính
có làm gì cũng đừng nhúc nhích, để cho qua lo liệu.
Thôi, lấy đồ đạc đi.
Ông bước lui sau nhà, vạch mấy
bụi sả lôi ra chiếc xuồng ba lá giấu kỹ trong con mương
nhỏ, bên trên là giàn mướp xanh um.
Nó bước xuống mé sông, cẩn
thận leo lên mà cũng làm cho chiếc xuồng chòng chành như
gần lật úp. Ông lão quát khe khẽ:
- Ngồi xuống, nắm lấy be xuồng.
Ngay giữa xuồng có tấm ván nhỏ, nằm lên đó. Được
rồi, nằm yên như vậy.
Ông lão lấy một chiếc đệm
trùm kín lên mình nó. Nó cảm thấy ngột ngạt vì mùi
mốc meo hôi hám từ chiếc đệm tỏa ra. Bộp, bộp, vài
bó củi rơi nhẹ bên trên.
Chiếc xuồng lắc lư nhè nhẹ và
bắt đầu tiến tới. Nó lắng nghe tiếng chèo khua nước
phía trước lẫn với tiếng nước chảy róc rách ngay bên
ngoài lớp gỗ của mạn thuyền. Nó nghiêng đầu nhìn
lên. Trong không gian hẹp và tối thui, nó còn nhận ra được
bầu trời bên trên qua vô số đốm sáng lờ mờ nơi
những lỗ đan của chiếc đệm.
Xuồng tiếp tục trôi chầm chậm,
tiếng róc rách của nước êm êm sát bên tai. Bên ngoài,
trời đã tối, không còn những đốm sáng xuyên qua tấm
đệm nữa. Nó nhắm mắt lại, cố làm quen với cái không
gian tù túng và cố không nghĩ đến cơ thể và tay chân
bắt đầu tê mỏi trong thế nằm nghiêng bất động. Nó
mơ màng nhớ lại những chuyện vừa qua thì bỗng giật
thót mình, tim đập thình thịch vì tiếng thét to như một
nhát dao sắc, chặt đứt đôi không gian phẳng lặng bên
ngoài:
- Xuồng ai đó, dừng lại.
Bầu trời bên ngoài chợt sáng
lên qua những đốm nhỏ của chiếc đệm. Nó chợt hiểu
đó là ánh đèn pha từ bót gác rọi vào. Nó cắn chặt
hai hàm răng, cố nén cho cơ thể đừng run lên. Ngay ở
đầu xuồng, có tiếng ông già đáp lại:
- Tui đây, lão Tư Cám đây.
Giọng đàn ông từ trên bờ
sông:
- Ông Tư đó hả, đi đâu giờ
nầy mới về?
- Tính về sớm hơn mà thằng
cháu ngoại, con của con Hai tôi, bị nóng đầu làm kinh dữ
quá, tôi phải giữ cháu để mẹ nó đi kiếm thuốc.
- Cái gì trong xuồng vậy? Đồ
tiếp tế cho Việt minh phải không? Ghé vô đây tôi khám
coi.
Tân nghe một luồng hơi lạnh
chạy dọc sống lưng, trong khi mặt nó nóng bừng bừng
như đang bị đút vào một lò lửa đỏ rực. Nó ngạc
nhiên khi nghe giọng ông Tư vẫn bình thản:
- Có tiếp tế gì đâu. Con Hai
cho một ít củi chẻ đem vô trỏng nấu cơm. Mới dứt
mưa nên trong đó không có củi chụm. Đốt ba cái đồ cỏ
khô rơm mục, khói um, bà nhà tôi cằn nhằn nghe nhức
xương.
- Vậy hả? Ông già cưng vợ dữ
a. Thôi vô đi kẻo bả trông. À có mua thuốc hút không,
cho một điếu đi ông Tư. Sáng giờ chưa có hơi nào thèm
quá chừng.
- Có gói Bát tô xanh đây. Biết
mấy chú khoái thứ nầy nên đi chợ về là tôi đâu có
quên mua.
- Liệng mạnh vô đây đi bác Tư.
Coi chừng rớt xuống nước đó.
Chiếc xuồng lắc mạnh một cái,
tiếp theo là tiếng la mừng rỡ:
- Được rồi, thôi bác Tư vô
đi. Gởi lời thăm bà già nghe.
- Ừa.
Tiếng mái chèo khua nước lại
bắt đầu; Tân cảm thấy xuồng quay mũi rồi lướt tới.
Nó thở phào nhẹ nhõm nhưng vẫn nằm yên không dám nhúc
nhích. Độ nửa giờ sau, tiếng mái chèo bỗng ngừng lại,
nó nghe tiếng ông Tư nói to:
- Xong rồi con ơi. Vô vùng giải
phóng rồi.
Những bó củi trên cơ thể nó
được dở hổng lên và rơi lộp độp về phía đuôi
xuồng, rồi chiếc đệm được kéo bật tung. Nó ngồi
dậy, cảnh vật chung quanh sáng lòa trong ánh trăng chênh
chếch.
Chiến khu đây rồi! Nó cảm thấy
một nỗi vui tưng bừng như nổ tung trong lòng nó. Nó muốn
thét to lên cho thỏa niềm sung sướng. Sự hiểm nguy đầu
tiên mà nó vừa trải qua, như một cơn gió thổi bùng lên
ngọn lửa kiêu hãnh khi được đặt chân lên vùng đất
oai hùng mà trong bao năm qua, nó và bạn bè nói đến với
lòng sùng kính.
Nó nhấc mình dậy ngồi lên tấm
ván cao hơn bắc ngang qua hai be xuồng. Nó thẳng lưng,
nhướng cổ, nhìn bên nầy rồi quay sang bên kia. Dưới
ánh trăng tròn mười sáu, chiến khu thân yêu của nó
phẳng phiu, tuyền một màu xam xám như một tấm thảm
khổng lồ trải rộng đến tận chân trời. Nó cố nhướng
mắt tìm một nét gì đó có dáng oai hùng như óc tưởng
tượng của nó trước đây về chiến khu. Nhưng nó không
thấy gì cả ngoài cánh đồng mênh mông và hiền hòa say
sưa giấc ngủ thanh bình trong một không gian vắng lặng
mênh mang.
Chiếc xuồng tiến chầm chậm
trong lòng con kinh nhỏ. Lần lượt hai bên bờ xuất hiện
những đám lau sậy, có nơi thưa thớt, có nơi dày bịt.
Nơi sậy thưa, cánh đồng thấp thoáng sau những thân đứng
khẳng khiu; nơi sậy dày, những thân đan kín vào nhau,
vương dài ra mặt kinh, tạo thành một cái vòm, ngăn chận
ánh trăng rọi trên mặt nước. Muỗi như dày đặc trong
không khí. Chúng bay ào ào, chúng chạm vào mặt, chúng bám
vào những vùng da không được áo quần che kín. Tân luôn
tay đập bem bép, vào mặt, vào tay chân của mình.
Xuồng vẫn lướt đi trong cảnh
hoang sơ đến vài tiếng đồng hồ thì cái nhà đầu tiên
bắt đầu xuất hiện trên bờ kinh. Đó là một mái tranh
nhỏ bé thấp lè tè, mặt trước quay ra phía con kinh,
trống toang hoác, nhìn vào chỉ thấy một vùng tối đen,
không một dấu hiệu nào của sự sống bên trong. Tân
nhướng mắt cố nhìn, hi vọng tìm thấy một chuồng heo,
chuồng gà hay ít nhất một chú chó nằm sau nhà. Nhưng
không có gì cả, ngoài cái nhà đơn độc tiêu điều.
Đến quá nửa đêm, xuồng cập
bến bên một mái nhà không khác gì những mái lá gặp
rải rác trên bờ kinh suốt trên quảng đường đi. Ông
Tư cột xuống vào một trụ ở mé nước và cất tiếng
gọi. Một giọng trả lời của đàn bà ngái ngủ phát ra
từ khoảng tối đen của căn chòi rồi một ánh lửa lóe
lên, vừa đủ để soi sáng bên trong căn lều.
Ông Tư bước lên bờ. Nó theo
sau ông chui vào lều, cảm thấy xúc động khi nghĩ rằng
kể từ hôm nay, nó đã thoát ly, từ bỏ nếp sống thư
sinh để thực sự hiến mình cho cách mạng.