Một cuộc chiến tranh dài
Tập II
Chương 5: Trở về
(2)
Sáng hôm sau, Tân trở về
Sài gòn để thu xếp công việc như đã bàn với anh Long.
Ông Lương sửng sốt khi cậu ngỏ lời xin nghỉ việc để
đi làm ăn xa. Ông hỏi đi hỏi lại rằng ông và những
người trong tiệm có làm cậu buồn lòng hay không. Tân
phải thanh minh nhiều lần ông mới yên tâm. Cuối cùng
ông nói với cậu:
- Mấy hôm nay, ngộ đợi nị về
báo tin thi đậu để đi mua một phần thưởng cho nị.
Bây giờ nị đi gấp quá, làm sao ngộ tính cho kịp. Thôi,
ngộ tặng cho nị cái nầy.
Ông thò tay sâu vào trong hộc của
quầy lấy ra một chiếc đồng hồ trao cho Tân và nói:
- Nị cất cái đồng hồ nầy đi
mà dùng. Ngộ tặng cho nị làm kỷ niệm. Đồng hồ Wyler
của Thụy sĩ đó. Ngộ mua nó lúc mới vô Sài gòn. Nó
chạy tốt lắm, chưa hư lần nào. Ngộ cũng tặng cho nị
một ít tiền để đi đường. Làm ăn ở đâu cũng phải
nhớ lâu lâu về thăm ngộ.
Tân nhận lấy chiếc đồng hồ
và món tiền, cảm động đến rưng rưng nước mắt. Những người trong tiệm cũng lần lượt chia tay Tân, ai cũng tỏ vẻ lưu luyến.
Tân trở lại Biên hoà vào buổi trưa. Giấc này anh Long ở trong sở làm, nhưng sáng nay anh đã cẩn thận giao cho Tân chìa khóa nhà. Buổi trưa dài thong dong, Tân ăn hết ổ bánh mì mua ở đầu ngõ, bắt sang chuyện dọn dẹp nhà cửa, quét
mạng nhện trên trần, lau chùi nền nhà, bếp và buồng
vệ sinh.
Cái kệ sách lớn chiếm
nguyên cả tấm vách ngăn phòng khách với buồng trong là nơi Tân dành nhiều thời gian để phủi bụi, lau chùi.
Sách được anh Long phân loại một cách kỹ lưỡng. Sách khảo
cứu, văn học, triết lý, tiểu thuyết, vân vân, mỗi thứ
vào một ô riêng. Tân tần ngần cầm từng quyển sách trên tay, hiểu rằng, chính cái kệ sách dồi
dào nầy đã trang bị cho anh Long nhiều kiến thức và sự
nhận xét tinh tế trong những câu chuyện giữa hai người.
Buổi chiều, anh Long về, ngạc
nhiên một cách thích thú khi bước vào thấy căn nhà sạch
sẽ và tươm tất trông lạ mắt hẳn ra. Hai anh em dẫn
nhau ra tiệm dùng bữa ăn chiều. Kể từ ngày hôm sau trở
đi, mỗi ngày Tân đi chợ và nấu ăn cho hai người tại
nhà. Công việc nầy bớt được phần nào nỗi chán ngán
vì nhàn rỗi.
Một tuần lễ sau, cậu đi Bảo
lộc để thăm ông bà Thái. Nhờ được chỉ rõ địa
điểm trong một lá thư nên cậu tìm ra chỗ ở của ông
bà không mấy khó khăn. Đó là một nơi nằm không xa quốc
lộ, nhưng trong vùng khá vắng vẻ. Khu đất rộng khoảng
ba ngàn thước vuông, trên một sườn đồi trông xuống
thung lũng, dưới đó có một dòng suối nhỏ chảy qua.
Đất mới được vỡ hoang vài
tháng nên còn trơ nền đỏ au khắp nơi. Một số cây con
đã được trồng xuống, những cành khẳng khiu mang vài
chiếc lá bé tí, phất phơ trong gió lạnh. Giữa khu đất
trơ trọi, ông bà Thái ở trong một gian nhà nhỏ vách ván
mái tôn, phía sau là một chuồng gà thô sơ.
Hai người già hết sức mừng rỡ
khi thấy Tân đi vào, ngang qua chiếc cổng tre xiêu vẹo.
Cậu bước nhanh đến nắm tay hai vị ân nhân của mình.
Không khí mát lạnh mà mồ hôi vẫn lấm tấm trên mặt
ông bà. Hai người vừa làm xong công việc buổi sáng và
mới nghỉ tay để chuẩn bị cơm trưa. Ba người vào nhà.
Bên trong đồ đạc đơn sơ nhưng xếp đặt gọn gàng.
Cậu báo với ông bà mình đã đậu tú tài và có ý định
lên đại học. Ông thì cho biết đã xin nghỉ hưu để
dành hết thì giờ cho khu vườn.
Trong khi ông bà xuống bếp nhúm
lửa nấu cơm, Tân bước ra bên ngoài đứng ngắm nhìn
những quả đồi trùng điệp nối đuôi nhau chạy mãi đến
tận dãy núi cao màu xanh nhạt che khuất mất chân trời.
Một số ngọn đồi chưa được khai phá còn um tùm cây
dại. Một số khác ven đường đã trở thành những đồi
chè xinh đẹp.
Tân cảm thấy một niềm vui
thích rộn ràng trong lòng. Cậu cảm nhận một nỗi xúc
động sâu xa trước khung cảnh xinh đẹp và hùng vĩ của
Tổ quốc mình. Cậu định bụng sẽ ở lại đây trong
nhiều ngày để giúp đỡ cho hai ông bà hoàn chỉnh khu
đất nầy. Ngay buổi chiều hôm đó, cậu đã mang cuốc
cùng ông bà ra vườn chăm chỉ làm việc. Đã từng quen
với công việc đồng áng trước đây trong nông trường
tự túc của tỉnh đoàn Mỹ tho ở Đồng tháp mười nên
tay cậu đào cuốc rất thành thục và nhanh chóng làm cho
ông bà ngạc nhiên, tấm tắc khen ngợi. Cậu dẹp những
lùm cây dại còn sót lại trong khu vườn, đào lỗ trồng
cây mới. Có hôm, theo lời chỉ dẫn của ông Thái, cậu
mang rựa vào rừng đốn cây vác về nới rộng gian nhà
và tiếp tục làm thêm hàng rào quanh vườn. Nhiều hôm
đang làm việc, cậu thoáng thấy hai ông bà dừng tay nhìn
cậu với đôi mắt chan chứa yêu thương làm cho cậu cảm
thấy dậy lên trong lòng, một nỗi ấm áp lạ thường.
Mười ngày sau, cậu nhận được
thư của anh Long bảo phải về gấp. Kèm theo thư là một
mảnh giấy cắt trong một tờ báo hàng ngày đăng thông
cáo dự thi vào các trường đại học. Ngay sáng hôm sau,
cậu từ giã ông bà và ra xe trở về Biên hòa.
Tối hôm đó, cậu và anh Long
dành hết thì giờ bàn bạc việc chọn trường đại học.
Tiêu chuẩn đầu tiên là học bổng vì trước hết cần
phải có tiền để sống. Anh Long nói với cậu:
- Một người bạn của anh đang
làm việc trong viện đại học Sài gòn cho biết rằng
chính phủ đang chủ trương đầu tư nhiều cho nền giáo
dục để đào tạo nhân tài cho việc kiến thiết xứ sở.
Vì vậy chính phủ muốn thu hút người giỏi vào ngành sư
phạm, nên cấp học bổng cho sinh viên cao hơn tất cả
các ngành đào tạo khác và sau khi ra trường, nhà giáo
cũng có nhiều ưu đãi. Em nên thi vào trường đại học
sư phạm, tương lai gần và xa đều tốt.
Hôm sau, cậu dành nguyên một
ngày dạo qua nhiều trường đại học để hỏi cho biết
những thông tin cần thiết và cuối cùng Tân chọn thi
vào trường Sư phạm như lời khuyên của anh Long, và cũng
là ý muốn từ lâu của cậu.
Sau một tháng chăm chỉ học
hành, Tân vượt qua kỳ thi tuyển không mấy khó khăn.
Cậu thực sự đạt được ước mơ được vào đại
học, một con đường cực kỳ tươi sáng trải rộng
trước mắt mình.
Trước ngày khai giảng vài hôm,
cậu từ giã anh Long, về ở trọ tại một ngôi nhà ở
đường Trần Hưng Đạo. Đó là một biệt thự lầu khá
to, nên số người ở trọ lên đến gần bốn mươi
người, gồm đa số là sinh viên và học sinh ở tỉnh xa,
một số ít là công tư chức còn độc thân. Tất cả mọi
người đều chỉ chăm lo học hành và làm việc, không ai
tỏ ra quan tâm đến tình hình xã hội và đất nước.
Tân lấy làm lạ về điều đó và cảm thấy hài lòng về
không gian nầy để cậu dành hết thì giờ và sức lực
cho con đường đại học mà cậu ao ước bấy lâu.
Lớp học của cậu chỉ có ba
mươi người nên sinh viên nhanh chóng thân mật với nhau.
Người thân nhất với cậu là Quy, quê ở Gò đen. Nhà
của Quy ở cách quốc lộ khoảng hơn một cây số, trong
một xóm nhỏ gồm độ ba mươi nhà quây quần bên nhau,
chung quanh có lũy tre bao bọc, bên ngoài là đồng ruộng,
cò bay thẳng cánh. Trong thời chống Pháp, gần như cả
làng từ già đến trẻ đều tham gia kháng chiến, nhiều
người đã hi sinh trong đó có người anh cả của Quy. Từ
khi hòa bình được lặp lại, một số người đã tập
kết ra Bắc, số còn lại cùng với dân làng lo cày cấy,
mức sống càng ngày càng tăng lên. Gần đây, thỉnh
thoảng, có người ở làng bên sang rỉ tai tuyên truyền
chống chính phủ, vận động đám thanh niên mới lớn lên
tham gia lực lượng vũ trang. Quy bảo rằng, trước hiệp
định Genève, trong các tháng nghỉ hè, cậu thường tham
gia vào công cuộc kháng chiến do Việt minh lãnh đạo, như
đi vận động đồng bào đóng góp lương thực rồi theo
cán bộ chống xuống, lén chở lúa gạo vào chiến khu.
Bây giờ, thấy bà con xóm làng an hưởng hòa bình, miền
Nam đã độc lập không còn lệ thuộc ngoại bang, nên Quy
không ưa những người chủ trương gây xáo trộn trở lại
trong xã hội dù là họ cố rêu rao mục đích cao cả để
biện minh cho cuộc vận động của họ.
Lời tâm sự nay của Quy càng làm
cho Tân yên tâm hơn về quyết định từ bỏ con đường
cách mạng
Trong lớp, Tân học rất chăm
chỉ, nên được bạn bè quý mến và giáo sư thương yêu.
Tiền học bổng lãnh hàng tháng đủ trang trải mọi chi
tiêu tằn tiện nên cậu dành hết thì giờ của mình vào
việc học và nghiên cứu sách vở ở thư viện. Mỗi
tháng một lần, cậu về thăm anh Long, có khi ở lại một
đêm để hai anh em hàn huyên với nhau.
Vào giữa năm học thứ nhất,
Tân về Biên hòa dự đám cưới của anh Long. Vợ của
anh là một phụ nữ dễ mến. Sau khi thi đậu tú tài, chị
ở nhà săn sóc cha mẹ già. Nay có chồng, chị có ý xin
làm công chức ở một ty sở nào đó. Kể từ sau đám
cưới, cứ mỗi lần Tân về chơi thì chị Long lại đãi
ăn ngon miệng. Nhiều lúc Tân có cảm tưởng như anh chị
là người thân ruột thịt của mình.
Năm học đầu tiên chấm dứt,
Tân được xếp hạng thứ nhất trong lớp, qua kỳ thi
cuối năm. Trong ba tháng nghỉ hè, cậu về Bảo lộc, giúp
đỡ ông bà Thái. Toàn bộ khu vườn đã được trồng
xong. Phía trước, trà lên cao và đã bắt đầu hái lá.
Suốt ngày, Tân cặm cụi với công việc, nhổ cỏ, bắt
sâu, sửa lại một khoảng hàng rào, làm thêm chái bếp.
Hai ông bà già tỏ ra vô cùng yêu thích.
Hết ba tháng nghỉ hè, cậu lại
trở về Sài gòn, tiếp tục cuộc sống sinh viên êm đềm
và vui thú. Gần hết năm thứ hai, cậu nhận được thư
của anh Long báo tin sinh con trai đầu lòng, cậu vội vàng
về Biên hòa chúc mừng anh chị. Chị vẫn còn trong nhà
bảo sinh, nên Tân ở lại nhà với anh Long. Lâu lắm rồi,
hôm nay hai anh em mới lại có dịp nói chuyện với nhau.
Anh Long bảo rằng nền hòa bình có vẻ rất mong manh.
Nhiều nơi, cán bộ cộng sản đã bắt đầu hoạt động
mạnh trở lại. Nghe anh nói, Tân lo lắng:
- Theo anh thì cuộc sống thanh
bình ở miền Nam có thể còn tiếp tục kéo dài hay không?
Anh Long lắc đầu:
- Chúng ta không còn hòa bình nữa.
Súng đã bắt đầu nổ nhiều nơi trên khắp bốn vùng
chiến thuật.
- Người ta không còn kể tới
hiệp định Genève nữa à?
- Hiệp định đó chẳng còn
nghĩa lý gì nữa, kể từ khi ủy hội quốc tế kiểm
soát đình chiến bị giải tán.
- Thế là nhân dân Việt Nam lại
chịu đựng chiến tranh?
Anh Long nhún vai:
- Biết làm sao được. Tuy nhiên,
lần nầy, chiến tranh chỉ xảy ra ở miền Nam thôi. Miền
Bắc vẫn tiếp tục có hòa bình vì ở Việt Nam, ngoài
những người cộng sản ra thì chẳng ai muốn có chiến
tranh. Tuy có hòa bình nhưng dân miền Bắc có cũng chẳng
sung sướng gì đâu.
- Tại sao vậy?
- Vì miền Bắc phải chi viện
cho trong nầy thì mới tiến hành được cuộc chiến tranh
chứ. Đồng bào mình ngoài đó phải làm việc gấp đôi
gấp ba để có thể vừa sống vừa trang trải cuộc chiến
trong Nam.
- Em có nghe nói cộng sản vừa
thành lập một tổ chức gì đó để điều hành cuộc
chiến phải không?
Anh Long gật đầu:
- Đúng vậy. Nhưng em nghe ai nói
vậy?
- Bạn trong lớp của em bắt đài
phát thanh ngoại quốc và đài Hà nội. Cái tổ chức gì
đó có tên dài thậm thượt nên em không nhớ nổi.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Giải phóng,
mới được tuyên bố ra mắt cách đây vài tháng. Mặt
trận đang tích cực lôi kéo trở lại những người đã
từng hoạt động cho cách mạng và tuyên truyền vận động
thanh niên mới lớn lên.
- Theo anh thì chuyến nầy người
cộng sản có thành công như trong cuộc kháng chiến chống
Pháp trước đây không?
- Thành công hoàn toàn hay không
thì chưa thể biết được nhưng với quyết tâm của họ
thế nầy, miền Nam không thể có hòa bình lâu dài được.
Khi nào họ chiếm được miền Nam thì may ra mới có hòa
bình.
- Nhưng lúc đó thì sẽ thế nào?
- Thế nào cũng được. Hòa bình,
dù tệ thế nào đi nữa thì cũng còn hơn chiến tranh.
- Vâng, chiến tranh là điều tồi
tệ nhất trong những điều tồi tệ.
Anh Long mím chặt môi nói tiếp:
- Anh nghĩ rằng miền Nam không
chịu đựng nổi cuộc chiến tranh trường kỳ mà những
người cộng sản đang phát động trở lại. Thôi thà để
họ chiếm hết miền Nam nầy cho nhanh chóng để không còn
chiến tranh nữa. Điều khôn ngoan cho mỗi người là chọn
đúng cho mình một vị trí sao cho đừng bị thiệt thòi
khi mãn cuộc.
- Khi nãy anh bảo rằng, sau khi
Mặt trận được thành lập, người ta đi tìm lại những
người cũ?
- Đúng vậy. Người ta đang tích
cực làm công việc đó.
- Có nghĩa là người ta vẫn chưa
quên anh em mình?
Anh Long gật đầu:
- Không quên đâu, sớm hay muộn,
người ta cũng sẽ đến tìm lại anh em mình.
Tân ngồi nhíu mày suy nghĩ với
vẻ lo lắng:
- Hai năm rồi, em thực sự thảnh
thơi và vui sướng với cuộc sống trầm lặng.
Anh Long ngước lên nhìn cậu:
- Sắp chấm dứt cuộc sống trầm
lặng đó rồi, không phải chỉ riêng em mà cho tất cả
mọi người. Anh hỏi thực em điều nầy. Trong tình hình
mới, người ta hạ quyết tâm đánh đổ miền Nam, em có
nên xét lại thái độ của mình hay không?
Tân ngạc nhiên:
- Xét thái độ là sao? Là trở
lại hoạt động cho cách mạng?
Anh Long nhìn thẳng mắt cậu và
gật đầu.
Tân mím môi, nói một cách dứt
khoát:
- Không, em không nghĩ đến việc
đó đâu. Em muốn dấn thân thân hoàn toàn cho sự học và
nghiên cứu. Sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm rồi,
em sẽ vừa đi dạy vừa học tiếp để thi lấy cao học
rồi sau đó lấy bằng thạc sĩ hay tiến sĩ. Nguyện vọng
duy nhất của em là trở thành người có ích của một
đất nước hòa bình.
- Nhưng nếu đất nước không
hòa bình thì sao?
- Thì em cam chịu số phận đau
khổ của nhân dân chứ nhất định không tiếp tay với
những kẻ chủ chiến.
Anh Long thở dài:
- Vâng, tùy theo em. Anh muốn em
suy nghĩ lại để đừng bị thiệt thòi về sau nầy,
nhưng nếu em đã nhất định thì thôi.
Sau lần đi thăm đó trở về,
Tân cảm thấy rất buồn phiền. Từ những ngày đầu mới
bước chân vào trường sư phạm, cậu vẫn lo lắng anh
Đảnh trở về tìm cậu. Vì vậy đôi khi cậu rất muốn
trở lại thăm ông Lương Ký mà không dám, cậu cần phải
cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ với những người còn
hoạt động cho cách mạng. Càng ngày, mối lo đó càng
phai nhạt đi và cậu yên tâm với việc học của mình.
Bây giờ, sau khi nói chuyện với anh Long trở về, cậu
nghĩ rằng anh ấy đang toan tính trở lại hoạt động cho
cách mạng, lần nầy không phải do lý tưởng của người
cộng sản hay của người yêu nước thuần túy như trước
đây mà là một sự toan tính có tính cách trưởng thành
và ít nhiều vụ lợi. Hiện giờ, cái gia đình nho nhỏ
của anh Long là nơi thân thiết nhất của cậu. Cậu buồn
phiền khi hình dung không bao lâu nữa cậu sẽ phải từ
bỏ căn nhà thân yêu đó.
Cậu lao vào học tập và nghiên
cứu để quên đi nỗi buồn phiền và sau cùng kết thúc
những năm dài trên chiếc ghế của trường đại học
sư phạm Sài gòn. Cậu và đa số các bạn cùng lớp đã
qua được kỳ thi tốt nghiệp và chờ đợi bộ giáo dục
công bố nhiệm sở của mỗi người.
Một buổi lễ nho nhỏ diễn ra
trong hội trường nha trung học. Tất cả các tân giáo sư
đến dự với bộ áo quần đẹp nhất của họ. Cái ngày
quan trọng nầy sẽ để lại trong lòng họ một kỷ niệm
không bao giờ phai. Mọi người đứng dậy khi ông giám
đốc nha trung học bước vào. Sau những nghi thức đơn sơ
nhưng cảm động, ông giám đốc đọc lời chúc mừng và
lần lượt công bố nhiệm sở cho từng người. Tân được
bổ về trường trung học Long an. Cậu hết sức vui mừng.
Long an ở gần Sài gòn, cậu về dạy ở đó thì có thể
tiếp tục việc học và nghiên cứu.
Sau khi lãnh xong các giấy tờ cần
thiết, cậu đi dạo quanh thành phố Sài gòn, thăm lại
những nơi đã từng ghi dấu tuổi thơ của mình. Từ một
đứa bé mồ côi cho tới ngày nay là một giáo sư trung
học, cuộc đời cậu đã được các con đường của
thành phố thân yêu nầy chứng kiến. Mỗi nơi, mỗi chốn
ở đây đều làm cho cậu bùi ngùi vì biết bao kỷ niệm
của những thời đã qua.
Buổi chiều, cậu về ngủ tại
nhà anh Long và sáng hôm sau, ra phố mua một ít quà rồi
ra đón xe thẳng đường về Bảo lộc. Chuyến xe bị trễ
nên khi cậu đến nơi thì trời đã về chiều. Nhà vắng
tanh. Cậu quăng hành lý lên bàn rồi chạy ra vườn để
tìm gặp ông bà. Nghe cậu báo tin tốt nghiệp, hai ông bà
mừng đến rưng rưng nước mắt. Ông đưa bàn tay chai sần
vỗ nhẹ lên đầu cậu và nói với giọng xúc động:
- Năm năm rồi phải không nhỉ?
Lúc đó bác muốn cứu giúp một đứa trẻ đáng thương
ra khỏi ngục tù. Bây giờ đứa bé đó đã trở thành
một giáo sư rồi. Bàn tay của Chúa thật nhiệm mầu.
Bà nói chen vào:
- Chúa sẽ thưởng công cho ông.
Ông nói tiếp:
- Và cho bà nữa chứ.
Cả hai ông bà cười to, với vẻ
mặt vô cùng hạnh phúc. Ông quay sang nói với cậu:
- Có lẽ bây giờ con đã hiểu
tính chất nhân đạo và khoan hồng của chế độ miền
Nam chúng ta. Cứ từ bỏ cộng sản, từ bỏ hành động
phản lại Tổ quốc thì được công nhận ngay là công
dân của một nước tự do với đầy đủ quyền lợi và
giá trị làm người. Ở miền Bắc, nếu đã đi tù vì
tội chống đối chế độ thì chỉ còn được sống kiếp
con trâu con chó mà thôi, làm sao có thể hình dung có ngày
được làm giáo sư đứng trên bục giảng để đào tạo
con người.
Tân vui vẻ gật đầu:
- Dạ con hiểu.
Ông Thái siết mạnh hai vai của
cậu:
- Bác rất vui mừng. Giúp con ra
khỏi nhà tù để rồi con được như ngày hôm nay có lẽ
là hành vi xứng đáng nhất mà Chúa truyền lệnh cho bác
phải làm. Thôi, con vào tắm rửa đi để dùng cơm.
Hôm sau, từ tờ mờ sáng, cậu
đã ra vườn làm việc. Cậu biết rằng các trường trung
học đã bắt đầu nghỉ hè và tất cả thầy cô đang
chuẩn bị tham dự kỳ thi tú tài, nên cậu dự trù ở
lại giúp đở ông bà trong nửa tháng rồi mới trở về
trình diện nhiệm sở mới. Khu vườn của ông bà đã
tươi tốt, những cây trà xanh um ngay hàng thẳng lối
trông thực xinh đẹp. Trà trong vườn đã sinh huê lợi,
đời sống ông bà được bảo đảm. Điều đó làm cho
Tân hết sức vui mừng. Vì vậy, cậu làm việc suốt ngày
mà không biết mệt.
Một tuần lễ sau khi cậu đến
đây, vào sáng sớm, có một người lạ đến tìm cậu.
Anh ta là bạn của anh Long, nhà ở ngoài thị xã. Anh trao
cho cậu một mảnh giấy của anh Long nhắn cậu về Biên
hòa ngay nhưng không cho biết việc gì. Cậu vội vàng từ
giã ông bà Thái để lên đường. Ông bà cũng hối thúc
cậu ra đón xe về ngay vì đường đi bây giờ không còn
an ninh như trước nữa.
Tân về đến Biên hòa thì trời
sắp tối. Cậu vừa bước vào cửa thì anh Long bật dậy
reo to:
- Chú Tân về đây rồi. Hay quá.
Chị Long nghe tiếng, từ dưới
bếp bế con tất tả chạy lên. Đứa bé trong tay mẹ,
nhoẻn miệng cười làm cho khung cảnh trong nhà như sáng
bừng lên. Tân vội hỏi:
- Có chuyện gì mà anh nhắn em về
gấp vậy?
- Có chứ, nhưng chú đi tắm rửa
cho sạch sẽ trước đã. Chú chưa ăn tối phải không?
- Chưa. Được tin anh nhắn, em
vội vàng lên xe về đây ngay.
Anh quay sang nói với vợ:
- Em lo bữa ăn tối cho chú Tân
đi. Đưa con cho anh.
Tân đến đưa tay béo nhẹ vào
cái má phinh phính của đứa bé. Anh Long bế con lên và
bảo:
- Chú Tân đi đường bụi bặm
lắm. Chú tắm xong rồi mới được bế cháu.
Tân xuống nhà dưới tắm rửa
và thay áo quần xong rồi trở lên:
- Nào, bây giờ thì anh có thể
nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra.
Anh Long chỉ tô mì nóng bốc hơi
mà chị Long vừa bưng lên đặt trên bàn:
- Khoan, chú hãy dùng bữa tối đi
đã. Anh em mình còn có cả đêm nay để bàn bạc với
nhau.
Tân ngồi xuống bàn, cầm đũa
ăn một cách ngon lành. Thấy Tân ăn xong, anh Long bắt đầu
câu chuyện:
- Chiều hôm kia, có cậu Quy đến
tìm anh.
- Quy bạn cùng lớp với em phải
không?
Long gật đầu:
- Phải rồi. Quy quê ở Gò đen.
Nó đến báo cho biết, em và Quy đều có tên trong danh
sách bị động viên đi học khóa sĩ quan sắp tới.
Tân bật dậy, sửng sốt:
- Anh nói sao? Em bị gọi đi lính
à?
- Ừ, đúng vậy. Em bị gọi nhập
ngũ khóa Mười bốn Sĩ quan trừ bị Thủ đức.
Tân ngồi phịch xuống ghế, im
lặng nhìn lên trần nhà. Cậu có cảm tưởng mình rơi
vào một khoảng trống không. Tiếng nói của anh Long đột ngột vang lên bên tai Tân:
- Bây giờ em tính thế nào?
Tân lắc đầu, cười gượng
gạo:
- Em có suy nghĩ gì được đâu
mà tính toán. Không biết chừng nào mới phải đi trình
diện.
- Thời hạn trình diện là mười
lăm ngày kể từ ngày ra thông cáo tức là ngày hôm qua.
Báo có đăng liên tiếp mấy hôm rồi.
- Vậy là chỉ còn đúng hai tuần
nữa thôi. Báo có đăng tên em à?
- Không, báo chỉ đăng thông cáo
thôi. Cậu Quy bảo có dò được tên em trong danh sách nhập
ngũ, niêm yết tại tòa đô chánh. Em nên về đó xem lại
cho rõ ràng.
- Anh hi vọng một người nào
khác trùng tên với em?
- Không đâu. Cậu Quy biết tên
và địa chỉ của em nơi phòng trọ. Đúng là em bị gọi
rồi đó. Bây giờ cần phải tính toán gấp đi. Quá thời
hạn quy định có thể bị bắt và bị đưa đi làm lao
công đào binh, nghĩa là làm binh nhì và phải ra mặt trận
để tải đạn và những công việc khó nhọc và nguy hiểm
khác. Chú có biết không?
- Em biết. Đó là một loại khổ
sai ngoài mặt trận, một hình thức trừng phạt của pháp
luật.
- Thực là tàn nhẫn vô nhân đạo.
Tân lắc đầu:
- Không. Đó là luật lệ của
thời chiến tranh mà nước nào lâm chiến cũng phải áp
dụng, nếu không thì lấy ai ra mặt trận, mình không thể
trách chính phủ được.
- Thế thì em định thế nào?
Không lẽ cứ ngồi yên chờ cho hết thời hạn rồi đi
làm lao công đào binh sao?
Tân đáp lời với giọng đầy
chán nản:
- Em chẳng biết tính thế nào,
em rối trí lắm. Anh giúp ý kiến cho em đi.
- Em có sợ đi lính không?
- Không, em không sợ chết cũng
chẳng sợ cực khổ ngoài chiến trường. Chết thì đã
một lần chịu chết lúc bị đưa vào phòng tra tấn của
Catinat. Còn cực khổ thì em đã quá quen với trường kỳ
gian khổ rồi.
- Thế thì em cứ tuân lệnh nhập
ngũ đi.
Tân ngạc nhiên nghe giọng nói
của anh có vẻ bất mãn. Cậu vội vàng đáp lại:
- Không, anh hiểu em mà. Em đã
từng theo cách mạng rồi từ giã nhưng trong lòng em chưa
hề có một chút nào thù ghét cách mạng. Em chỉ muốn
thoát ra khỏi sự tranh chấp, muốn làm người dân bình
thường, không theo ai mà cũng chẳng chống đối ai.
Long lắc đầu:
- Anh hiểu tâm trạng của em.
Nhưng điều đó không thể thực hiện ở mảnh đất đau
thương nầy được. Em cũng biết mặt trận Giải phóng
miền Nam đã được thành lập từ gần hai năm rồi. Đảng
Lao động đã nhất quyết dùng giải pháp quân sự để
thống nhất hai miền. Lực lượng vũ trang còn ở lại
miền Nam đã được lệnh tập họp trở lại. Một số
cán bộ và chiến sĩ đi tập kết cũng đã bí mật trở
vào cùng với những đơn vị bộ đội được huấn luyện
ở miền Bắc. Chiến tranh đã bùng nổ trở lại và có
vẻ càng ngày càng quyết liệt hơn.
Tân hỏi lại như rên rỉ:
- Chiến tranh bùng nổ trở lại
rồi sao?
Anh Long gật đầu:
- Thực ra, kể từ cách mạng Mùa
Thu đến nay, cuộc chiến ở Việt Nam chưa hoàn toàn chấm
dứt. Nó chỉ lắng dịu một thời gian sau hiệp định
Genève mà thôi. Cuộc chiến đã ngốn hết tuổi trẻ của
anh em mình, bây giờ tiếp tục nuốt luôn tuổi trẻ của
đàn em mới lớn lên. Cuộc chiến chỉ có thể chấm dứt
khi hai miền đều quy về một mối. Em vẫn còn trẻ, chưa
thể đứng ngoài cuộc chiến nầy được đâu. Em phải
dứt khoát ngã hẳn về bên nầy hoặc bên kia, không thể
có vị trí lưng chừng chính giữa.
- Không, em không đi nhập ngũ
đâu. Em không thể cầm súng bắn lại những người đã
từng là đồng chí của em. Biết đâu trong những người
đó, có cả anh Vinh của em đã hồi kết trở về Nam để
chiến đấu.
- Được rồi, anh tôn trọng ý
kiến của em nhưng anh cũng nhắc thêm cho em rõ điều nầy.
Nếu không tuân theo lệnh gọi nhập ngũ thì đối với
nhà cầm quyền, em có tội như người đào ngũ và sẽ bị
truy nã ngày đêm. Chuyện dạy dỗ, học hành của em chấm
dứt, bằng cấp của em kể như là tấm giấy lộn vứt
bỏ đi. Lúc đó, trước mắt em chỉ có hai con đường.
Con đường thứ nhất là ở lại vùng quốc gia nầy thì
phải trốn chui, trốn nhủi, lúc nào cũng bị rình rập,
ngày đêm phải đương đầu với nguy cơ bị bắt và bị
truy tố ra tòa án quân sự.
- Còn con đường thứ hai?
- Em trở lại với cách mạng.
Tân ngạc nhiên:
- Sao? Anh bảo em trở lại công
tác cho cách mạng à? Em đã nhất định từ bỏ rồi mà.
- Từ bỏ cách mạng để trở
thành một người trung lập? Anh đã chứng minh rằng ý
nghĩ đó hoàn toàn sai lầm. Em không thể là một công dân
trung lập được. Nếu không muốn đi lính thì em phải
trở lại với cách mạng.
- Nghĩa là em đi trở lại con
đường của bảy tám năm trước đây, tiếp tục xúi bọn
trẻ lao vào nguy hiểm. Em ghê tởm công việc đó lắm
rồi.
Anh Long cười:
- Không phải như thế đâu. Người
chống lại lệnh nhập ngũ như em thì đâu còn cái thế
hợp pháp để làm công tác dân vận trong vùng địch hậu
nữa.
- Thế thì sao?
- Nếu trở lại với cách mạng,
em phải ra công tác ở chiến khu.
- Làm thế nào ra đó được? Từ
quá lâu rồi em đâu còn liên lạc với người của cách
mạng nữa.
- Việc đó, anh sẽ lo cho em.
- Thực à? Anh có liên lạc với
chiến khu sao?
Anh Long im lặng, mím môi một
chút rồi trả lời:
- Làng anh ở Tân uyên. Nơi ba má
anh sống bình yên mấy năm nay, đã bắt đầu trở thành
vùng xôi đậu, ngày thì bên nầy cai trị, đêm thì bên
kia kiểm soát. Nơi đó là rìa của chiến khu D nên ban
đêm, cán bộ và lực lượng vũ trang thường kéo về. Dĩ
nhiên là có sẵn người trong làng hướng dẫn và canh gác
bảo vệ. Nếu cần, anh có thể về đó tìm liên lạc cho
em.
- Ra chiến khu thì em sẽ làm việc
gì ngoài đó?
- Tùy theo sự phân công của các
đồng chí ngoài đó. Theo anh hiểu thì bây giờ cách mạng
đang chuyển qua giai đoạn đấu tranh quân sự cho nên ra
đó, em có thể được bổ sung vào lực lượng vũ trang.
- Nhưng em muốn tránh việc cầm
súng kia mà.
- Làm sao tránh được. Chiến
tranh đã bùng nổ trở lại. Giả tỉ em được bố trí
làm cán bộ chính trị đi nữa thì em cũng phải được
cấp phát súng để tự vệ và chiến đấu.
- Lúc đó, nòng súng của em sẽ
quay ngược lại, chĩa vào những thành phố, những xóm
làng đã cho em cuộc sống thanh bình yên vui trong bao nhiêu
năm nay. Rồi khi súng em nhả đạn thì trong số những
người ngã gục có thể có cả những bạn bè đã cùng
chia sẻ vui buồn với em trong những năm còn ngồi trên
ghế học đường. Không, em không làm việc đó đâu. Em
không muốn bắn vào bất cứ ai trên quê hương đã chịu
quá nhiều đau khổ nầy.
Nói xong, Tân gục mặt xuống
bàn. Chị Long tự nãy giờ ngồi im lặng theo dõi câu
chuyện của hai anh em. Nghe Tân nói xong và ngồi gục mặt,
chị cảm động rơm rớm nước mắt. Chị cúi xuống thấy
con đang ngủ nên đứng dậy bế con vào buồng trong.
Anh Long cũng rất xúc động. Tuy
nhiên anh cố giữ giọng nói tự nhiên. Anh hiểu rằng sự
bình tĩnh của anh rất cần thiết để tìm một lối
thoát cho người thanh niên đáng thương nầy. Anh nói:
- Tân nầy, em không muốn cầm
súng thì thôi. Anh hiểu em là một con người có lòng nhân
hậu không thể bắn giết ai được. Hơn nữa, hiện nay ở
cả hai bên đều có bạn cũ của em. Anh thông hiểu nỗi
đau đớn trong lòng em.
Tân ngẩng lên nhìn anh và hỏi:
- Em có thể trốn đi đâu đó
một vài năm có được không?
Anh Long lắc đầu;
- Điều đó không thể nào thực
hiện đựợc. Toàn bộ lãnh thổ nầy, không thuộc bên
nầy thì cũng thuộc bên kia, trốn ở đâu cho ổn. Vả
lại, trốn đến bao giờ?
- Cho đến khi chiến tranh kết
thúc.
- Chiến tranh sẽ kéo dài đến
vô tận nếu không có một biến cố nào làm thay đổi
tình hình hay cán cân lực lượng. Hiện nay hai bên đang
mạnh ngang nhau. Miền Nam có Mỹ, miền Bắc có Liên xô và
Trung Cộng sẵn sàng đổ mọi thứ giết người vào đây.
Mỗi miền có phân nửa đất nước, có hàng triệu người
để xua ra chiến trận. Chiến tranh không thể chấm dứt
trong một tương lai gần được.
- Dù chiến tranh không chấm dứt
nhưng trốn vài năm cho qua hết tuổi quân dịch thì thôi.
- Không được đâu. Theo luật
động viên, nếu không trình diện nhập ngũ theo lệnh gọi
thì cũng coi như có tội đào ngũ, dù hết tuổi động
viên cũng bị truy tố ra tòa. Em hãy suy nghĩ cho kỹ và
chính em phải quyết định cho mình, người khác chỉ góp
ý cho em suy nghĩ mà thôi.
Long đứng dậy cầm bình nước
trà đi vào buồng trong, ngắm nhìn vợ con đang ngủ trong
mùng, rồi đi thẳng xuống bếp. Anh chế nước nóng vào
bình trà rồi trở lên.
Tân vẫn ngồi bất động nhìn
ra cửa với nét mặt buồn bã. Anh Long bảo:
- Thôi khuya rồi, em uống miếng
nước rồi đi nghỉ. Em còn đúng hai tuần lễ nữa để
suy nghĩ và có quyết định sau cùng.
- Dạ em sẽ suy nghĩ và thường
xuyên tham khảo ý kiến anh.
- Anh luôn luôn sẵn sàng và vui
lòng góp ý cho em. Trong những ngày sắp tới, em có thể
trở về nhà trọ hay ở lại đây với anh cũng được.
Ban ngày, chỉ có hai mẹ con ở nhà. Em đọc sách trong
phòng nầy rồi thỉnh thoảng ra bờ sông ngắm ghe thuyền
qua lại cho đầu óc thoải mái thì mới có quyết định
sáng suốt được.
- Không. Ngày mai em sẽ về Sài
gòn rồi đi Tân an.
Anh Long ngạc nhiên:
- Em đến trường trung học Tân
an, nhiệm sở của em à? Em đi trình diện nhiệm sở để
làm gì? Lệnh nhập ngũ của em chắc chắn đã tống đạt
tới dưới đó rồi. Không ai dám nhận em về dạy đâu.
Tân cười một cách buồn bã:
- Không, em có tính dạy dỗ gì
nữa đâu. Nhưng em muốn nhìn tận mắt cái đích đến
của nhiều năm cố gắng học hành. Hôm làm lễ ở nha
trung học, khi em nghe gọi tên để bước đến bàn chủ
tọa nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh về nhiệm
sở từ tay ông giám đốc nha trung học, em bỗng thấy
nguồn vui nổ tung trong lòng em, còn cuộc đời bừng sáng
trước mặt em. Em thầm nghĩ trong bụng: “Thế là cuối
cùng, đứa bé mồ côi, sau bao năm lận đận cũng thành
đạt rồi. Bây giờ đứa bé mồ côi đó đã thành giáo
sư trung học, ngày ngày bước lên bục giảng để đào
tạo nhân tài cho đất nước”.
Cậu ngừng một chút rồi nói
tiếp với giọng đầy xúc động:
- Em dự định khi về Long an, em
sẽ kiếm một chỗ ở, một chỗ ở do em tạo ra và có
quyền sắp xếp theo ý mình. Anh biết em dự trù điều gì
về nơi ở của riêng em hay không?
- Không, làm sao anh biết được.
- Thì anh thử đoán xem.
Anh Long nghiêng đầu nhìn Tân,
vừa cười vừa nói:
- Em muốn tạo một tổ ấm đễ
lập gia đình phải không? Nếu anh không nhớ sai thì năm
nay em hai mươi lăm tuổi rồi. Anh đoán em đã có người
yêu, cô ấy là bạn học cùng lớp và hai người đã hẹn
hò về sống chung sau khi ra trường phải không?
- Hoàn toàn sai. Em chưa có người
yêu mà cũng chưa nghĩ đến chuyện lập gia đình. Em muốn
có một chỗ ở riêng để lập nơi thờ phụng ba má em.
Từ khi ba má em nằm xuống đến giờ, em chưa hề đốt
được một cây nhang nào cho linh hồn ông bà đỡ tủi.
Cho đến bây giờ, cuộc sống của em cứ lang thang mãi từ
chỗ nọ đến chỗ kia, chưa hề có một chỗ trú ngụ
nào của riêng mình. Em biết ông bà vẫn thương yêu em vô
cùng vô tận nhưng linh hồn ông bà không thể lẽo đẽo
theo em mãi được. Em muốn dừng chân lại, lập cho ông
bà một bàn thờ. Em không có tấm hình nào của ba má em,
nhưng em nghĩ rằng điều đó không cần thiết. Một khi
đã có bàn thờ nơi chỗ ở riêng biệt, em tin rằng linh
hồn ông bà sẽ về đó để ngày ngày nhìn thấy đứa
con côi cút của mình đã trở thành một công dân xứng
đáng của xã hội miền Nam.
Anh Long chăm chú lắng nghe trong
khi Tân thở dài rồi nói tiếp với giọng thiểu não:
- Những thứ đó bây giờ trở
thành ảo tưởng. Những ngày gần đây em thường có mặc
cảm là kể từ khi lọt lòng mẹ, em đã bị lên án. Cái
án đó là nỗi bất hạnh cột chặt vào số phận em,
không thể nào gỡ ra được. Vì vậy ngay cái ước mong
rất tầm thường cũng vượt quá tầm tay. Một đời sống
lương thiện, một chỗ ở đơn sơ để thờ phụng cha
mẹ, ước mong đó lại hóa ra xa vời, trong khi những ngày
sống trốn chui trốn nhủi, không nhà, không cửa lại cận
kề trước mắt. Có phải nỗi bất hạnh là cái án quyết
mà số phận đã định trước cho cuộc đời em hay không?
Anh Long lắc đầu, nhìn cậu một
cách thương cảm:
- Anh không biết. Vấn đề số
phận thuộc lĩnh vực siêu hình. Nhưng chính vấn đề đó
làm anh nghĩ đến tôn giáo trong sự trốn tránh pháp luật
của em trong những ngày sắp tới.
- Tôn giáo thì có liên can gì đến
chuyện của em?
- Có chứ. Anh vừa mới sực nhớ
ra. Hiện nay có hai nơi an toàn nhất để trốn quân dịch,
đó là nhà thờ của Công giáo và nhà chùa của Phật
giáo. Nhà thờ thì có phần an toàn hơn nhà chùa. Tổng
thống là con chiên của Chúa thì công an mật vụ đâu có
dám đụng đến nơi sống và hành đạo của các linh mục.
Vì vậy, không ít nhà thờ chứa chấp nhiều thanh niên
trốn quân dịch.
Tân nhíu mày:
- Họ ở trong đó để làm gì?
- Làm việc lặt vặt cho nhà thờ
hay chẳng làm gì cả.
- Nhà thờ lấy cơm đâu mà nuôi
họ?
- Gia đình phải đóng góp chứ;
dĩ nhiên số tiền đóng góp phải nhiều hơn chi phí mà
nhà thờ phải bỏ ra. Cũng có lợi cho nhà thờ.
- Coi như trả công che chở của
Chúa.
Anh Long cười:
- Đúng vậy. Trả công như thế
còn rẻ hơn hối lộ cho nhân viên bộ Quốc phòng để
được miễn hay hoãn dịch. Nhưng muốn được nhận thì
phải quen biết với linh mục mới được. Anh nhớ ông bà
Thái ở Bảo lộc, ân nhân của em, là dân công giáo chính
gốc lại là người Bắc di cư, nên nhất định thân
thiết với nhiều linh mục. Em hãy về đó xin theo đạo
rồi nhờ ông bà xin cho em tá túc trong nhà thờ. Các xứ
đạo đều có trường học. Nhân dịp nầy, em có thể
hành nghề sư phạm của em được.
Tân lắc đầu một cách cương
quyết:
- Không, em không làm như thế
đâu. Trước đây, ông bà Thái muốn em vô đạo là do
lòng tốt của ông bà muốn em chính thức làm con nuôi để
sau nầy thừa hưởng tài sản khi ông bà qua đời. Nay nếu
em chịu lễ rửa tội là phạm vào hai điều dối gạt.
Một là dối gạt hai ân nhân của em để trốn tránh pháp
luật chứ đâu phải thực tâm muốn làm con nuôi của ông
bà. Hai là em dối gạt nhà thờ để tìm chốn an thân chứ
đâu có thực tình theo Chúa. Không, em nhất định không
làm như thế được.
- Sống mà quá thành thực như em
thì chỉ thiệt thân. Nhưng thôi, nếu em không thể sống
giả dối thì cũng không thể vào trốn tránh trong chùa
được.
- Chùa làm sao che chở được cho
người trốn quân dịch? Quân cảnh và công an có sợ ai
mà chẳng dám xông vào chùa để khám xét?
- Đúng vậy, chùa không phải là
nơi bất khả xâm phạm. Cách trốn quân dịch ở chùa
khác với nhà thờ. Trốn ở chùa là lách vào một khe hở
của pháp luật. Theo luật định, tu sĩ được hoãn dịch
để hành đạo. Muốn thành tu sĩ thì quá dễ dàng. Xin
vào tu ở một chùa mà mình quen biết. Nhà chùa sẽ gởi
công văn để xin giấy chứng nhận hoãn dịch vì lý do tu
hành.
Tân cười:
- Rồi phải mặc áo cà sa, cạo
trọc đầu.
- Điều đó có gì là quan trọng.
- Nhưng phải học thuộc kinh nữa
chứ.
- Cũng chẳng cần. Tới giờ đọc
kinh, cứ chịu khó nhép miệng liên tục là được là
được rồi.
- Hàng ngày phải ăn chay, cũng
khổ. Mấy người đi trốn quân dịch thì đâu có ý chí
tu hành, khó mà chịu cực được.
- Đúng vậy. Thường thì họ chỉ
phải ăn chay vào bữa cơm chính thức thôi. Sau đó thì
các nhà sư có thể trốn ra ngoài để ăn mặn. Có khi họ
còn mua cả thịt chó và rượu đế mang về phía sau chùa
mà “chén” với nhau một cách thoải mái.
- Nhưng trong chùa còn sư trụ trì
là sư thứ thiệt. Ông ta không hay biết gì sao?
- Dĩ nhiên là phải biết chứ.
Tuy nhiên, sư làm lơ; sư còn lo cứu độ chúng sinh chứ
có dư công đâu mà dòm ngó những người mà sư biết là
vào đây để trốn quân dịch chớ không phải là để tu
hành.
- Sư không sợ dân chúng chê cười
và mật vụ khám phá sao?
- Sư biết rằng dân chúng đang
lo kiếm sống và lo chiến tranh thì chẳng hơi đâu mà chê
cười. Mật vụ thì thường tránh vào khám xét các chùa
để khỏi phải mang tiếng kỳ thị tôn giáo.
- Nếu như thế thì cách mạng
cũng đưa người vào ẩn núp trong chùa chứ.
- Sao lại không? Chùa là nơi ẩn
núp lý tưởng, cách mạng đâu có bỏ qua được. Rất
nhiều ngôi chùa là cơ sở hoạt động của cách mạng.
Có chùa còn có cả chi ủy để lãnh đạo một số chùa
trong vùng. Dĩ nhiên, đảng ta không lãnh đạo việc tu
hành đâu.
Long cười xòa, giọng trở nên
châm biếm:
- Chùa là nơi trốn tránh lý
tưởng như thế đó; nếu em đồng ý thì anh sẽ tìm cách
giới thiệu.
Tân cũng cười theo:
- Vâng em sẽ vào đó và ngày
ngày nhậu thịt chó với mấy nhà sư đảng viên cộng
sản để bàn chuyện ám sát, rải truyền đơn và biểu
tình chống chính phủ.
Cả hai anh em bưng miệng không
dám cười to vì đồng hồ đang chỉ một giờ khuya.
Dù thức khuya nhưng sáng hôm sau,
Tân cũng dậy sớm về nhà trọ ở Sài gòn. Cậu mặc bộ
áo quần mới, mang giày và đến soi mình vào tấm gương
lớn. Cậu hài lòng khi thấy trong gương, một thanh niên
bảnh bao, có nụ cười dễ mến, có dáng điệu chững
chạc của một giáo sư mới ra trường.
Cậu đến bến xe đò và thẳng
về Tân an. Cậu vào trường Trung học và được cả hai
ông giám học và hiệu trưởng đón tiếp một cách niềm
nở trong văn phòng. Ông giám học cho hay đã nhận được
giấy báo của nha trung học từ nhiều hôm rồi. Có hai
giáo sư mới được bổ về trường, một nữ đã về
trình diện ngày hôm qua và sẽ trở lại vào đầu năm
học để nhận việc. Hôm nay đến lượt cậu là nam giáo
sư. Cả trường từ thầy đến trò đều vui mừng.
Tân nói cho hai vị biết là mình
đã có tên trong danh sách nhập ngũ nên chỉ đến đây
trình diện và không thể trở lại dạy học tại trường.
Cả hai ông đều sửng sốt, sau đó tỏ ý chia buồn và
chúc cậu khoẻ mạnh và may mắn trong thời gian phục vụ
trong quân ngũ. Ông hiệu trưởng ân cần nói với cậu:
- Kể từ hôm nay, anh chính thức
là giáo sư của trường. Nội trong sáng nay, tôi sẽ gởi
công văn về bộ giáo dục để thông báo anh đã đến
nhận việc. Trong thời gian anh vào quân ngũ, tất cả
quyền lợi giáo sư của anh, nhà trường sẽ lo đầy đủ,
anh cứ yên tâm. Tôi muốn giới thiệu anh với tất cả
đồng nghiệp của mình nhưng rất tiếc trường đang nghỉ
hè nên chỉ có tôi và anh giám học ở đây thôi. Tôi
thay mặt toàn thể giáo sư tỏ lòng cảm kích về việc
anh vào quân đội để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an
ninh cho quê hương để những người còn ở lại có thể
làm tròn nhiệm vụ của mình.
Sau khi siết chặt tay để từ
giã, Tân ra đường đón xe về Sài gòn. Cậu bước lên
xe đò, lòng nặng trĩu buồn phiền. Bên tai cậu còn văng
vẳng lời nói cảm động của ông hiệu trưởng lúc từ
giã: “Anh vào quân đội để bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn an ninh cho quê hương…”.
Xe từ từ ra bến, vượt qua cây
cầu dài bắt ngang dòng sông Vàm cỏ tây và rời khỏi
thành phố. Cậu nhìn ra bên ngoài qua khung cửa sổ của
xe. Những cánh đồng lúa xanh mơn mởn chạy giật lùi. Xa
xa, xóm làng nằm im lìm sau hàng cây xanh. Cảnh thanh bình
của quê hương trải rộng ngút ngàn. Cậu hiểu rằng, đó
chỉ là cảnh thanh bình giả tạo, ngọn lửa chiến tranh
đang âm ỉ và có thể bùng lên gây điêu tàn ở bất cứ
nơi nào. Cậu cảm thấy xót xa cho quê hương cẩm tú
nhưng đau khổ triền miên vì chiến tranh.
Tân trở về nhà trọ, vào phòng,
để nguyên cả áo quần, nằm dài trên giường. Phòng trọ
vắng vẻ vì mọi người đều đã đi làm hoặc đi học,
chiều tối mới về đông đủ. Không gian yên tĩnh làm
cho cậu dễ chịu. Tân đã sống ở đây ba năm rồi. Còn
đúng năm ngày nữa, cậu phải rời khỏi nơi quen thuộc
nầy. Cậu không thể ở thêm được nữa vì không còn
tiền để trả cho chủ nhà trọ. Nếu không có cái lệnh
gọi nhập ngũ quái ác đó thì giờ nầy cậu không phải
lo gì cả. Kể từ ngày trình diện, cậu được công nhận
là giáo sư của trường và được ứng trước một tháng
lương để sống. Một tháng lương của giáo sư đủ cho
cậu sống ba bốn tháng liền sau đó.
Bây giờ, mọi chuyện đều thay
đổi; nói đúng hơn, mọi chuyện đều sụp đổ. Chỉ
trong vài hôm nữa, tiền trong túi hết nhẵn, cậu lấy gì
để sống? Rồi đến khi hết hạn trình diện theo lệnh
gọi nhập ngũ, cậu lại phải trốn chui, trốn nhủi như
đàn chuột dưới những đường cống hôi hám; cậu sẽ
ngủ ở đâu, và lấy cái gì để nhét vào dạ dày, mỗi
ngày ít nhất hai lần?
Nghĩ đến đó, cậu không thể
nằm yên trong căn phòng trọ quen thuộc nầy. Cậu vùng
dậy, ra khỏi nhà và cắm cúi bước trên vệ đường
dưới cái nắng chói chang của buổi chiều hè. Cậu đi
lang thang qua nhiều con đường và cuối cùng chui vào thảo
cầm viên. Cậu sực nhớ, cách nay năm năm, lúc mới ra
tù, cậu cũng đã lang thang trên đường phố và đã vào
đây. Ngày đó, cậu đang sung sướng vì mới lấy lại tự
do, còn bây giờ, cậu trở lại đây trong hoàn cảnh thực
là bi đát.
Thảo cầm viên vắng lặng, mọi
du khách đều đã về nhà, nhân viên của vườn đã nghỉ
trưa.
Tân ngồi xuống một chiếc ghế
đá dưới bóng mát của cây cao, nhắm mắt lại, cố xua
đuổi những ý nghĩ đen tối cứ chực bám vào đầu óc.
Cậu ngồi yên như thế một lúc khá lâu, thấy dễ chịu,
nỗi buồn phiền trong lòng vơi đi ít nhiều.
- Xin lỗi ông.
Tân giật mình vì tiếng nói của
ai đó kế sát bên. Cậu vội mở mắt ra. Giọng nói vừa
rồi reo lên mừng rỡ:
- Anh Tân. Đúng là anh rồi.
Tân đứng bật dậy nhìn sững
vài giây rồi nắm chặt lấy tay của người thanh niên
trước mặt:
- Bính, trời đất, Bính đây mà.
Bình cười thật tươi:
- Vâng, đúng Bính, em của chị
Mai đây. Em nhìn anh một lúc mà không dám gọi vì sợ
không phải là anh.
- Em nhìn không ra anh à? Anh thay
đổi nhiều lắm sao?
- Không, chẳng thay đổi nhiều,
nhưng vì anh ngồi nhắm mắt nên em không dám chắc là
anh. Vả lại em lấy làm lạ, không dám nghĩ rằng vào giờ
nầy anh lại ngồi ngủ gà ngủ gật một mình ở đây.
Tại sao anh có mặt ở đây vào giờ nầy?
- Anh cũng định hỏi em câu đó.
- Em đi lang thang hai ngày hôm nay.
Trưa nay tình cờ đi ngang qua đây, không ngờ lại gặp
anh.
- Tại sao đi lang thang vậy, thất
tình phải không?
Bính cười:
- Thất tình thì cũng có nhưng
chuyện đó giải quyết xong hơn một năm rồi. Còn bây
giờ đi lang thang để nhìn lại những nẻo đường quen
thuộc của thành phố thân yêu nầy.
- Em nói gì vậy, sắp đi đâu xa
phải không?
Bính gật đầu:
- Em vừa nhận lệnh nhập ngũ
khoá Mười bốn Sĩ quan trừ bị. Em định tuần sau sẽ
lên đường. Em đi khắp nơi cho hết vài ngày cuối cùng
của cuộc đời dân sự.
Tân sững sờ nhìn Bính một cách
lạ lùng. Bính ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao anh nhìn em như vậy?
Nhập ngũ bây giờ là chuyện hết sức bình thường. Bạn
bè em, thanh niên trong xóm, nhiều đứa đã lên đường
rồi. Đứa thì sĩ quan, đứa hạ sĩ quan, có đứa lại
phải đi binh nhì vì chẳng có bằng cấp hay chứng chỉ
nào. Em được gọi vào trường sĩ quan là may rồi.
- Nhưng tại sao em bị gọi nhập
ngũ. Có phải em không còn đi học nữa hay đã tốt nghiệp
một trường nào rồi?
- Em vẫn còn đi học, chưa tốt
nghiệp.
- Thế tại sao em không được
hoãn dịch vì lý do học vấn?
- Vì em thi rớt hai năm liên tiếp.
- Tại sao vậy? Anh còn nhớ em
rất thông minh. Ngày xưa ở bậc trung học, em học giỏi
nổi tiếng trong trường mà. Em học trường nào mà thi
rớt.
- Em học Đại học Văn khoa. Rớt
không phải vì học dốt mà vì không có thì giờ để
học. Chuyện của em khá dài. Ở đây nắng chói, anh em
mình đi ra một quán nước ngoài đường Nguyễn bỉnh
Khiêm ngồi nói chuyện thì thích thú hơn. May quá, có anh
để trút hết chuyện đời cho nhẹ. Ngày mai ra chiến
trường, biết tâm sự với ai? Lính thì có lẽ chỉ biết
nói chuyện đánh nhau còn Việt cộng thì mình chưa kịp
nói, nó đã cho kẹo đồng vào miệng mình rồi.
Bính cười ha hả một cách sảng
khoái rồi kéo Tân ra cổng. Tân lẳng lặng đi theo, hơi
ngỡ ngàng vì thái độ vui vẻ hồn nhiên của người bạn
nhỏ. Cùng chung một hoàn cảnh mà hai người có hai tâm
trạng, hai thái độ đón nhận hoàn toàn khác nhau.
Bính chọn một quán nước mát
mẻ bên vệ đường. Giờ nầy trong quán không có người
khách nào. Bính vẫn giữ nụ cười thật tươi trên môi.
Cậu gọi nước xong, quay sang nói với Tân:
- Chỗ nầy rất quen thuộc với
em. Em thường ngồi đây với nàng. Anh cũng biết từ
trường Văn khoa qua đây không xa.
Tân cười:
- Em nhắc đến người yêu phải
không? Nàng đâu rồi mà để chàng đi một mình thế nầy?
- Chia tay khá lâu rồi. Nàng sắp
có chồng. Thế mà hay, lên đường đỡ phải bận bịu.
- Tại sao chia tay vậy?
- Nàng khá đẹp, dễ thương
nhưng trí óc nông cạn, suy nghĩ hời hợt. Lúc đầu, em
yêu nàng ghê gớm lắm nhưng dần dần em khám phá ra rằng,
ngoài chuyện cho em hôn ra, nàng chẳng có gì khác làm cho
em thích thú. Rồi thêm cái tính vòi vĩnh, đòi mua thứ
nầy sắm thứ nọ mà em thì còn phải lo nuôi gia đình
thì làm sao chịu đựng nổi. Sau cùng đành phải chia tay.
Lúc mới chia tay cũng đau lắm, nhưng đến bây giờ thì
chẳng còn xót xa gì nữa.
- Bính có nghị lực khá lắm đó.
- Chẳng phải nghị lực gì.
Chẳng qua là em quá bận rộn để lo cho gia đình nên
không có nhiều thì giờ để buồn cho lâu.
- Em phải nuôi gia đình à? Gia
đình nào?
Bính cười to:
- Gia đình của em chứ gia đình
nào nữa. Không lẽ em phải bỏ công ra để đi nuôi gia
đình của người khác sao?
Bính ngưng cười, nói tiếp với
giọng nghiêm trang:
- Từ khi mẹ em mất đi, ba em
buồn cứ đi uống rượu với bạn bè hoài, ăn uống thất
thường nên sức khỏe sa sút, lại thêm tật ghiền rượu.
Hai năm sau, ba em xin về hưu non. Tiền hưu non thì đâu có
nhiều, chỉ vừa đủ tiền thuốc và tiền rượu cho ông
thôi. Em phải chịu trọn gánh nặng gia đình. Chị Mai ở
nhà chỉ biết nuôi con.
Tân nghe như có vật gì đụng
mạnh trong lòng làm cho ruột đau thắt. Cậu cố lấy
giọng thản nhiên:
- Con của Mai lớn chưa?
- Thằng Bình được năm tuổi
rồi, sắp vào trường tiểu học. Dễ thương lắm. Em đặt
tên Bình cho nó đó để cho tên nó gần giống tên em.
Nhưng khoan, chuyện chị Mai và thằng cháu Bình còn khá
dài, em sẽ nói sau; bây giờ, anh hãy nghe chuyện của em
trước đã. Em phải nói cho anh rõ, anh biết tại sao
không?
Rồi như không thể chờ đợi
câu trả lời của Tân, cậu nói tiếp với giọng sôi
nổi:
- Anh nhắc chuyện học giỏi làm
em xót xa lắm. Trong suốt bậc trung học, em nuôi hi vọng
học hành tới nơi tới chốn để mai sau trở thành giáo
sư đại học. Anh có chế nhạo ước vọng ngông cuồng
của em không?
- Không, trăm ngàn lần không. Sau
khi chiến tranh chấm dứt hầu hết bọn trẻ chúng mình
đều mơ ước trở thành nhân tài để góp được nhiều
công sức cho sự kiến thiết xứ sở. Sự mơ ước của
em thực đáng khen, ai có thể chế nhạo được. Hơn nữa,
anh biết em là đứa trẻ thông minh lại có những ý nghĩ
rất chín chắn thì điều ước mơ đó đâu phải xa vời.
Em thích về sau nầy mình dạy ngành nào trên đại học?
- Cám ơn anh đã hiểu em. Đó là
giấc mơ rất lớn và rất huy hoàng của em. Từ lớp cuối
cùng bậc trung học, em đã bắt đầu đọc nhiều sách và
say mê triết lý nên em mong muốn trở thành giáo sư triết
học ở đại học Văn khoa. Sau khi có tú tài xong, em vào
học ở trường Văn khoa. Ngay năm đầu, em dễ dàng vượt
qua chứng chỉ dự bị và năm sau ghi hai chứng chỉ với
hi vọng có thể hoàn tất nhanh chóng bằng cấp cử nhân,
để lên cao học. Nhưng đúng vào lúc đó ba em về hưu,
lâm bệnh phải vào nhà thương đến hai lần, kinh tế gia
đình trở nên bi đát. Em tìm mọi cách để đi dạy kiếm
tiền. Em nhờ bạn bè và vài thầy cũ của em. Cuối cùng
gia đình cũng tạm sống được. Em mất khá nhiều thì
giờ để kiếm tiền. Ngày phải đi học và đi dạy, tối
về thức đến một hai giờ khuya để học bài, soạn
bài, chấm bài cho học sinh. Sức khỏe em suy giảm rõ rệt.
Nhiều lúc em bị bệnh, ho về đêm mà cố dằn vì sợ ba
em và chị Mai nghe. Có khi dằn không nỗi thì trùm kín
mền, cong mình như con tôm mà ho khe khẽ. Cũng có khi em
chạy vội vào cầu tiêu, đứng úp mặt vào vách tường.
Tân nhìn Bính với đôi mắt vô
cùng thương cảm:
- Em có đi khám bệnh hay không?
Làm việc và thức khuya như thế thì dễ bị nhiễm lao
lắm.
- Em cũng nghĩ như thế nên không
dám đi khám bệnh. Nếu bác sĩ cấm không cho em đi dạy
nữa thì gia đình em sụp đổ ngay. Nếu vào hoàn cảnh
của em thì anh sẽ xử trí thế nào?
- Chắc anh phải bỏ học.
- Đúng vậy, em cũng đã phải
làm như anh nói. Nhưng em còn tiếc chưa bỏ hẳn được.
Hết năm dự bị, em ghi tên vào học hai chứng chỉ như
em đã nói khi nãy. Cuối năm, em đậu được chứng chỉ
Luận lý siêu hình. Đậu với hạng gì, anh đoán xem.
- Có lẽ hạng khá trở lên.
Bính cười to:
- Hạng IJ. Anh biết hạng đó rồi
chứ gì?
Tân gật đầu:
- Biết, đậu vớt, nhờ sự
khoan hồng của hội đồng, par indulgence du jury.
Bính vẫn tiếp tục cười vui
vẻ:
- Chứng chỉ mà đậu hạng IJ
thì sau cử nhân không thể ghi tên cao học được, mong gì
đến tiến sĩ và giáo sư đại học.
- Còn chứng chỉ thứ hai là
chứng chỉ gì, có đậu không?
- Chứng chỉ tâm lý đạo đức,
bỏ thi vì chẳng học một chữ nào cả.
- Năm kế tiếp?
- Năm sau và năm sau nữa, em chẳng
còn dành một chút thì giờ nào cho việc học. Tuy nhiên,
năm nào em cũng tốn tiền ghi danh vào một chứng chỉ vì
bỏ hẳn thì đau lòng lắm. Ghi danh để thỉnh thoảng trở
vào đại học, đứng ngắm những tà áo thướt tha trên
sân trường mà xót xa cho số phận của mình.
- Em nói hay lắm, chắc đi dạy
cũng khá.
- Em dạy kể ra cũng thành công.
Có điều là chưa đủ cử nhân, lại mới vào nghề nên
chỉ được dạy ở các lớp thù lao ít ỏi. Do đó em
phải nhận dạy rất nhiều nơi, ở trường tư và kèm
trẻ tại tư gia. Ai giới thiệu chỗ nào em cũng cố thu
xếp để nhận dạy.
- Như vậy, tổng thu nhập cũng
khá?
Bính gật đầu:
- Vâng, khá; gia đình bắt đầu
sống thong thả, hơn cả lúc ba em chưa về hưu nữa. Nhưng
em vẫn tiếp tục nổ lực vì mục tiêu khác.
- Mục tiêu gì nữa?
- Lo cho chị Mai.
Tân giật mình hỏi dồn:
- Chị Mai thế nào?
Bính thở dài:
- Chị Mai càng ngày càng tỏ ra
buồn bực vì mặc cảm cả mẹ lẫn con ăn bám vào gia
đình. Ba em và em rất tế nhị vì hết lòng thương chị
Mai và cháu Bình nhưng không ai có thể làm vơi được nỗi
đau khổ vì mặc cảm của chị ấy. Một hôm, trong bữa
cơm, chị Mai nói với em: “Phải chi nhà mình có thể mở
một tiệm tạp hóa để chị vừa buôn bán, vừa săn sóc
ba và thằng cháu Bình thì hay quá”. Em thấy ba cúi mặt
thở dài. Ba biết rằng việc nầy cần một số vốn khá
to để sửa sang nhà cửa thành một tiệm buôn bán và mua
hàng về bày bán. Riêng em thì rất chú ý đến đề nghị
nầy. Chỗ ở của gia đình em khá thuận lợi. Anh còn nhớ
con đường Vườn chuối không?
Tân vội vã trả lời:
- Nhớ lắm chứ. Dạo đó, anh
thường đến nhà em. Mỗi lần đến chơi thì mẹ em lại
bắt ở lại dùng cơm với gia đình. Thời gian đó thực
là đẹp.
- Tuyệt vời! Mọi thời điểm
của tuổi thơ đều tuyệt đẹp. Em kể tiếp câu chuyện
cho anh nghe. Hồi đó đường Vườn chuối chỉ là con
đường đất gồ ghề, hai bên chỉ có nhà ở mà thôi.
Bây giờ đường đó đã tráng nhựa, nhà cửa hầu hết
được sửa lại hoặc làm mới khang trang, nhiều nhà mở
rộng thành cửa hàng, người ta qua lại đông đúc; đúng
là có thể mở tiệm tạp hóa được. Nó sẽ giải quyết
kinh tế cho gia đình, ổn định tâm lý cho chị Mai và có
thể rộng thì giờ cho em tiếp tục học hành. Đó là lý
do để em dứt khoát tạm ngưng việc học và dành tất cả
thì giờ, sáng, trưa, chiều, tối, đi dạy học để cho
có đủ tiền cho chị Mai mở tiệm tạp hóa.
Tân thở dài:
- Tội nghiệp cho thân em.
- Cám ơn anh. Em biết trút bầu
tâm sự với anh, thế nào cũng được an ủi ít nhiều.
Ngày xưa, lúc còn sống, mẹ thường nói rằng cái nhìn
và giọng nói của anh có cái gì đó làm cho người khác
thương yêu và tín nhiệm. Thôi để em kể tiếp cho xong
câu chuyện vì từ ngày mai trở đi khó có dịp gần anh
để tâm sự nữa. Sau gần hai năm nổ lực, em đã gom đủ
số tiền cho chị Mai sửa nhà và mở quán bán tạp hóa.
Mới khai trương hai tháng trước đây. Tiệm mới mở ra
là đắt khách ngay. Cả xóm Vườn chuối, hình như nhà
nào cũng có ý đến mua hàng ở quán chị Mai. Anh biết
tại sao không?
- Ư, không. Em nói tiếp đi, anh
đang hồi hộp theo dõi đây.
- Phải rồi, cứ nhắc đến chị
Mai là anh hồi hộp có đúng không nào?
Bính cười khúc khích trong khi
Tân há hốc nhìn, chẳng biết trả lời thế nào. Bính
thôi cười, tiếp tục câu chuyện:
- Ba má em ở đó mấy chục năm
rồi, vì vậy quen biết với tất cả mọi người. Ai cũng
mến má em và cả gia đình em. Lúc má mất, người ta đến
viếng đông lắm, nhiều bà ôm quan tài má em khóc ngất.
- Phải rồi, bác gái là người
đàn bà hết sức nhân đức. Bác mất thì ai mà không
thương tiếc.
Bính mỉm cười:
- Nỗi thương tiếc đó đã nuôi
sống gia đình em. Mọi người đều muốn đến tiệm tạp
hóa của chị Mai là vì nhớ đến má em.
- Thôi thế cũng mừng cho gia đình
em.
- Đúng là mừng cho gia đình em
chứ không mừng cho em tí nào cả.
- Tại sao vậy?
- Vì chính cái việc kiếm tiền
đó mà hai năm liền em bỏ thi. Điều nầy làm sao qua được
mắt nha động viên của bộ quốc phòng. Thế là em nhận
được lệnh nhập ngũ.
Tân nhìn thẳng vào mắt Bính:
- Em tính thế nào với cái lệnh
nhập ngũ đó.
- Em đi trình diện chứ còn tính
gì nữa. Em rong chơi cho khắp thành phố nầy trong một
tuần lễ rồi lên đường. Bây giờ, em đã cất bỏ được
gánh nặng gia đình nhờ đã lo xong cái tiệm tạp hóa cho
chị Mai. Vợ con chưa có, lên đường một cách thảnh
thơi.
- Còn việc học của em? Em không
tiếc à?
- Tiếc thì có tiếc thực nhưng
biết làm sao hơn được. Số phận mình gắn liền với
số phận của đất nước. Đất nước chưa bình yên thì
riêng tấm thân mình làm sao có được bình yên.
Tân dọ hỏi:
- Có cách nào trốn lệnh nhập
ngũ hay không? Đâu phải tất cả mọi người đều ngoan
ngoãn tuân lệnh như em.
- Anh nói đúng. Cũng có người
chống lại lệnh nhập ngũ và trốn chui, trốn nhủi một
cách hèn nhát.
- Nhưng em phải công nhận rằng
những người chống lệnh nhập ngũ cũng có hoàn cảnh
riêng của họ chứ.
- Vâng, em không muốn phê phán
người khác. Mỗi người có quyền suy nghĩ và hành động
theo sự tính toán riêng tư của mình. Theo em, nghĩ thế
nào, hành động thế nào cũng không thoát ra được cái
thân phận bi đát của con người. Em đã nghiền ngẫm
điều đó nhiều năm rồi thì có lý do gì em tìm cách
thoát ra khỏi hoàn cảnh mà số phận đã định đặt cho
mình. Tuy nhiên, ai muốn chống lại số phận thì mặc họ,
em chẳng cần quan tâm đến. Vả lại…
- Vả lại thế nào?
- Em quen với thái độ đứng
thẳng, ngẩng cao đầu nhìn về phía trước. Nếu trốn
tránh nhập ngũ thì em buộc phải từ bỏ thái độ đó,
nghĩa là từ bỏ bản thân mình. Em sẽ phải sống lén
lút, ra đường luôn luôn nhìn trước nhìn sau coi có bóng
quân cảnh hay cảnh sát hay không; về nhà thì lắng nghe
từng tiếng ho, từng tiếng rì rầm trò chuyện của hàng
xóm. Sống kiểu đó thì thà ra mặt trận nhận một viên
đạn của quân thù cho xong.
Tân cố cãi:
- Nhưng vào quân đội đã chắc
gì em phải ra mặt trận. Đâu phải tất cả mọi người
quân nhân đều cầm súng ngoài chiến trường đâu.
- Dạ, em hiểu điều đó. Trong
quân đội có những chiếc ghế ngồi hoàn toàn êm ái,
mạng sống còn được bảo đảm hơn dân thường, nhưng
em không quan tâm đến điều đó. Vào lính là đi chia sẻ
với đồng bào nỗi đau khổ do cuộc chiến tranh xâm lược
mà Bắc Việt gây ra. Thế thì phải chấp nhận ra chiến
trường mới gọi là thực sự chia sẻ nỗi khổ đó chứ.
Anh Tân, em muốn chứng kiến tận mắt nỗi khổ của đồng
bào mình.
- Thôi được rồi, anh hiểu em,
anh kính phục thái độ đầy tính triết lý của em. Về
việc nhập ngũ, anh hỏi em điều cuối cùng nầy. Chính
xác, ngày nào em đi nhập ngũ?
- Đúng một tuần nữa. Hôm nay
là thứ sáu. Thứ sáu tuần sau là em bắt đầu khoác
chiến y rồi.
Bính vừa nói vừa cười, nụ
cười rất dễ thương. Tân hỏi tiếp:
- Em vào thẳng trường Bộ binh
Thủ đức phải không?
- Hãy gọi tên cho đúng. Đó là
Liên trường Võ khoa Thủ đức. Nhưng không vào thẳng đó
đâu. Phải trình diện tại trại nhập ngũ Quang trung
trước, làm một số thủ tục rồi mới vào trường Võ
khoa. Em nghe nói vô tới trường là bắt đầu “một hai,
một hai” ngay lập tức.
- Em có tính làm tiệc để từ
giã mọi người trước khi lên đường hay không?
- Em không thích, vui sướng gì mà
tiệc tùng, nhưng chị Mai nhất định phải làm để tiễn
em.
- Về việc em nhập ngũ, chị Mai
có buồn không?
- Chị ấy khóc luôn hai ngày,
sưng cả mắt. Chị Mai bảo rằng mấy năm rồi, em hi sinh
cho mẹ con chị; chị chỉ mong có ngày làm ra đồng tiền
để tự tay chăm lo miếng cơm manh áo cho em. Ngày đó đang
đến thì em lại lên đường. Chị cứ ngồi khóc rấm
rứt mãi; em lại phải an ủi chị thay vì được chị an
ủi để lên đường.
Hai người ngồi im lặng một
lúc, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Đột
nhiên Bính ngẩng lên hỏi:
- Anh Tân, em hỏi anh câu nầy.
Anh hãy nói sự thực với em. Còn nếu anh không tiện nói
thì thôi, cứ im lặng, em không hỏi tiếp đâu.
- Em hỏi đi, anh sẽ trả lời
một cách thành thực không có gì phải ngại.
- Có phải hồi xưa, chính anh đưa
chị Mai vào tổ chức Việt cộng?
Tân gật đầu và trả lời ngay:
- Phải, anh làm điều đó. Em và
cả ba má nữa oán trách anh lắm phải không? Bao nhiêu năm
rồi, anh không dám đến nhà đốt nén nhang cho bác gái
cũng vì lo sợ sự oán trách đó.
Bính đưa tay qua nắm lấy bàn
tay Tân:
- Anh Tân, sao anh lại nói thế?
Dù em không ưa Việt cộng nhưng em không trách anh đâu. Em
biết rằng lúc ấy anh đã làm vì một mục đích mà anh
cho là đúng, là cao cả. Anh đã hành động một cách
thành thực đúng theo nhận thức của anh và của nhiều
người khác. Tiếc rằng vì điều đó mà chị Mai dang dở
cả cuộc đời. Anh đâu có muốn và đâu có lường được
hậu quả như thế, có phải không?
- Bính à, lúc còn trong tù, nghe
em báo tin chị Mai có con, anh hối hận lắm.
- Hơn cả hối hận nữa; anh đau
khổ ghê gớm, có phải không? Lúc đó em còn nhỏ nhưng
nhìn thấy nét mặt thảng thốt của anh thì em hiểu.
Bính lấy chiếc muỗng khuấy vào
ly nước đã cạn, khẽ thở dài:
- Thực là số phận cay nghiệt.
Chị Mai đâu có yêu anh Đảnh, thế mà có con với anh ấy.
Tân cố nén sự thổn thức trong
lòng:
- Tại sao em biết chị Mai không
yêu anh Đảnh?
- Tại sao em biết à? Anh nên nhớ
rằng em đã có hai chứng chỉ triết học ở Văn khoa. Chỉ
cần nghe cái âm thanh của chị Mai khi nhắc đến tên anh
và tên anh Đảnh là em biết chị Mai yêu ai và không yêu
ai rồi.
- Anh Đảnh có thường trở về
thăm vợ con hay không?
- Có, nhưng em không nhớ rõ. Cách
đây đâu khoảng…
- Đúng ba năm.
- Phải rồi. Sao anh biết? Hay là…
- Thôi em cứ kể tiếp đi rồi
anh sẽ giải thích sau.
Bính gật đầu, nói:
- Đó là lần thứ hai và là lần
cuối cùng.
- Thái độ hai người thế nào
khi gặp nhau?
- Em nhớ rõ. Trông nhạt nhẽo
lắm. Anh ấy ngồi chơi một lát rồi bỏ đi, vài hôm sau
trở lại ngồi một lát nữa rồi nhận đồ đi luôn.
- Đồ gì?
- Anh ấy có xin chị Mai một ít
đồ dùng gồm áo quần để mặc trong thành phố, khăn
mặt, thức ăn khô để mang ra chiến khu. Em biết rõ điều
đó vì chị Mai không có tiền phải hỏi xin em. Em lấy
tất cả tiền trong túi áo, túi quần đưa cho chị để
mua các món, mắc tiền nhất là hai bộ áo quần.
- Trời đất!
Bính ngạc nhiên quay lại:
- Anh nói gì vậy?
- Không em cứ kể tiếp đi.
- Chị Mai mua áo quần, xà bông,
kem đánh răng, lạp xưởng, một hũ chao to tướng. Vậy
thôi.
- Anh Đảnh không nghỉ lại tại
nhà em sao?
- Không, nhà em đâu có rộng rãi
gì. Hơn nữa, ba em nằm trong buồng không thèm ra tiếp thì
anh ấy đâu có dám ở lại. Anh ấy đang hoạt động bí
mật thì cái gì cũng làm cho anh ấy phải đề phòng. Hình
như anh ấy có rủ chị Mai đi chơi nhưng chị ấy từ
chối.
- Còn thằng bé thì sao?
- Thằng cháu Bình lúc đó đã
gần ba tuổi rồi mà cứ níu lấy mẹ, lấm lét nhìn cha
nó. Chị Mai đẩy nó về phía anh Đảnh nhưng nó giẫy
nẩy không chịu. Anh ấy chỉ biết ngồi nhìn và cười
gượng. Em nghĩ rằng máu huyết chưa đủ để tạo nên
tình cảm giữa những con người với nhau. Phải có cái
gì khác nữa. Cái đó thì không hề có giữa cha con anh
ấy.
- Sau đó, anh Đảnh còn trở lại
không?
- Em đã nói đó là lần thứ hai
và là lần cuối cùng. Cách nay khoảng một năm, chị Mai
có nói với em là có người đưa tin về bảo rằng anh ấy
đã được rút ra Bắc để đi học bên Đông Âu.
- Chị Mai có tỏ ý buồn không?
- Chị ấy vẫn thản nhiên và
còn bảo rằng dứt khoát như thế càng tốt để chị ấy
làm lại cuộc đời khi có dịp.
Bính ngồi trầm ngâm một chút
rồi hỏi:
- Chuyện hoạt động của các
anh chị dẫn đến việc chị Mai đi trốn và có con, thế
mà đã bảy năm rồi. Mỗi khi nhắc lại chuyện đó, em
vẫn lấy làm lạ là tại sao lúc bấy giờ, ba má em dễ
dãi đến độ cho con gái mới lớn của mình theo hoạt
động với các anh. Em còn nhớ, có khi đi đến nửa đêm
để in hay rải truyền đơn gì đó, có phải không?
- Lúc đó em còn nhỏ, có lẽ
chưa biết rằng sau trận Điện biên phủ và hiệp định
Genève, uy tín của Việt minh lên cao tận mây xanh. Hầu
hết dân chúng đều hướng về cách mạng và cho rằng
tham gia công tác của cách mạng là vinh dự. Anh còn nhớ,
chính Bạch Mai bảo rằng ba em cũng có chân trong một tổ
chức của cách mạng ở nội thành còn mẹ em thì đã
từng đi quyên góp mua đồ tiếp tế cho liên lạc chuyển
vào chiến khu.
Bính cười:
- Còn một lý do nữa, đó là ba
má em thương anh, tin anh. Ba má em rất bằng lòng cho chị
Mai làm bạn với anh.
Câu nói nầy của Bính làm cho
Tân vừa cảm động, vừa xót xa. Giọng cậu bùi ngùi:
- Không, anh không xứng đáng với
lòng thương yêu và lòng tin của ba má em.
- Thôi, tại số phận cả. Anh
đừng buồn và tự dằn vặt mình nữa. À khi nãy em đang
kể chuyện chị Mai mua đồ tiếp tế cho anh Đảnh thì
anh kêu trời. Tại sao vậy?
- Trong hai bộ áo quần mà Mai mua
thì anh Đảnh có để lại cho anh một cái áo.
Bính sửng sốt:
- Thế anh có gặp anh Đảnh à?
Lúc nào?
Ngay lúc anh ấy từ nhà em đi.
Cái áo đó anh chưa hề mặc, về sau thất lạc đi đâu
anh cũng không nhớ. Có lẽ anh để quên lại khi cấp tốc
rời nhà kho trong Chợ lớn để lên Biên hòa sống một
thời gian. Anh đâu có ngờ cái áo đó là do tiền mà em
làm ra với biết bao cực nhọc.
Bính đưa tay nhìn đồng hồ:
- Nói chuyện vậy mà gần hai
tiếng đồng hồ rồi. Toàn là chuyện của em. Bây giờ
tới chuyện của anh. Mấy năm nay anh làm gì, bây giờ đời
sống ra sao?
Tân suy nghĩ một chút rồi trả
lời:
- Từ khi ra khỏi tù đến nay,
anh đi học. Năm đầu tiên thì sống với một vị ân
nhân. Năm thứ nhì, sống nhờ chân bồi bàn ở một tiệm
ăn của người Tàu trong Chợ lớn, ba năm nay thì sống
nhờ học bổng của trường đại học Sư phạm.
Bính tỏ vẻ mừng rỡ:
- Anh học đại học Sư phạm à?
Tốt nghiệp chưa?
- Rồi, mới đi nhận nhiệm sở
sáng nay ở Tân an.
- Vậy hả. Thích quá. Anh học
ban gì?
- Ban sử địa.
Bính reo lên:
- À, ngành văn chương. Thế là
anh với em đồng môn phái.
- Mấy năm vừa rồi, anh may mắn
có được một quãng đường học vấn suôn sẻ và giản
dị hơn em nhiều. Sắp tới chưa biết thế nào.
Bính có vẻ không chú tâm đến
câu nói đầy ẩn ý của Tân. Giọng cậu vẫn tiếp tục
vui vẻ hồn nhiên:
- Em xin chúc mừng anh vừa trở
thành giáo sư chánh ngạch. À, nhân việc nầy, em xin hỏi
anh câu cuối cùng. Anh cũng có thể im lặng nếu không
muốn trả lời.
- Được, em hỏi đi.
- Anh còn hoạt động cho Việt
cộng không?
Tân đáp một cách thản nhiên:
- Không, anh từ bỏ từ lúc ở
tù ra. Từ đó đến nay anh không hề liên hệ với tổ
chức của Việt cộng nữa.
- Nhưng anh nói vẫn còn gặp anh
Đảnh kia mà.
- Vâng, có gặp hai lần cách nay
hơn ba năm nhưng anh dứt khoát từ bỏ con đường mà anh
Đảnh đang theo. Anh xem chuyện gặp gỡ đó như một dịp
tình cờ gặp lại người quen cũ mà thôi.
Bỗng nhiên, Bính chồm sang nắm
chặt tay Tân:
- Anh Tân, từ lúc gặp anh đến
giờ, em vẫn mong chính tai mình nghe anh nói lên điều đó.
Em chẳng cần biết nguyên nhân nào làm cho anh từ bỏ
Việt cộng. Bao nhiêu đó đủ rồi.
- Tại sao em nói như vậy? Em thù
cộng sản lắm sao?
- Nói thù thì hơi quá đáng,
nhưng em ghét cộng sản vì họ gây chiến tranh, không để
cho dân miền Nam sống yên ổn. Mấy năm nay, em vẫn nhớ
đến anh, nhất là vào ngày giỗ má em. Em vẫn có ý đi
tìm gặp lại anh nhưng ngại rằng anh vẫn còn theo Việt
cộng nên thôi. Bây giờ thì em có thể thực sự làm bạn
với anh được rồi. Chỉ tiếc là em phải nhập ngũ, khó
có dịp cùng anh rong chơi trên các con đường của thủ
đô nữa. Thôi bây giờ, anh về nhà em chơi. Chắc chắn
chị Mai rất mừng khi gặp lại anh.
Tân im lặng một chút rồi lắc
đầu:
- Cám ơn em. Để khi khác vậy.
Bây giờ, anh còn phải giải quyết một việc rất quan
trọng nữa.
- Thôi cũng được; em biết anh
chưa sẵn sàng gặp lại chị Mai, có đúng không nào? Bây
giờ mình chia tay. Nhà em vẫn ở chỗ cũ. Rất mong có
ngày chúng mình lại gặp nhau.
Hai bạn bắt tay từ giã. Bính
leo lên xe đạp đi, Tân đến trạm chờ xe buýt. Các
chuyến xe đều đầy người đi làm về muộn. Mãi đến
chuyến thứ ba, cậu mới leo lên được. Khi cậu về đến
bên ngoài phòng trọ thì đã nghe tiếng ồn ào bên trong.
Mọi người đã về đông đủ. Cơm nước xong, cậu rủ
một người bạn cùng phòng đi xem phim ở rạp hát Vĩnh
lợi. Đó là một phim hài vui nhộn làm cho cậu ra về rất
thoải mái. Đêm đó cậu ngủ một giấc bình yên.
*
* *
Tân thức dậy thì trời đã sáng
hẳn, cảm thấy trong người khoẻ khoắn, tinh thần phấn
chấn. Sau khi làm vệ sinh buổi sáng, cậu thay áo quần và
đạp xe ra phố, đạp đi chầm chậm qua nhiều con đường
cho hết buổi sáng rồi trở về. Sau giấc ngủ trưa khá
dài, cậu thức dậy gói ghém đồ đạc, từ giã mọi
người, mang hành lý ra xe đi Biên hòa và đến ngay nhà
anh Long. Anh đang bế con ngồi trên ghế, vội quay ra, ngạc
nhiên:
- Ủa Tân, em lại trở lên à?
Sài gòn chán lắm hay sao mà mới về có một ngày lại bỏ
đi rồi?
Tân cười tươi:
- Không đâu. Em không bao giờ
chán Sài gòn, nhưng em sắp phải xa nó rồi.
Anh Long đặt bé xuống đất, hỏi
nhỏ:
- Em tính đi trốn phải không?
Trốn ở đâu?
- Không. Em sắp đi trình diện
nhập ngũ.
- Hả? Em nói lại anh nghe.
Tân nói to:
- Em chuẩn bị đi nhập ngũ đúng
hạn khóa Mười bốn Sĩ quan trừ bị Thủ đức.
- Tại sao em quyết định như
thế. Mới có hai ngày thôi mà em đã thay đổi quyết
định. Có lẽ em đã gặp người nào đó ở Sài gòn phải
không?
- Có, một người bạn, đúng
hơn, một đứa em của thời xa xưa.
- Nó khuyên em đi nhập ngũ và em
đã nghe theo lời nó?
Tân lắc đầu:
- Không, nó không khuyên em gì cả
vì nó không biết em vừa bị gọi động viên. Em nói
chuyện với nó suốt một buổi chiều rồi thấy trí óc
mình như bừng sáng ra. Gặp lại nó là chuyện tình cờ
nhưng thực đúng lúc, nhờ đó em đã đạt được quyết
định cho mình. Em nghĩ rằng đây là một quyết định
đúng đắn.
- Có chắc đúng đắn không? Ai
cũng tìm cách tránh vào quân đội còn em thì làm ngược
lại. Em phải hiểu rằng vào lính thì rất có thể bị
đưa ra chiến trường và phải chịu hiểm nguy. Trong quyết
định nầy của em có phần lãng mạn hay không?
- Anh nói lãng mạn là thế nào?
- Nghĩa là xem ra trận như một
cuộc dạo chơi, cố tình quên đi chiến tranh là khốc
liệt, cố tình không chịu hiểu chiến trường là nơi
dành cho chết chóc, cho rằng ra mặt trận là chỉ để
cắm hoa đầu súng, gối đầu trên ba lô chờ trăng lên,
vân vân…. Anh sợ rằng, nếu lãng mạn kiểu đó thì khi
thực sự bước vào quân ngũ, chú sẽ không chịu đựng
nổi thực tế tàn khốc.
Tân mỉm cười:
- Quả thực, em cũng có nghĩ rằng
ra chiến trường, người ta vẫn có thể nhặt được
chút gì đó thi vị, và tìm được nguồn cảm hứng để
làm thơ. Tuy nhiên em không bao giờ quên chiến tranh là
điều tồi tệ nhất trong những điều tồi tệ. Em hiểu,
khi bước vào trại nhập ngũ là em bước vào tâm điểm
của điều tồi tệ bậc nhất đó.
Anh Long xua tay:
- Thôi, hãy tính chuyện thực tế,
không nên nói chuyện triết lý viễn vông nữa. Chỉ mới
hai ngày trước đây, em còn có ý xa lánh chiến tranh kia
mà. Vì vậy trong hai ngày vừa qua, anh chị đã nổ lực
tìm giải pháp cho em. Em phải hiểu anh chị đang lo lắng
cho em.
Tân quay lại nhìn anh, có vẻ cảm
động:
- Vậy à? Anh chị đã có giải
pháp nào cho em chưa?
- Có rồi. Ngay buổi sáng em về
Sài gòn sớm, chị thức dậy hỏi hai anh em nói chuyện gì
mà khuya vậy. Anh trả lời rằng mình bàn chuyện tránh đi
lính cho em. Chị sực nhớ cách đây không lâu có người
ở quê chị là Vĩnh Long lên Sài gòn tìm một người có
đủ điều kiện về bằng cấp để làm hiệu trưởng
một trường tư thục dưới đó. Ở chức vụ nầy thì
được hoãn dịch, được sống và làm việc một cách
đàng hoàng, không phải trốn tránh đâu cả. Đó là dịp
may rất lớn.
Tân lắc đầu:
- Đó là dịp may lớn cho người
khác chứ không phải cho em.
- Tại sao vậy?
- Hai lý do. Một là, đối với
bộ giáo dục thì nhiệm sở của em là ở Tân an. Nay bỏ
về Vĩnh long là đào nhiệm và có thể bị truy tố. Hai
là, đối với bộ quốc phòng thì em đã bị động viên,
không vào lính thì làm sao sống yên được.
Long cười:
- Em khỏi lo. Anh có bàn với chị
rồi. Chị bảo trường nầy do các vị tai to mặt lớn
dưới đó hùn hạp để kiếm lời và để cho những học
sinh nào không đủ điểm vào trường công cũng vẫn tiếp
tục được học hành. Người ta cần em thì phải bảo vệ
em, đúng ra là bảo vệ cái chức hiệu trưởng của em.
Anh nghĩ rằng họ đủ sức làm chuyện đó. Thời buổi
nầy, truy tố hay không truy tố, thi hành luật hay không
thi hành đều do họ cả.
Thấy Tân ngồi trầm ngâm, không
có vẻ vui mừng phấn khởi chút nào, anh Long nói tiếp
với giọng thuyết phục:
- Đây là dịp may rất lớn, em
nên nắm bắt lấy, không nên lưỡng lự. Em nên nhớ rằng
có biết bao người chịu tốn hàng trăm ngàn đồng để
được hoãn dịch, còn em thì không phải tốn kém gì cả
lại được nơi ăn chốn ở, được có công ăn việc làm
với thù lao có thể lớn hơn cả lương giáo sư trường
công nữa. Anh không hiểu tại sao em lại không vui vẻ
bằng lòng ngay mà ngồi im lặng như vậy?
- Em cám ơn anh chị đã hết lòng
lo cho em. Nhưng em phải suy nghĩ cho kỹ vấn đề nầy. Bây
giờ, em muốn đi chơi một lát ngoài bờ sông.
- Ừ. Em nên nên ra đó đi. Ngoài
bờ sông yên tĩnh, có thể giúp mình sáng suốt hơn. Mỗi
lần có chuyện gì phải suy tính, anh cũng thường ra đó
ngồi một mình. Nhưng em nhớ phải quyết định cho sớm,
nội trong đêm nay thôi vì chị dự trù sáng sớm mai đi
Vĩnh long để lo cho em. Gặp người ta càng sớm thì càng
tốt. Hi vọng ở dưới đó chưa tìm được người làm
hiệu trưởng.
- Vâng, em sẽ quyết định ngay
trong đêm nay.
Tân đứng dậy ra đường và
lững thững về hướng cầu Gành. Cậu thấy bên dưới
gầm cầu có nhiều người đang sống. Họ che chỗ ở
bằng những miếng vải nhựa rách nát. Cậu đến gần
hỏi thăm vài câu rồi bước lên cầu, băng qua cù lao và
đến ngồi trên bờ đá, nhìn mặt sông đang tối dần
dưới ánh sáng còn sót lại của hoàng hôn. Không gian
thực yên tĩnh, gió chiều phe phẩy làm cho bụi tre sau
lưng cậu rung lên xào xạc. Bỗng Tân giật mình vì vài
tiếng súng nổ từ bên kia sông vọng lại. Tiếng súng
nghe cô đơn và buồn bã. Tân thở dài, đứng dậy ra về.
Cậu bước vào nhà thấy mâm cơm
đã dọn sẵn trên bàn. Chị Long reo lên vui vẻ.
- Chú Tân về rồi kìa. Chú vào
rửa mặt để dùng cơm, anh chị và cháu đang mong chú.
Vài phút sau, mọi người ngồi
vào bàn. Chị Long hỏi :
- Chú Tân ra bờ sông chơi phải
không? Chị thích ngoài đó lắm nhưng lâu quá rồi không
ra được vì chẳng có thì giờ. Ngồi ngoài đó nhìn ghe
thuyền qua lại, thấy cảnh thanh bình thực là vui sướng.
Tân mỉm cười một cách buồn
bã:
- Bây giờ thì không còn thanh
bình nữa chị ạ. Em thấy dưới gầm cầu có mấy gia
đình đang sống rất khổ sở. Em hỏi thăm thì biết là
họ trốn tránh chiến tranh, bỏ quê nhà lên đây tá túc.
Một lát sau ngồi trên bờ sông, em nghe từ hướng núi
Châu thới có mấy tiếng súng vọng đến. Bây giờ, chiến
tranh đang bắt đầu.
Anh Long ngắt lời:
- Chiến tranh đã bắt đầu từ
lâu chứ đâu phải bây giờ mới bắt đầu. Từ hai năm
sau hiệp định Genève, súng đã nổ rải rác nhiều nơi
và đã có nhiều người ngã gục. Rồi sau khi Mặt trận
Giải phóng ra đời thì chiến tranh bùng nổ càng ngày
càng dữ dội, bây giờ thì không còn mong gì hòa bình
nữa.
- Dân miền Nam chẳng mấy người
hoan nghênh cuộc chiến tranh gọi là giải phóng nầy. Họ
đang hưởng cuộc sống thanh bình và họ bằng lòng cuộc
sống đó thì có ai màng đến giải phóng đâu. Tại sao
người ta không quan tâm đến nguyện vọng của người
dân là mong muốn sống trong hòa bình chứ có mơ ước gì
khác?
Anh Long cười:
- Muốn viết nên lịch sử thì
không nên quan tâm đến lòng dân. Lòng dân bao giờ cũng
muốn có cuộc sống phẳng lặng. Nếu làm đúng theo lòng
dân thì mấy ngàn năm nay làm gì có xáo trộn, có chiến
tranh, có đổ máu và các nhà viết sử chẳng có gì để
kể lại cho hậu thế. Và vì vậy, trong rất nhiều trường
hợp, dân chúng là nạn nhân của những người muốn ghi
danh mình vào lịch sử.
- Điều đó có lẽ đúng trong
tình hình hiện tại; nhân dân miền Nam đang là nạn nhân
của những người đang dựng lên Mặt trận Giải phóng
miền Nam?
Anh Long im lặng một lát rồi mới
trả lời:
- Anh không muốn đổ lỗi cho ai
cả. Anh cho rằng đó là số phận mà dân mình phải gánh
chịu. Hết bị đô hộ rồi thì đến chiến tranh giành
độc lập, vừa mới xong thì lại đến chiến tranh giải
phóng. Thân phận người dân mình thực là bi đát.
Tân buông đũa, dựa ra ghế, nhìn
anh Long, chẫm rãi nói:
- Anh Long, chính vì cái thân phận
bi đát của người Việt Nam như anh vừa nói mà em quyết
định phải đi nhập ngũ.
Anh Long ngồi thẳng dậy hỏi:
- Chú đã quyết định như thế
rồi à? Chú muốn ra trận để chống lại những người
gây ra cuộc chiến tranh nầy?
- Không, em không nhập ngũ với
mục đích đó.
- Vậy thì em quyết định vào
lính để làm gì?
- Chiến tranh là điều tồi tệ
nhất. Em lặp lại điều đó không biết đến lần thứ
mấy rồi. Nhân dân miền Nam đang quằn quại trong cái
điều tồi tệ đó thì em không thể nào tìm sự an thân
trong chức vụ hiệu trưởng để hưởng tuổi thọ trong
cái thành phố đã được bảo vệ kỹ lưỡng. Đã nhận
rằng dân miền Nam là nạn nhân của chiến tranh thì em là
một người dân miền Nam, em phải chia sẻ số phận nạn
nhân như những người khác; em không thể lợi dụng cái
bằng cấp, sự quen biết để trốn tránh thân phận bi
đát của người miền Nam được. Bây giờ thì có lẽ
anh hiểu lý do em quyết định đi nhập ngũ.
Anh Long nhíu mày:
- Anh hiểu. Tuy nhiên, bàn đến
thân phận bi đát của con người, anh chỉ hình dung nó
trong sách vở, trong những tiểu thuyết mà tác giả hư
cấu để chứng minh. Bây giờ, em đưa nó ra trước thực
tế, anh cảm thấy thực ngỡ ngàng. Anh vẫn không thể
nào chấp nhận được quyết định đi nhập ngũ của em
vì lý do có tính lý thuyết như thế. Anh rất tiếc nếu
em từ chối vị trí mà biết bao nhiêu người thèm muốn
trong thời buổi nầy.
Anh nói tiếp với giọng bực
tức:
- Em bảo rằng em muốn xông thẳng
vào chiến tranh chỉ vì muốn chia sẻ thân phận của
người miền Nam. Thế cách đây hai hôm, tại sao em từ
chối ra chiến khu? Ở đó không phải là tâm điểm của
chiến tranh hay sao?
Tân thở dài với vẻ ngao ngán:
- Anh Long, em đã trải qua nhiều
sóng gió, nên tâm hồn em hết sức mệt mỏi. Em không
muốn có một sự lựa chọn nào cả. Em muốn trở nên
thụ động, hay tốt hơn hết là bất động, để mặc
cho hoàn cảnh đưa đẩy, cũng như chiếc lá mặc cho dòng
nước cuốn trôi. Anh nói đúng, vào quân ngũ hay vào chiến
khu cũng đều là chui vào lò lửa chiến tranh để được
nướng cho cong queo như bao người khác. Chiến khu hay quân
ngũ, tuy là hai cánh cửa khác nhau nhưng cũng đều dẫn
vào một địa điểm, đó là mặt trận.
Anh Long ngắt lời:
- Thế tại sao em quyết định
vào quân ngũ mà từ chối ra chiến khu?
- Không ai bắt buộc em ra chiến
khu cả. Thế thì chấp nhận ra đó rõ ràng là một sự
chọn lựa, không khác chi một sự tình nguyện, còn vào
quân ngũ là một sự cam chịu. Em không muốn chọn lựa,
em chỉ muốn cam chịu mà thôi. Hơn nữa, vào chiến khu là
tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người quyết tâm
đi tìm sự vinh quang bằng cách gây ra cuộc chiến tranh
nầy.
Giọng Long có vẻ mỉa mai:
- Nhưng em nên biết rằng trong
quân đội quốc gia, bây giờ gọi là quân đội cộng
hòa, người ta cũng lớn tiếng hô hào chiến thắng, ca
ngợi vinh quang kia mà. Em vào đó thì cũng phải hô hào
chiến thắng, hô hào vinh quang y như đối phương mà thôi.
Tân đáp lại, giọng vẫn chậm
rãi và bình tĩnh:
- Chiến thắng, vinh quang như anh
nói chỉ là hình thức, chỉ là thủ tục cần thiết cho
bất cứ quân đội nào. Ở đây, xét theo công tâm, cái
quân đội quốc gia hay quân đội cộng hòa đâu có muốn
cuộc chiến tranh nầy xảy ra để cho họ đi tìm chiến
thắng hay vinh quang. Cũng có một số tướng lãnh hay sĩ
quan lợi dụng chiến tranh để có dịp leo lên nấc thang
cao trong xã hội. Đó chỉ là số ít còn hầu hết bị bó
buộc tham gia vào chiến tranh như bó buộc nhận chịu thân
phận con người mà thôi.
Anh Long có vẻ bực tức:
- Thôi được. Em muốn nhập ngũ
thì cứ đi. Tự do hành động theo nhận thức của mình
là điều quý nhất đối với mỗi người. Ngày mai chị
không cần phải đi Vĩnh long nữa.
Tân quay sang chị Long:
- Em vẫn phải cảm ơn lòng tốt
của chị và rất tiếc không thể nhận dịp may mà chị
sắp đem đến cho em.
Chị Long cười một cách hiền
lành:
- Không sao. Em đã không thích thì
thôi. Em muốn đi nhập ngũ như bao nhiêu thanh niên khác ở
miền Nam thì cũng phải. Thôi hai anh em nói chuyện với
nhau, chị đi dọn dẹp và cho cháu ngủ. Chị hi vọng em
vào quân đội sẽ được ở lại văn phòng, không phải
ra chiến trường.
Nói xong chị đứng dậy dọn
chén bát và bưng bình nước ra. Anh Long nói với Tân:
- Chị cầu chúc như thế nhưng
em phải hiểu rằng, vào quân ngũ thì có thể bị đưa ra
mặt trận. Em có nghĩ đến điều đó không?
- Dạ có. Em chấp nhận đi vào
chiến tranh thì đâu phải để ngồi trong một chiếc ghế
êm ái của bộ tư lệnh nầy hay bộ chỉ huy nọ. Vào
quân ngũ thì phải chấp nhận ôm súng ra chiến trường.
- Nếu ra chiến trường, em buộc
phải chĩa súng bắn vào kẻ thù. Em có nhớ kẻ thù đó
là những người nào không?
- Em vẫn nhớ chứ. Lần trước
em đã nói với anh rồi. Em không bao giờ em xem những
người bên kia chiến tuyến là kẻ thù. Em vẫn coi họ là
những người bạn, những người đồng chí hướng trong
quá khứ. Ngày trước, em đi cùng đường với họ. Họ
tiếp tục theo con đường cũ còn em thì dừng lại và bị
số phận cuốn hút vào bánh xe tàn nhẫn của nó. Đối
với họ, em vẫn giữ gìn tình bạn xưa cũ.
Long cười lạt:
- Em vẫn còn những ý nghĩ ngây
thơ như thế à? Trong hoạt động địch hậu, hễ đồng
chí nào tự ý ngưng sinh hoạt thì bị xem như tự ý rời
bỏ hàng ngũ và trở thành quần chúng bình thường. Còn
nếu chịu đi lính cầm súng cho phía quốc gia thì lập
tức trở thành kẻ thù của cách mạng. Đó là một
nguyên tắc rất nghiêm nhặt, em không nhớ sao? Làm sao còn
có tình bạn xưa cũ được.
- Em nhớ điều đó và em biết
rằng em sắp trở thành kẻ thù của họ nhưng họ không
bao giờ là kẻ thù của em. Họ xem em là kẻ thù, em đành
chịu, còn em vẫn xem họ là bạn cũ.
- Lý lẽ của em nghe có vẻ dị
thường. Đối đầu với nhau trên chiến trường, bắn
vào nhau mà bảo rằng không phải là kẻ thù của nhau.
- Đương nhiên họ sẽ nhắm bắn
vào em vì em là kẻ thù của họ. Còn em thì không bao giờ
bắn vào họ. Sau khi ra khỏi quân trường rồi nhất định
không bao giờ em chạm ngón tay vào cò súng.
- Em có chắc giữ đúng lời nói
đó không?
Tân gật đầu, giọng cương
quyết:
- Nhất định em giữ đúng như
thế.
- Kể cả khi phải ra đơn vị
tác chiến và thường xuyên có mặt trên chiến trường?
- Vâng, trong bất cứ trường hợp
nào.
- Em đừng quên cái quy luật của
muôn đời là khi đối mặt nhau trên chiến địa thì phải
giết chết quân địch để bảo vệ mạng sống của mình
và của đồng đội. Em không giết họ thì họ sẽ giết
em.
- Vâng em chẳng than phiền gì nếu
bị họ giết.
Anh Long phì cười:
- Chết rồi thì than phiền gì
được nữa. Tuy nhiên, như vậy chưa phải là hết chuyện
đâu. Em ra trường sẽ là sĩ quan và chắc chắn sẽ là
một đơn vị trưởng. Anh không biết rồi em sẽ chỉ huy
đơn vị em thế nào nếu em cứ nhất quyết xem những
người bên kia chiến tuyến không phải là kẻ thù.
- Em sẽ chỉ huy đơn vị theo
lệnh trên truyền xuống. Nếu cần em sẽ ra lệnh cho lính
của em bắn vào đối phương, nhưng riêng em thì không bao
giờ trực tiếp giết những người đã từng là đồng
chí của em.
- Anh vẫn chưa thể nào thừa
nhận quan điểm khác thường của em. Tuy nhiên anh vẫn
cầu chúc cho em không phải ra chiến trường để khỏi
phải biến quan điểm khác thường đó thành hiện thực.
Em tính bao giờ sẽ lên đường trình diện? Cho anh chị
biết chính xác để anh chị còn sắm sửa chút ít cho em
mang theo.
- Anh chị không cần phải tốn
tiền mua sắm cho em gì cả. Em đã quen sống với nhu cầu
vật chất tối thiểu rồi. Hơn nữa vào quân trường thì
chắc chắn quân đội sẽ lo mọi thứ cho em, có lẽ còn
đầy đủ hơn cuộc sống dân sự của em nữa. Em tính đi
nhập ngũ vào thứ sáu tuần sau, nghĩa là còn đúng năm
ngày nữa.
- Tại sao đi sớm như thế? Còn
những hai tuần nữa mới hết hạn trình diện mà.
- Chẳng có gì làm em vấn vương
với đời sống dân sự nên không cần phải đợi đến
hạn chót. Vả lại, em muốn đi trình diện cùng ngày với
một người quen để may ra được ở cùng một đơn vị
trong quân trường.
- Từ nay đến ngày trình diện,
em đi đâu?
- Em lên Bảo lộc ở chơi với
ông bà Thái.
Anh Long cười, ngắt lời:
- Để cuốc đất trồng cây cho
ông bà?
- Vâng, em muốn có một cử chỉ
đền ơn tượng trưng đối với ân nhân của em. Vào quân
đội rồi ra chiến trường, biết đâu em không bao giờ
còn có dịp tỏ lòng biết ơn với ông bà nữa.
- Em đừng quá bi quan như thế.
- Thôi khuya rồi, chúng ta đi ngủ,
ngày mai em lên đường sớm.
Đêm đó, Tân ngủ một giấc
ngon lành trong khi anh Long thao thức mãi. Anh vẫn ấm ức
vì quyết định dứt khoát và khá bất ngờ của người
bạn trẻ mà anh coi như em của mình.
Sáng hôm sau, Tân đáp xe đò về
Bảo lộc. Hai ông bà già vẫn tiếp đón cậu với sự
mừng rỡ thực cảm động. Khi cậu cho biết tin mình sắp
nhập ngũ, ông Thái cầm tay cậu, đôi mắt già nua đầy
xót thương lẫn hân hoan. Ông nói với bà đang đứng rơm
rớm nước mắt:
- Bà nầy, cháu Tân sắp đi làm
nhiệm vụ của một đứa con thân yêu của Tổ quốc.
- Tội nghiệp cho cháu tôi. Từ
thuở bé đã phải long đong. Tưởng đâu ra trường thì
được sung sướng tấm thân, không ngờ lại tiếp tục
long đong.
Ngay buổi chiều hôm đó, cậu đã
ra vườn chăm chỉ làm việc.
Bốn ngày trôi qua nhanh chóng.
Buổi sáng sớm cả hai ông bà đưa cậu ra bến xe. Cho đến
khi xe lăn bánh hai người mới ra về.
*
* *
Trại nhập ngũ Số Ba nằm trong
khu vực trại huấn luyện Quang trung. Tân đến đó vào
buổi sáng và hơi ngạc nhiên thấy trại không đông đúc
ồn ào như cậu hình dung trên suốt đoạn đường từ
Biên hòa đến đây. Tân vào văn phòng và đến bàn tiếp
nhận tân binh, làm thủ tục nhập trại và được dẫn
đến một khu gồm nhiều dãy nhà dài mái tôn cũ kỹ,
vách ván màu xám xịt. Những dãy nhà bỗng làm cậu nhớ
lại khám Tân hiệp nơi cậu đã sống suốt gần ba năm
trường.
Tân theo người lính bước vào
dãy nhà đầu tiên. Cậu đứng nhìn gian phòng rộng lớn
với hai dãy giường gỗ chạy dài hai bên con đường đi
ở chính giữa. Các giường đều trống trơn. Lác đác
vài giường có trải chiếu, chứng tỏ có người đang ở
trong phòng. Người lính dẫn đường chỉ cho cậu một
giuờng gỗ gần cửa ra vào, trao cho cậu chiếc chiếu mà
anh ta cầm theo và nói:
- Anh nằm giường nầy hay bất
cứ giường nào khác trong phòng mà anh thích. Trưa và
chiều, nghe kẻng đánh, anh xuống dùng cơm ở nhà ăn, dãy
cuối cùng.
Người lính đưa tay chỉ những
chiếc giường có trải chiếu và nói tiếp:
- Mấy người nầy đã trình diện
hôm qua, có lẽ đang xuống dưới quán uống cà phê cả
rồi. Anh xuống câu lạc bộ thì gặp họ cả dưới đó.
Nói xong anh ta quay lưng bước ra
khỏi phòng. Tân trải chiếu lên giường gỗ và đặt
lưng nằm xuống. Cậu cảm thấy buồn ngủ, vì trằn trọc
gần suốt đêm qua trên chiếc di văng nhỏ trong phòng
khách nhà anh Long. Cậu nhắm mắt lại, nghe có tiếng chân
đi và tiếng nói ồn ào bên ngoài. Tân hiểu rằng những
người cùng hoàn cảnh với cậu đang vào trình diện tại
đây. Cậu duỗi thẳng tay chân, thấy dễ chịu và chìm
dần vào giấc ngủ. Bỗng cậu thức dậy ngay vì ngứa
ngáy ở cánh tay bên trái. Cậu đưa tay gãi và cố tiếp
tục giấc ngủ sảng khoái vừa mới bắt đầu. Nhưng
nhiều cú chích liên tiếp làm cho cậu bật dậy và khiếp
đảm khi trông thấy mấy chú rệp to tướng phóng chạy
ra mép chiếu và chui vào khe ván.
Tân chán nản bước xuống
giường, thấy trong phòng có nhiều người. Cậu nhìn kỹ
để tìm Bính nhưng không thấy. Cậu ra hàng hiên. Bên
ngoài có hàng cây bã đậu xanh tươi, bóng mát trùm khắp
khoảng trống giữa hai gian nhà. Cậu ngồi lên một băng
đá, ngửa đầu ra sau, nhắm mắt lại và nhanh chóng tìm
lại được giấc ngủ vừa bị bầy rệp làm gián đoạn.
Một bàn tay khẽ vỗ vào vai làm
Tân tỉnh giấc. Cậu mở mắt ra và trông thấy Bính đang
đứng trước mặt nhìn cậu với đôi mắt đầy ngạc
nhiên. Bính nói to như hét:
- Anh Tân, tại sao anh vào đây?
Tân mỉm cười:
- Cũng như em vậy. Nếu không
nhập ngũ thì vào đây làm gì?
- Anh cũng bị động viên à? Khóa
Mười bốn phải không?
Tân gật đầu, chưa kịp trả
lời thì Bính đã hỏi dồn:
- Thế sao tuần trước gặp nhau
ở sở thú, ngồi với nhau cả một buổi chiều ở quán
nước mà anh không nói cho em biết?
- Có ai tra khảo gì đâu mà anh
phải khai.
Bính cười khì:
- Anh vẫn còn giữ tác phong của
Việt cộng, kín đáo lắm. Có tra khảo cũng cứ ngậm
miệng không khai.
- Còn em thì tác phong quốc gia,
không cần tra khảo cũng khai ra tất cả.
Bính cười ha hả:
- Đúng rồi. Cộng sản và quốc
gia khác nhau chỗ đó. Vì vậy, cộng sản thì đáng nể
phục và đáng sợ, còn quốc gia thì không đáng phục
nhưng dễ thương.
Bính ngưng cười, nghiêm mặt lại
nói:
- Em nghĩ rằng anh đi lính bác Hồ
thì đúng hơn vào đây đi lính Cộng hòa.
Thấy Tân tỏ vẻ khó chịu, Bính
vội vàng nói tiếp:
- Xin lỗi anh, em chỉ nói chơi
thôi. Thấy anh vào đây cùng với em nên em mừng quá,
không giữ gìn được lời nói, nên có thể làm cho anh
phiền.
Tân mỉm cười:
- Em đừng ngại, bạn trai với
nhau không cần phải giữ gìn lời ăn tiếng nói cho lắm.
Còn chuyện anh nhập ngũ thì cũng là chuyện bình thường
như bao nhiêu người khác trong đó có em. Từ khi anh ra tù
đến nay, anh không còn liên hệ gì nữa với cộng sản,
anh đã nói với em hôm nọ rồi. Em không nhớ sao?
- Vâng, em vẫn nhớ chứ. Và
chính điều đó làm cho em khấp khởi vui mừng.
- Kể từ đó, anh là một công
dân bình thường của miền Nam và phải có bổn phận
chấp hành luật lệ của chính phủ như mọi người khác.
- Em hoan nghênh quyết định của
anh. Anh có biết tại sao anh em mình kéo nhau vào gặp nhau
ở đây không?
- Vào đây là tuân theo lệnh nhập
ngũ.
- Không em muốn nói tới một
khía cạnh khác. Theo em hiểu, kể từ khóa Mười hai Thủ
đức, chính phủ muốn đưa nhiều trí thức vào quân đội
để nâng cao trình độ của quân đội mình lên, đặc
biệt là về tác phong đạo đức. Vì vậy anh cũng không
nên buồn khi phải từ giã học đường để vào đây ăn
cơm lính. Riêng đối với em thì em rất vui mừng vì anh
em mình trở thành chiến hữu của nhau. Theo em thì chiến
hữu còn có ý nghĩa đậm đà hơn cả bằng hữu nữa, vì
chiến hữu thì phải sống chết với nhau.
Bính nhìn Tân, cười một cách
khoái trá và nói tiếp:
- Bây giờ, anh em mình hãy xuống
câu lạc bộ để ăn mừng ngày hội ngộ hôm nay. À, anh
vào trình diện có một mình hay sao? Anh không có người
bạn nào cùng bị động viên khóa nầy à?
- Có một anh bạn cùng lớp nữa
nhưng không biết anh ta trình diện ngày nào. Còn em, cũng
đi một mình?
- Còn một người nữa. Anh ấy
ghiền thuốc hút nên xuống căng tin trước và đợi em
dưới đó. Anh ấy rất dễ mến, tính tình chân thật,
làm bạn được lắm.
- Bạn học của em phải không?
- Vâng, anh ấy cũng học Văn khoa
với em. Chúng em quen nhau trong quán nước của nhà trường
và nhanh chóng trở thành bạn của nhau. Anh ấy mới đậu
chứng chỉ dự bị khóa vừa rồi .
- Mới đậu dự bị thôi à? Thế
thì được hoãn dịch để học tiếp, tại sao lại nhập
ngũ?
- Anh ấy tình nguyện đi. Chuyện
anh ấy còn dài lắm. Chúng ta có cả một khóa học ở
quân trường, anh sẽ có nhiều thì giờ để nghe chuyện
của anh ấy. Thôi mình đi. Tiền bạc thì nhớ mang theo
còn đồ dùng lặt vặt thì để lại chỗ ngủ. Trong nầy
toàn lính tráng, chẳng có kẻ gian nào dám vào đây đâu.
Chỗ nằm của anh ở đâu?
- Ngay cửa ra vào. Đêm rồi mất
ngủ nhưng không thể nằm nghỉ trên giường được.
Bính cười to:
- Anh mới vừa bị rệp tấn công
phải không?
Tân gật đầu:
- Bị tấn công dữ dội nên đành
phải chạy ra ngồi trên ghế nầy ngủ gà ngủ gật. Có
lẽ đêm nay phải kéo chiếu xuống đất mới ngủ được.
- Không, vẫn nằm trên giường
và ngủ ngon lành. Trước khi vào đây, em may mắn có một
người bạn cho biết những binh đoàn rệp ở đây rồi
nên em đã chuẩn bị kỹ lưỡng.
- Chuẩn bị cách nào?
- Em có mang theo tấm ni lông để
trải trên chiếu, bốn cạnh đều có thoa thuốc trừ rệp,
mình nằm vào giữa, thế là chúng nó chỉ biết đứng
ngoài nhìn vào một cách thèm thuồng. Kiểu phòng thủ đó
làm em liên tưởng đến một quốc sách của chúng ta hiện
nay.
- Em nói gì thế? Giết rệp mà
là quốc sách à?
Bính cười sảng khoái:
- Không phải thế. Nói chuyện đề
phòng rệp cắn làm em liên tưởng đến quốc sách ấp
chiến lược của chính phủ để chống lại cuộc chiến
tranh nhân dân của cộng sản. Rệp cũng như là những
binh đoàn Việt cộng. Cơ thể mình như khối nhân dân
đang tích trữ chất bổ dưỡng. Việt cộng cần lương
thực của nhân dân cũng như rệp cần máu của mình để
sống. Phải cách ly bọn rệp khỏi cơ thể bằng một lớp
thuốc cũng như ngăn chận không cho Việt cộng đến gần
dân bằng vòng rào phòng thủ của ấp chiến lược vậy.
- Hình như lúc nào em cũng có ý
nghĩ khôi hài trong đầu, kể cả lúc sắp sửa xông vào
chiến tranh?
- Mỗi người có một thái độ
riêng khi đi vào chiến tranh. Có người giận dữ căm thù,
có người chán nản âu sầu.
- Còn em thì cứ vẫn cười đùa?
- Vâng, em chẳng thấy buồn hay
giận chút nào. Nếu ra ngoài chiến trường, gặp ông thần
chết đưa lưỡi hái lên thì em bảo ông ấy cất vũ khí,
đi uống một chầu bia với em rồi muốn làm gì thì làm.
- Lúc nào em cũng hồn nhiên y như
trẻ thơ. Cái anh bạn cùng đi nhập ngũ với em có lẽ
còn nhỏ và cũng hồn nhiên như em vậy phải không?
- Không, anh Thảo lớn tuổi rồi,
có lẽ bằng anh. Anh ấy rất thông minh.
- Nhưng tại sao mới đậu dự
bị. Lo mãi mê làm ăn phải không?
- Không phải. Anh Thảo học trễ
vì mới vượt biên vào Nam cách nay khoảng bốn năm. Ở
ngoài Bắc anh ấy bị đuổi khỏi trường trung học vì
cha mẹ bị đấu tố trong đợt cải cách ruộng đất năm
1956. Chuyện vượt biên của anh Thảo thì hết sức ly kỳ,
hay hơn bất cứ chuyện phiêu lưu mạo hiểm nào mà em đã
đọc.
- Tính tình anh ấy thế nào?
- Rất dễ mến nhưng nghiêm nghị
chứ không hay bông đùa như em. Trường hợp động viên
và thái độ nhập ngũ của anh ấy cũng khác với em. Em
thì bị gọi vào lính và không thể từ chối được. Anh
Thảo được ưu tiên hoãn dịch vì lý do học vấn và lý
do nạn nhân của cộng sản miền Bắc, nhưng anh ấy tình
nguyện đi lính với một mối căm thù mãnh liệt trong
lòng. Anh ta thề vào quân đội để tận diệt cộng sản
ở miền Nam rồi tiến ra Bắc để cứu em gái còn kẹt
lại ngoài đó. Rồi anh sẽ có dịp nghe anh ấy kể chuyện
đấu tố ở miền Bắc. Vô cùng rùng rợn và dã man.
- Em cùng anh ấy rủ nhau đi trình
diện hay tình cờ gặp nhau hôm nay?
- Chúng em hẹn nhau cùng trình
diện một ngày để được ở chung đơn vị trong thời
gian học tại quân trường. Em đã hỏi thăm kỹ lưỡng.
Ở trại nhập ngũ nầy, chúng ta sẽ được đưa đi khám
sức khoẻ, xong là chuyển ngay về quân trường để thành
lập các đại đội, có bao nhiêu là thành lập ngay bấy
nhiêu.
- Thế thì anh em mình cùng một
đơn vị vì mình nhập ngũ cùng một ngày và hôm nay không
có nhiều người trình diện
- Vâng, đúng vậy, hôm nay thứ
sáu, rất nhiều người còn tiếc hai ngày cuối tuần của
cuộc đời dân sự. Thôi, mình xuống quán đi.
Hai anh em kéo nhau đi, nửa đường
gặp anh bạn của Bính quay lên để tìm. Bính nói với
Tân:
- Đây là anh Đoàn thạch Thảo
mà em vừa nói với anh lúc nãy.
Cậu quay sang Thảo:
- Đây là anh Phạm bá Tân, bạn
thân của tôi và của gia đình tôi nữa.
Hai người mới được giới
thiệu siết chặt tay nhau. Thảo nói với nụ cuời rạng
rỡ:
- Chào anh Tân. Rất hân hạnh
quen biết và làm bạn với anh.
Tân đáp lời:
- Rất hân hạnh. Kể từ nay,
chúng ta là chiến hữu với nhau. Tình chiến hữu thì
thiêng liêng hơn tình bằng hữu nữa. Bính vừa mới nói
với tôi như thế.
Thảo vẫn giữ nụ cười dễ
thương:
- Bính lúc nào ăn nói cũng khéo.
Tôi biết Bính có nhiều tư tưởng sâu sắc, tôi phục
lắm dù Bính nhỏ tuổi hơn tôi. Tiếc rằng Bính phải bỏ
dở sự học nửa chừng; nếu không sau nầy cậu ấy có
thể thành triết gia hay giáo sư đại học.
Bính cười một cách hồn nhiên:
- Anh Thảo đừng buồn cho tôi.
Mài quần trên ghế đại học, xong rồi bước lên bục
giáo sư trong một giảng đường với đầy đủ tiện
nghi thì khó lòng trở thành triết gia được. Số phận
buộc tôi phải xông vào chiến tranh để suy tư, để tìm
ra ý nghĩa của cuộc đời. Biết đâu đó lại là điều
may mắn cho tôi. Cuộc chiến tranh nầy là cả một khối
rối rắm, khó nhận ra ở đâu là chính nghĩa, ở đâu là
phi nghĩa, ai bạo tàn và ai nhân ái. Vì vậy, đó là môi
trường tốt nhất để người ta xông vào mà suy tư. Thôi
chuyện đó còn dài, chúng ta còn cả hơn mười tháng
trong quân trường để bàn bạc với nhau. Bây giờ đi ăn
trưa và chiều nay phải thực hiện cho xong tuyến phòng
thủ cho đêm nay, đề phòng Việt cộng tấn công.
Thảo ngạc nhiên:
- Anh nói phòng thủ cái gì? Việt
cộng làm sao vào được đến đây mà tấn công?
Tân cười ngất:
- Việt cộng mà Bính nói là bầy
rệp lúc nhúc trong các giường ở phòng ngủ. Chúng ta
phải có cách ngăn chận bầy rệp đó thì mới có thể
ngủ được.
Ba người trở lại quán ăn và
ngồi vào bàn. Tân nhìn kỹ người bạn mới. Thảo là
một thanh niên dáng tầm thước, da ngâm đen, nét mặt
hiền lành dễ mến, cái nhìn có ẩn chứa nét buồn.
Tiếng nói của anh trong trẻo và rắn rỏi nhưng cái âm
sắc của giọng Nghệ an hơi khó nghe, phải chú ý mới
hiểu hết câu nói của anh. Nghe Bính giới thiệu anh vượt
biên vào Nam nên Tân bỗng nhớ tới anh Vinh và tò mò muốn
biết cuộc sống ngoài miền Bắc. Cậu hỏi:
- Anh Thảo, lúc anh bỏ trốn vào
đây, cuộc sống ngoài miền Bắc thế nào?
- Nghèo khổ và căng thẳng lắm.
Cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất chưa hoàn toàn
chấm dứt nên mọi người, nhất là những ai có học
thức đều nơm nớp lo sợ và đều muốn vào Nam để
sống đời tự do. Nhưng không mấy người dám đi và
thành công như chúng tôi.
- Có ai đi chung một chuyến với
anh không?
- Chúng tôi gồm tất cả bốn
anh em đều là học sinh miền Bắc. Chúng tôi vượt sông
Bến hải bằng đường rừng, bị một trung đội của sư
đoàn Một Bộ binh bên mình bắt gặp khi chúng tôi đang
nhắm hướng về đồng bằng. Lúc đầu người ta bắt
trói chúng tôi nhưng sau biết chúng tôi vừa trốn khỏi
vùng cộng sản thì từ sĩ quan đến lính đối xử với
chúng tôi thật tốt làm cho chúng tôi cảm động không
cầm được nước mắt. Sau đó, chúng tôi được đưa về
Huế, giao cho ty xã hội.
- Các anh có bị cơ quan an ninh
điều tra không?
- Có. Trọn hai ngày đầu, chúng
tôi bị đưa qua ty cảnh sát. Ở đó, chúng tôi phải khai
tỉ mỉ chỗ ở và việc học trong thời gian từ khi Việt
cộng tiếp thu miền Bắc theo hiệp định Genève đến khi
chúng tôi vượt biên. Tiếp theo là mô tả chuyến vượt
biên trên những con đường mòn xuyên qua rừng núi của
Lào và của Việt Nam.
- Thế là xong?
- Vâng, thế là xong. Nói là điều
tra chứ thực ra mấy anh cảnh sát hỏi chúng tôi với
giọng hết sức tình cảm, với cung cách hỏi thăm người
thân vừa mới tới sau một cuộc hành trình vô cùng gian
nguy.
- Tại sao anh không di cư ngay sau
hiệp định Genève?
- Vâng, vào Nam tìm tự do lúc đó
thì quá dễ dàng và an toàn vì được chính phủ lo liệu
và có quốc tế bảo đảm, nhưng bố mẹ tôi không chịu
đi. Ông bà không nỡ rời bỏ mồ mả tổ tiên và nơi
chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi đã lớn và bằng lòng
ở lại cùng bố mẹ. Chúng tôi nghĩ rằng cộng sản cũng
là người Việt Nam, đồng bào ruột thịt của mình.
Chúng tôi đâu có ngờ một khi đã nắm được quyền
hành rồi thì họ không coi mình là đồng bào ruột thịt
nữa. Sau cuộc đấu tố, chúng tôi bị tước mất quyền
sống ngay trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Họ
xem chúng tôi không bằng một con vật. Tôi không nói thái
quá đâu. Với con vật, người ta chỉ khinh khi chứ không
cố tình hành hạ một cách có hệ thống và có chủ
trương như họ đã đối xử với chúng tôi. Chúng tôi
chỉ mong một cuộc sống thực bình dị nhưng không được.
Rồi chúng tôi mong được sống như một con vật bị bỏ
quên, cũng không được nốt. Đã có người phải tự tử.
Riêng tôi không dám tự tử nên tìm cách bỏ trốn.
Tân nói chen lời:
- Trong hoàn cảnh đó, anh ra đi
là phải rồi.
- Lúc đó tôi không có một chút
thông tin nào về tình hình miền Nam. Tôi không hề biết
rằng trong nầy người ta vẫn sống trong yêu thương và
đùm bọc lẫn nhau. Bị cộng sản hành hạ nên tôi không
còn tin ở tình người ở bất cứ nơi nào trên hành tinh
nầy.
Bính ngắt lời:
- Điều đó cũng dễ hiểu. Anh
tình nguyện ở lại sống chung với cộng sản, nhưng qua
cuộc đấu tố, cộng sản đã thay thế tình người bằng
hận thù giai cấp, cả miền Bắc tràn lan nước mắt và
máu của những người bị cộng sản gán ép cho cái quá
khứ địa chủ ác ôn. Có lẽ vì vậy mà anh không còn
tin sự hiện hữu của tình người nữa.
Thảo gật đầu:
- Đúng vậy. Lúc đấy đảng và
nhà nước ngày đêm gây căm thù trong nhân dân, kích động
cho thú tính con người nổi lên để sẵn sàng giết chết
những người bị đưa ra làm vật hi sinh cho công cuộc
cải cách ruộng đất, những người mà trước đấy họ
không hề oán thù, có khi là người thân của họ nữa.
Trong khung cảnh tệ hại như thế về đạo đức thì làm
sao tôi còn có thể giữ được niềm tin nơi tình người?
Tuy nhiên, không thể nào ở lại được. Phải đi, nhất
định phải đi. Nhưng đi về hướng nào đây. Hướng
Đông thì biển cả mênh mông. Hướng Tây và hướng Bắc
là xứ lạ quê người, chắc chắn không tìm được chốn
dung thân. Ở miền Bắc nầy, mình không sống nổi với
đồng bào mình thì mong gì sống được với người nước
khác. Chỉ còn phương Nam. Tôi không mong ở đấy người
ta tha cho mình, nhưng cũng cố hy vọng được sống chui
nhủi cho hết kiếp.
Bính ngắt lời:
- Tôi không ngờ, chỉ có vài năm
cầm quyền mà những người cộng sản đã gây nên cho
người miền Bắc tâm trạng bi thương đến như thế.
- Vâng, tâm trạng đấy hết sức
não nề. Không có gì bi đát bằng một tâm hồn nhạy cảm
mà mất hết niềm tin ở tình người. Ngay cả lúc bị
lính sư đoàn Một Bộ binh bắt được trong rừng Quảng
trị và bị bắt trói ngồi trên bờ suối vì tưởng
chúng tôi là bộ đội xâm nhập vào Nam, thì tôi hối hận
đã vượt biên vào đây và nghĩ rằng mình sẽ bị đối
xử không khác gì ở miền Bắc. Nếu lúc đấy có thể
chết được thì tôi cũng chết ngay để chấm dứt cuộc
sống đầy đau khổ nầy.
Thảo ngưng nói, châm một điếu
thuốc nhả khói lên trần nhà. Tân biết người bạn mới
đáng thương của mình đang thả hồn về quá khứ. Thảo
bỗng mỉm cười và nói tiếp:
- Tôi không ngờ sau đó khi biết
chúng tôi là nạn nhân của cộng sản, miền Nam đã đón
tiếp chúng tôi thực sự như những người ruột thịt.
Tôi không thể diễn tả được nỗi xúc động trong lòng
chúng tôi lúc ấy.
Thảo vừa nói vừa chớp đôi
mắt rưng rưng. Anh kể tiếp:
- Lúc ở Huế, chúng tôi được
dẫn đi thăm nhiều nơi, sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên
mụ, chợ Đông ba và các nơi khác nữa. Đâu đâu, tôi
cũng chứng kiến cuộc sống thanh bình tự do, khác hẳn
ngoài Bắc. Về đến chỗ ở thì nhiều phái đoàn đến
thăm và tặng quà cho chúng tôi. Nói ra thực là xấu hổ.
Quen với nếp sống bần cùng ở miền Bắc nên thấy
người ta tặng những món quà quá sang trọng đối với
mình lúc đấy, chúng tôi không tin là sự thực. Những
món nầy chúng tôi cất giữ thật lâu chứ không dám
dùng. Cảm động nhất là những phái đoàn học sinh.
Chẳng có ai tổ chức cả. Nghe tin chúng tôi là học sinh
miền Bắc vượt biên vào Nam tìm tự do, học sinh và sinh
viên Huế rủ nhau đến thăm và tặng quà. Ban ngày được
các bạn miền Nam đến thăm hỏi ân cần, ban đêm có lúc
tôi nằm khóc rấm rứt vì nhớ các bạn tôi còn ở ngoài
Bắc nhất là nhớ con Hải Đường, em gái của tôi.
Câu nói sau cùng tắt trong nghẹn
ngào. Anh mím môi cố ghìm cơn xúc động. Một phút sau,
anh thở ra một hơi dài, giọng bình thản trở lại:
- Gian nan làm cho tâm hồn tôi gần
như chai sạn thế mà cứ mỗi lần nhắc tới con Hải
Đường tôi cứ muốn khóc cho vơi bớt nhớ thương.
Tân rất xúc động. Cậu nói với
bạn:
- Cuộc đời của anh buồn và
chịu đựng quá nhiều. Nếu có thể chia sẻ bớt nỗi
buồn cho anh thì tôi cũng sẵn sàng.
- Cám ơn anh. Chúng tôi bốn anh
em thoát được vào Nam là lấy lại được cuộc sống
đích thực của con người. Chỉ tội cho bạn bè tôi còn
ở lại ngoài đấy.
- Đoàn vượt biên của các anh
đến bốn người, ba người kia ra sao rồi?
- Được đưa về Huế ít lâu,
hai người xin vào Sài gòn để tìm bà con đã di cư từ
trước, tôi và một người khác ở lại Huế. Chúng tôi
nhận được trợ cấp của bộ xã hội và tặng phẩm
của các cơ quan từ thiện nên sự sống cũng thong thả,
chỉ còn lo chuyện học hành mà thôi.
- Trong thời gian ở Huế, anh học
trường nào?
- Tôi học Quốc học. Ty Xã hội
đánh văn thư giới thiệu tôi là học sinh miền Bắc vượt
biên nên nhà trường nhận ngay dù lúc đấy đang giữa
năm học.
- Anh theo học có khó khăn lắm
không? Chương trình hai miền có giống nhau không?
- Không giống nhau, nhưng tôi cũng
cố gắng theo học được, dù lúc đầu cũng khá gay go.
Trình độ học sinh trong nầy cao hơn ngoài Bắc nhiều.
Ngoài đó thiếu thầy cô một cách trầm trọng. Trong
những năm chiến tranh ác liệt của thời kháng Pháp, hầu
hết giáo sư trung học đều tập trung ở các thành phố
lớn và sau đấy bỏ miền Bắc di cư vào Nam tìm tự do.
Bính ngắt lời:
- Họ đi là phải. Nhà giáo là
trí thức, ở lại ngoài Bắc mà không biết cúi đầu
theo bọn cán bộ ngu dốt trong rừng ra thì làm sao sống
được.
Thảo tiếp lời:
- Anh Bính nói đúng. Trí thức mà
không chạy theo bợ đỡ họ thì họ bảo rằng giá trị
không bằng cục phân bón ruộng. Vì vậy nhiều giáo sư
còn ở lại cũng phải bỏ nghề, vì bị sa thải do lý
lịch, hoặc tìm cách sinh sống khác vì thấy xã hội
không tôn trọng họ như trước nữa. Người ta không tôn
trọng nhà giáo như trong Nam đâu. Giai cấp công nông mới
là giai cấp cao quý trong xã hội cộng sản. Hơn nữa, mới
chiếm được phân nửa đất nước rộng mênh mông, họ
lo việc thiết lập và củng cố chính quyền, lo siết
chặt an ninh, truy lùng những người trước đây có liên
can đến bộ máy cai trị của thực dân Pháp, lo chuyện
kiểm tra dân số để thiết lập hộ khẩu tức là đặt
cái gông lên cổ của dân chúng. Sau khi tạm ổn những
thứ đó rồi, họ quay sang xúc tiến công cuộc cải cách
ruộng đất, phát động đấu tố. Công việc tràn ngập
như thế thì còn thời gian và hơi sức đâu để lo việc
giáo dục nữa. Các trường học mở ra với mục đích
chính yếu, không phải để giáo dục mà để quản lý
bọn trẻ khỏi phải chạy rong ngoài đường.
Bính xen vào:
- Nhưng khi cần thì người ta sẽ
xua bọn trẻ ra khỏi trường học để chúng làm cách
mạng?
Thảo gật đầu:
- Dĩ nhiên là như thế. Con người
chỉ là công cụ của đảng mà thôi. Vào đây thấy trẻ
em được chăm sóc dạy dỗ, được xã hội ưu đãi, tôi
nghĩ mà thương cho trẻ em ở miền Bắc. Mình được vào
đây là điều vô cùng may mắn. Tôi cố gắng học hành
với hi vọng sau nầy trở về miền Bắc để dạy dỗ
trẻ thơ ngoài đó khi cộng sản không còn nữa. Lúc nào
tôi cũng nghĩ đến miền Bắc của tôi và càng nổ lực
học hành. Tôi nhất định phải lên được đại học.
Tuy phải chuyển đổi chương trình từ Bắc vào Nam nhưng
nhờ cố gắng thực nhiều, tôi qua được bậc trung học
không mấy khó khăn và bước vào đại học đúng với
nguyện vọng của mình.
Tân hỏi:
- Tại sao anh vào Sài gòn? Ở Huế
cũng có đại học mà.
Bính trả lời thay:
- Sài gòn vừa là thủ đô, vừa
là trung tâm văn hóa của cả miền Nam. Vì vậy, ai có cao
vọng cũng đều bị cuốn hút về đây.
Thảo gật đầu:
- Lúc còn ở Huế, tôi cũng như
nhiều người khác đếu mơ ước vào Sài gòn. Tôi may mắn
được ông thầy dạy triết học ở lớp đệ nhất
chuyển về Sài gòn dạy đại học Văn khoa thu xếp cho
tôi đi theo, vào đây lại giúp đỡ tận tình, lo chỗ ăn,
chỗ ở, kiếm chỗ cho tôi dạy thêm để sống. Tôi ghi
tên vào học trường của thầy tôi và đậu chứng chỉ
dự bị ngay năm đầu tiên.
Tân thắc mắc:
- Sao anh không tiếp tục học mà
lại tình nguyện vào lính?
- Đối với tôi, cuộc đời
riêng tư chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tôi chỉ mong có ngày
trở về quê hương miền Bắc của tôi, gặp lại em gái
tôi. Bây giờ thì cộng sản thành lập Mặt trận Giải
phóng, dùng sức mạnh quân sự để chiếm luôn cả miền
Nam, mình đâu thể ngồi đấy học hành để mong trở về
miền Bắc được. Hơn nữa….
Thảo bỗng dừng lại, cúi nhìn
xuống mặt bàn một cách đờ đẫn. Tân và Bính im lặng
chờ đợi một lát sau mới nghe Thảo nói tiếp:
- Liên tiếp trong nhiều đêm, tôi
chiêm bao thấy con Hải Đường. Trong lòng tôi, cồn cào
nỗi ước mong đứng trong hàng ngũ của đoàn quân tiến
ra miền Bắc. Muốn thế thì trước hết phải giữ cho
được miền Nam không để lọt vào tay cộng sản.
Thảo lại im lặng một lúc rồi
thở dài:
- Ở miền Bắc, cộng sản hành
hạ dân mình như thế, nhưng khi vào Nam tôi lại gặp
nhiều người còn ưa thích cộng sản lắm.
Bính góp ý kiến để giải
thích:
- Bởi vì cộng sản bưng bít kỹ
quá, không để tin tức ngoài đó lọt vào được trong
nầy. Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể phát triển nhờ
sự bưng bít để dối gạt nhân dân. Ở miền Nam, cộng
sản còn tiếp tục hoạt động, còn thành lập được
mặt trận, chính là vì người dân chưa hiểu rõ được
những gì đang xảy ra ở miền Bắc.
Câu chuyện của ba anh em chấm
dứt tại đó. Họ ra khỏi câu lạc bộ và thong thả dạo
chơi trên những con đường. Trong trại bây giờ đã có
nhiều người, tiếng cười nói ồn ào khắp nơi.
Hai ngày kế tiếp, xe chở mọi
người đi khám sức khoẻ tại tổng y viện Cộng hòa rồi
chuyển thẳng vào Liên trường Võ khoa Thủ đức. Ba anh
em được xếp chung vào một trung đội và ở cùng phòng.