Một cuộc chiến tranh dài
Tập II
Chương 7: Chiến trường rừng núi
(1)
Chiếc máy bay hai chong
chóng lướt nhanh trên phi đạo rồi cất cánh lên không
trung. Nó lượn một vòng, thẳng đường về hướng Bắc
và gần hai giờ sau, đáp xuống phi trường Qui nhơn. Đó
là một phi trường nhỏ, phi đạo được lát tạm với
những tấm vĩ sắt ghép vào nhau. Chúng rung và gào thét
lên một cách dễ sợ khi bánh máy bay chạm vào và lăn
dài lên đó. Cuối cùng, phi cơ chạy vào sân đậu và
dừng lại.
Mười bốn sĩ quan ra khỏi phi
cơ, bước lên một xe Dodge đang đậu kế đó để về bộ
tư lệnh sư đoàn. Doanh trại của bộ tư lệnh là một
khu đất rộng, kế bên quốc lộ, gồm nhiều dãy nhà
thâm thấp trên nền đất cát trắng xóa. Không khí nóng
hừng hực dưới cái nắng thiêu đốt của mặt trời mùa
hạ.
Xe dừng lại trước cửa phòng
Một của bộ tư lệnh. Các chuẩn úy bước vào, chào đại
úy trưởng phòng một cách nghiêm trang rồi trình giấy tờ
bổ nhiệm. Viên đại úy ngồi sau một chiếc bàn to, chăm
chỉ đọc các tờ giấy rồi ngước lên, giọng nghiêm
nghị:
- Xin chào mừng tất cả các sĩ
quan vể bổ sung cho sư đoàn Chín. Rất tiếc hôm nay,
thiếu tướng tư lệnh và đại tá tham mưu trưởng đều
bận đi họp ở quân đoàn. Mấy anh em về ở tạm tại
phòng vãng lai. Phòng nầy không sang trọng bằng khách sạn
đâu nhưng có đủ tiện nghi tối thiểu. Ăn uống thì anh
em ra ngoài, bên kia đường có nhiều quán ăn và quán giải
khát. Có thể xuống thành phố Qui nhơn chơi nhưng nhớ
đừng ngủ đêm dưới đó, không ai bảo đảm an ninh cho
mình. Thôi, mấy anh em theo trung sĩ Đông về nhận chỗ ở
đi. Khi nào đại tá về, tôi sẽ đến báo anh em lên
trình diện.
Tất cả chào và ra khỏi phòng,
theo trung sĩ Đông về nhà vãng lai. Nhận xong chỗ ngủ,
mọi người đi ra ngoài ăn cơm. Đúng như lời nói của
đại úy trưởng phòng nhân viên, đối diện với cổng
bộ tư lệnh là một dãy nhà dân lụp xụp phần nhiều
là quán tạp hóa hay quán ăn uống. Hầu hết khách là
lính của sư đoàn.
Nhóm sĩ quan chia làm nhiều tốp
nhỏ. Tân và Bính đi riêng hai người. Cơm nước xong, đôi
bạn trở về phòng, ngủ một giấc ngon lành vì mệt nhọc
sau một cuộc hành trình dài.
Khi thức dậy, hai anh em rủ nhau
về Qui nhơn. Thành phố không lớn lắm nhưng buôn bán sầm
uất. Đường phố có rất nhiều quân nhân. Hai người đi
bộ ra bờ vịnh, ngồi trên ghế đá dưới bóng cây, ngắm
ghe thuyền qua lại trên mặt nước lấp lánh phản chiếu
ánh mặt trời.
Bính nhìn ra xa, nói với bạn:
- Khung cảnh miền Trung khác trong
Nam là đi đâu cũng gặp núi non của dãy Trường sơn.
Tân gật đầu:
- Về đến đây, anh chợt nhớ
quay quắt làng quê của anh. Anh đã xa cách nó mười lăm
năm rồi, lúc mới lên mười tuổi. Từ đó đến nay,
chắc chắn có biết bao đổi thay ở làng quê nhỏ bé đó.
Không biết hai ngôi mộ của cha mẹ anh có còn hay đã bị
san phẳng vì không được ai săn sóc.
- Trong những năm hòa bình sau
hiệp định Genève, sao anh không về thăm làng để tìm
lại mồ mả của hai bác?
- Anh thường xót xa về điều
đó. Sau khi hiệp định được ký kết, anh từ chiến khu
Đồng tháp trở ra và lập tức lao vào cuộc tranh đấu
chính trị do Việt cộng khởi xướng. Sau đó đi tù. Ra
tù lo kiếm sống để đi học. Học xong vào quân trường,
còn chút thì giờ rỗi rảnh nào nữa đâu. Tội nghiệp,
có lẽ mười mấy năm nay, linh hồn của cha mẹ anh vẫn
mong hai đứa con trai của mình về thăm lại hai nấm mồ,
hai chỗ ở cuối cùng và vĩnh cửu của ông bà.
Bính ngạc nhiên:
- Hai đứa con trai? Anh và ai nữa?
Tân cười:
- Phải, hai anh em. Từ trước tới
nay, anh chưa bao giờ cho em biết anh ruột của anh, anh
Vinh, đang sống ở ngoài miền Bắc.
Bính càng ngạc nhiên hơn:
- Tại sao anh ấy ra ngoài đó?
Anh ấy lớn chưa?
- Chỉ hơn anh bốn tuổi. Anh ấy
đi tập kết, sau khi được trao trả tù chiến tranh theo
một điều khoản của hiệp định Genève. Trước đó,
anh Vinh là một cán bộ Việt cộng hoạt động nội
thành, bị bắt năm 1953 và bị đày ra Côn đảo.
- Có lẽ, bây giờ anh ấy đang
làm lớn ở ngoài miền Bắc.
- Anh cũng nghĩ như thế.
- Nhưng tại sao lúc đó anh không
cùng đi tập kết với anh Vinh?
- Anh đâu có gặp anh Vinh. Anh ấy
được trao trả tù binh và từ Côn đảo được đưa
thẳng ra Bắc. Còn anh thì đâu có được đi. Anh được
cài lại để hoạt động trong miền Nam. Chỉ có những
cán bộ bị lộ diện mới phải tập kết mà thôi.
- Anh có tiếc là không được đi
tập kết hay không?
- Không. Lúc đầu thì anh được
giải thích rằng ở lại để chiến đấu trong lòng địch,
để hoàn thành sự nghiệp cách mạng mới thực là vinh
quang. Lúc đó anh còn nhỏ quá, nghe người ta đề cao như
thế thì mê tít ngay.
- Còn bây giờ?
- Bây giờ, anh mừng được ở
lại miền Nam. Em không nhớ những câu chuyện anh Thảo kể
nỗi khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc do cộng sản
gây ra hay sao? Ra ngoài đó mà chứng kiến tận mắt cảnh
đó thì có lẽ anh cũng phải vượt biên trở vào Nam như
anh Thảo vậy.
- Còn anh Vinh? Anh có nghĩ rằng
anh Vinh cũng đau khổ và cũng muốn trở vào miền Nam hay
không?
Tân im lặng một chút rồi lắc
đầu, nét mặt buồn bã:
- Không đâu. Ý chí cách mạng
của anh Vinh ghê gớm hơn anh nhiều. Anh biết anh Vinh còn
nặng lòng căm thù. Cha anh bị Tây bắn chết năm 1947 và
sau đó mẹ anh buồn rầu cũng chết theo. Anh Vinh không bao
giờ quên mối thù đó. Anh nghĩ rằng, anh Vinh sẽ theo
cộng sản đến suốt đời.
- Còn anh, anh không căm thù à?
- Cũng có nhưng không sâu bằng
anh Vinh đâu. Lúc tai họa giáng xuống gia đình anh thì anh
còn quá nhỏ nên nỗi đau đớn lấn át lòng căm thù.
- Bây giờ em mới hiểu.
Tân ngạc nhiên:
- Em hiểu gì?
Bính giải thích:
- Lúc còn học ở quân trường,
em để ý thấy anh không có tâm lý thoải mái và cởi mở
như em và anh Thảo. Đôi khi, anh tỏ ra băn khoăn và bứt
rứt. Có phải anh cảm thấy đau đớn vì phải cầm súng
đứng trong hàng ngũ của kẻ thù đã giết chết cha mẹ
anh không?
- Bứt rứt thì có nhưng không
phải vì lý do đó. Kẻ thù trực tiếp và gián tiếp giết
cha mẹ anh là thực dân Pháp. Trong suốt bao nhiêu năm
trời, anh đã góp công vào cuộc kháng chiến đánh đuổi
thực dân Pháp. Anh coi như mình đã trả xong mối thù rồi.
Còn bây giờ đây là cuộc chiến khác, cuộc chiến huynh
đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc, hay đúng hơn là
cuộc chiến mà miền Nam bắt buộc tham gia vì không muốn
sống dưới chế độ cộng sản như miền Bắc. Anh đứng
trong hàng ngũ những người chiến đấu để tự vệ,
trong đó có em và anh Thảo; những đồng đội đó của
anh sao gọi là kẻ thù được?
Bính cảm động:
- Cám ơn anh. Được chiến đấu
với những đồng đội như em và anh Thảo là điều chính
đáng, tại sao anh vẫn cứ bứt rứt khi nhập ngũ và lúc
thụ huấn trong quân trường?
Tân thở dài:
- Kể từ khi ở tù ra, khi nghe ai
bàn đến chính trị, đến chế độ nầy, chế độ kia
thì anh cảm thấy vô cùng ngao ngán. Tinh thần anh hoàn
toàn rã rời sau những năm đi làm cách mạng. Sống với
cộng sản hay chống lại cộng sản? Anh chẳng tha thiết
gì đối với sự chọn lựa. Anh tuân lệnh nhập ngũ với
tâm trạng gần giống như em là không muốn đứng ngoài
cái số phận của dân tộc mình. Chiến tranh là điều
tồi tệ nhất. Dân tộc mình đang phải gánh chịu điều
tồi tệ đó thì mình cũng phải đưa lưng ra nhận lãnh
như bao người khác. Có người muốn giúp anh thoát được
lệnh nhập ngũ nhưng anh đã từ chối. Vì vậy anh đã
gặp em và anh Thảo trong quân trường.
Tân dừng lại, móc thuốc ra hút
rồi nói tiếp:
- Cái điều làm cho anh xốn xang
bứt rứt là anh nghe nói cộng sản đã đưa một số
ngưòi tập kết trở về chiến đấu ở miền Nam. Những
người nầy đã từng hoạt động ở miền Nam, đưa họ
về thì rất có lợi cho công việc mà họ gọi là “giải
phóng”. Anh Vinh của anh cũng là cán bộ miền Nam tập
kết ra Bắc nên có thể được cộng sản cho hồi kết.
Nếu đúng như thế, anh lo sợ anh em chạm mặt nhau ngoài
chiến trường.
Bính quay sang nắm tay bạn:
- Anh Tân, bây giờ em mới thực
sự hiểu anh. Tội nghiệp anh. Phải chi anh được đi học
truyền tin để khỏi phải cầm súng ra chiến trường.
- Anh có hai lá thư giới thiệu
gởi cho ông tướng và ông tá của bộ tư lệnh sư đoàn
xin cho anh ở lại làm việc tại văn phòng để khỏi phải
ra chiến đấu ở mặt trận.
- Thế thì hay quá. Hôm nào trình
diện bộ tư lệnh, anh đưa hai lá thư đó thì có thể
được giữ lại làm việc tại văn phòng, không phải cầm
súng ra chiến trường. Anh có mang theo bằng tốt nghiệp
đại học sư phạm không? Anh nên cho vào hồ sơ luôn để
người ta mạnh dạn sử dụng anh trong việc soạn thảo
văn thư.
Tân làm thinh không trả lời. Cậu
dõi mắt nhìn về những chiếc tàu nhỏ đang thoát ra cửa
vịnh để vào lòng đại dương bao la. Mặt trời đã lặn
xuống dưới những chỏm núi của dãy Trường sơn. Bính
khẽ bảo:
- Thôi mình về. Đêm nay là đêm
đầu tiên, em nằm ở đất miền Trung. Có lẽ em sẽ mất
ngủ vì nhớ nhà. Anh đã cảm thấy nhớ nhà chưa?
Tân cười buồn:
- Anh làm gì có nhà để mà nhớ.
Bính cười theo:
- Ừ nhỉ. Tội nghiệp anh.
*
* *
Ba hôm sau, lúc mọi người đã
vào giường, trung sĩ Đông đến gọi to:
- Các chuẩn úy mới về trình
diện, xin nghe đây. Sáng mai, tám giờ, tập họp tại hội
trường để gặp đại tá tham mưu trưởng.
Mọi người nhốn nháo, bàn tán
xôn xao đến hơn một giờ sau mới thôi.
Sáng hôm sau, anh em ăn mặc chỉnh
tề và kéo lên hội trường. Đó là một gian phòng rộng,
trang hoàng khá đẹp. Giữa phòng trống trơn vì bàn ghế
được xếp gọn vào cuối phòng. Các tân sĩ quan đang
đứng quan sát thì đại tá bước vào, phía sau là đại
úy trưởng phòng nhân viên cầm theo sổ sách. Một tiếng
hô nghiêm dõng dạc, các sĩ quan đứng thẳng người, đưa
tay chào. Đại tá chào đáp lễ rồi tươi cười:
- Sư đoàn Chín Bộ binh hân hạnh
đón tiếp các chuẩn úy về đây bổ sung đội ngũ sĩ
quan. Tôi là tham mưu trưởng, thay mặt bộ tư lệnh đến
đây, trước hết chào mừng rồi sau đó phân công cho các
anh em. Tôi muốn anh em sẽ được phân công theo đúng
nguyện vọng của mình. Hiện nay, các trung đoàn của sư
đoàn đang thiếu nhiều sĩ quan trung đội trưởng và bộ
tư lệnh thì cần vài sĩ quan giúp việc cho các phòng. Vì
vậy anh em nào muốn về trung đoàn thì được thỏa mãn
ngay còn anh em nào muốn ở lại làm việc văn phòng thì
cũng cứ thẳng thắng trình bày, chúng tôi sẽ căn cứ
vào hồ sơ và khả năng để xét sau. Bây giờ, bắt đầu
đi.
Một chuẩn úy bước ra, đứng
nghiêm và nói lớn:
- Chuẩn úy Đặng văn Thi trình
diện đại tá.
- Được, chuẩn úy trình bày
nguyện vọng đi.
- Thưa đại tá, tôi xin về trung
đoàn.
Đại tá tươi cười quay sang đại
úy trưởng phòng:
- Tốt lắm. Cho về trung đoàn
Mười ba. Người khác.
- Chuẩn úy Huỳnh Hà, xin về
trung đoàn.
- Được, trung đoàn Mười bốn.
Bính bước ra. Tân hồi hộp theo
dõi. Giọng Bính dõng dạc:
- Chuẩn úy Nguyễn văn Bính, xin
về trung đoàn
- Được, trung đoàn Mười lăm.
Tân cảm thấy mạch máu trong đầu
mình giựt bong bong. “Bính trung đoàn Mười lăm, Bính
trung đoàn Mười lăm!” Hình như tiếng réo nổi lên
không dứt trong đầu cậu. Cậu bước ra khỏi hàng, nói
to:
- Tôi là chuẩn úy Phạm bá Tân
xin về trung đoàn Mười lăm với chuẩn úy Bính.
Đại tá cười:
- Ra chiến trường cho có anh có
em phải không? Được, chấp thuận, trung đoàn Mười lăm.
Tân thở ra nhẹ nhõm, bước lui
để nhường chỗ cho người khác.
Mười phút sau, buổi trình diện
và phân công chấm dứt. Trong số mười bốn tân sĩ quan,
có mười hai người tình nguyện ra trung đoàn. Chỉ có
hai người xin ở lại bộ tư lệnh sư đoàn. Đại tá
tham mưu trưởng bước ra khỏi phòng với nụ cười hài
lòng. Bính kéo vội Tân ra sân và nói:
- Anh Tân, tại sao anh không xin ở
lại bộ tư lệnh? Anh có bằng tốt nghiệp đại học lại
thêm thơ giới thiệu nữa thì rất có thể được nhận
vào làm ở văn phòng. Tại sao anh lại xin ra trung đoàn?
- Thế tại sao em cũng xin đi
trung đoàn? Có phải em muốn tham gia thân phận bi đát của
con người trong chiến tranh hay không? Anh cũng hành động
như em vậy.
Bính siết chặt tay bạn:
- Em hỏi thế thôi chứ khi nghe
anh xin theo em về trung đoàn Mười lăm, em vừa ngạc nhiên
vừa cảm động lắm. Nếu khi nãy anh xin ở lại bộ tư
lệnh và được chấp thuận thì em sẽ mừng cho anh nhưng
em sẽ rất buồn vì ra chiến trường mà không có anh.
Tân cười thật tươi:
- Bây giờ thì vui rồi nhé. Anh
đi lấy những lá thư giới thiệu để hủy đi. Anh ghi
nhận lòng tốt của những người đã lo lắng cho anh
nhưng anh không muốn hưởng lợi từ những tấm lòng đó.
Hơn nữa, anh không muốn xa em. Về trung đoàn Mười lăm,
chúng mình cố xin cho được về chung một tiểu đoàn rồi
chung một đại đội. Nhưng trung đoàn Mười lăm ở đâu
nhỉ?
- Vào phòng nhân viên lấy giấy
bổ nhiệm là biết ngay. Thôi anh em mình đi.
Mọi người kéo đến phòng nhân
viên. Đại úy trưởng phòng tươi cười:
- Mấy anh em ở chơi ngày hôm nay
nữa, sáng mai lên đường.
Tân hỏi:
- Trung đoàn Mười lăm đóng tại
đâu?
- Bộ chỉ huy đóng tại thung
lũng Cung sơn, cách Tuy hòa khoảng ba mươi cây số trên
đường lên cao nguyên.
- Chúng tôi đi bằng cách nào?
Đại úy cười:
- Sư đoàn lo. Kể từ lúc các
anh về trình diện, chúng tôi chịu trách nhiệm về sinh
mạng của các anh nên chúng tôi buộc phải cung cấp mọi
phương tiện di chuyển an toàn cho các anh. Từ đây vào
Tuy hoà hơn một trăm cây số nhưng đường an ninh lắm.
Trên trời có trực thăng bay rà theo quốc lộ, bên dưới
có thiết giáp thường xuyên đi tuần. Nhưng từ Tuy hòa
đến Cung sơn, chỉ có mấy chục cấy số thôi mà nguy
hiểm lắm. Đường đèo thực hiểm trở. Nhiều đoạn,
xe phải men theo sườn núi, một bên là vách đá một bên
là vực sâu. Việt Cộng chẳng cần có vũ khí tối tân,
chỉ cần ở trên đỉnh núi lăn gỗ đá xuống là đủ
tiêu diệt chúng ta rồi. Vì vậy, đến Tuy hòa các anh
phải nằm đợi. Vài ba ngày tiểu khu mới mở đường
một lần. Phải mở đường xong xuôi mới có thể đi
được.
Bính nhìn đại úy với vẻ ngây
thơ:
- Phải mở đường mới đi được
à?
Đại úy cười to:
- Đúng là lính mới. Tôi nói
rồi, đường xuyên qua núi hết sức hiểm trở, chỗ nào
Việt cộng cũng có thể đặt ổ phục kích chứ đâu
phải là những con đường láng ô và đẹp đẽ như các
con đường của thành phố Sài gòn đâu. Mở đường là
hành quân dọc theo con đường bằng cách kết hợp bộ
binh với thiết giáp để dẹp bỏ các ổ phục kích của
Việt cộng đi. Có khi còn phải đưa công binh đến rà
mìn nữa. Thôi các anh về Quy nhơn dạo phố một bữa nữa
đi. Chiều nhớ về sớm đến đây lãnh giấy tờ để
ngày mai lên đường.
Mười mấy anh em không đi dạo
phố mà rủ nhau ra quán, cùng ăn uống với nhau bữa cuối
cùng. Ngày mai họ sẽ phân thành từng nhóm nhỏ, mỗi
nhóm về một trung đoàn. Trung đoàn Mười lăm sẽ nhận
Tân, Bính và hai sĩ quan khác.
Sáng hôm sau, khi nắng vừa lên
là anh em khởi hành. Chiếc xe Dodge 4 băng băng trên quốc
lộ vừa mới được sửa chữa xong. Hai bên đường, cây
cối um tùm, cảnh vật nhiều nơi thật hoang vu. Rải rác
có những nhóm nhà khá đông đúc chen chúc nhau trong ấp
chiến lược, bao quanh bằng một bờ đất chạy dài theo
con hào khá sâu; trên đỉnh bờ đất là một hàng rào
khá cao bằng cây rừng và những thanh tre vót nhọn.
Xe đến Tuy hòa vào buổi trưa và
dừng lại trong sân của tiểu khu. Ở đây, người ta cho
biết sáng mai có chuyến mở đường lên cao nguyên. Tiểu
khu có phòng vãng lai để nghỉ ngơi nhưng bốn anh em rủ
nhau ra phố dạo chơi và tìm nhà trọ ngủ qua đêm để
được hưởng khung cảnh thị tứ một đêm cuối cùng
trước khi dấn thân vào chốn núi rừng âm u.
Bốn người ra phố, thong thả đi
dạo trên vài ba con đường là hết cái thành phố nhỏ
bé của dải đất miền trung nầy. Họ men theo con đường
ra khỏi thành phố để đến bờ biển. Họ đứng trên
vệ đường nhìn bãi cát trắng phau chạy dài và biến
mất sau hàng phi lao. Mặt biển rộng mênh mông, chân trời
vạch một đường thẳng tắp liên tục chia đôi mặt đại
dương sáng bạc với bầu trời xanh thăm thẳm.
Gió chiều từ biển cả thổi
vào mang theo từng con sóng nhỏ vỗ vào bờ, cố sức
trườn được một đoạn trên bờ cát rồi tan ra thành
một dãy bọt trắng xoá.
Khi hoàng hôn xuống, anh em trở
về thành phố, tìm khách sạn để nghỉ ngơi. Sáng hôm
sau, họ trở vào tiểu khu. Phía trước đường, một đoàn
xe gồm mươi chiếc đã nổ máy, chuẩn bị khởi hành.
Sau một hồi còi hiệu lệnh,
đoàn xe lên đường. Có hai xe bọc thép hộ tống, một
đi đầu và một đi cuối. Đoàn gồm một số xe quân sự
đi tiếp tế cho các tiền đồn dọc theo con đường dẫn
đến Hậu bổn và Ban mê thuột, cùng một số xe dân sự
chở người và hàng hoá.
Quả thực, con đường thực hiểm
trở, đúng như lời mô tả của đại úy trưởng phòng
nhân viên của bộ tư lệnh sư đoàn. Đuờng đá gồ ghề,
với vô số lỗ cạn lỗ sâu, lỗ to, lỗ nhỏ kế tiếp
nhau. Đoàn xe lắc lư nhọc mệt bò lên những con dốc
cao, cẩn thận men theo bờ vực thẳm. Sát bên đường,
con mương của đập Đồng cam, chạy dài không dứt như
lúc nào cũng kiên nhẫn bám theo đoàn. Trong lòng mương,
dòng nước trong veo, mát lạnh, ngày đêm dẫn nước về
xuôi tưới cho cánh đồng lúa Tuy hòa.
Sau ba giờ lắc lư trên con đường
xuyên qua vùng rừng núi mà mỗi bụi cây, mỗi hốc đá
đều có thể là nơi ẩn núp của kẻ thù, đoàn xe đến
Cung sơn an toàn. Không khí nóng bức ngột ngạt vì đây
là một thung lũng nằm giữa những dãy núi cao ngất
nghểu.
Bốn anh em nhảy xuống xe và nhìn
quanh. Vài mươi gian nhà lá đơn sơ, hầu hết là nhà sàn
của người thiểu số. Ở đầu xóm có một dãy nhà cũng
lợp lá nhưng khá dài, dựng ngay trên nền đất nên trông
vững chắc không như những nhà sàn lêu nghêu trên những
cột cây rừng khẳng khiu. Đó chính là doanh trại của bộ
chỉ huy trung đoàn Mười lăm Bộ binh.
Từ trong dãy nhà, một ông thượng
sĩ bước vội đến. Ông ta nói với bốn anh em:
- Chào các chuẩn úy. Hôm qua
chúng tôi nhận được điện của sư đoàn cho biết hôm
nay có bốn chuẩn úy về bổ sung cho trung đoàn. Trong bộ
chỉ huy ai cũng mừng, nhất là trung tá chỉ huy trưởng.
Trung tá đang đợi các chuẩn úy trong văn phòng ở đầu
dãy nhà, chỗ có cái cửa lớn. Các chuẩn úy vào trình
diện trung tá đi. Đồ đạc cứ để đây, tôi cho lính
mang vào chỗ nghỉ.
Bốn anh em bước vào văn phòng
của bộ chỉ huy trung đoàn. Gian phòng hẹp, đồ đạc
đơn sơ. Giữa phòng là một chiếc bàn khá to, kế cận
một tủ sắt màu xám. Vách nhà làm bằng những thanh nứa
chẻ nhỏ và đan khít vào nhau.
Phòng vắng lặng, chỉ có một
người đàn ông nằm thoải mái trên một chiếc ghế xếp.
Ông ta ở trần, phơi ra ngoài bộ ngực đẩy đà và chiếc
bụng no tròn, với cái rốn lõm sâu ngay bên trên chiếc
quần đùi màu xám. Miệng ông ta phì phèo một ống vố,
nhả ra từng đám khói trắng. Ông thản nhiên nằm hút
thuốc trong khi bốn sĩ quan bước vào, ngơ ngác vì chẳng
thấy ông trung tá nào ở đây.
Người đàn ông im lặng nhìn các
sĩ quan một chút rồi thong thả lấy tẩu thuốc ra khỏi
miệng, mỉm cười:
- Các chuẩn úy muốn tìm ông
trung tá chỉ huy trưởng trung đoàn để trình diện phải
không? Lão già đáng ghét đó chính là tôi đây.
Nói xong, ông ta cười vui vẻ.
Cả bốn anh em giật mình, vội
vã quay lại đứng nghiêm. Một anh đưa tay chào. Ba anh còn
lại vẫn đứng trố mắt nhìn. Họ không biết, nếu chào
cái ông bụng phệ nằm phơi rốn nầy thì có đúng với
quân kỷ mà họ đã học trong quân trường hay không?
Ông trung tá bụng phệ nhỏm dậy
xua tay:
- Khỏi chào. Ở đây nên dẹp bỏ
cái trò lẩm cẩm đó đi. Ra tới tiền cứ nầy thì cốt
yếu là đánh đấm. Đánh cho hăng, cho thắng là đủ, cái
gì khác không cần.
Trung tá đứng dậy ngồi vào
chiếc ghế sau cái bàn to, tiếp tục cười và nói một
cách vui vẻ:
- Mấy chú chịu khó đứng để
nói chuyện. Ở đây không được như phòng tiếp khách
của tổng thống ở thủ đô Sài gòn nên chẳng có cái
ghế nào dành cho khách. À tôi hỏi thực điều nầy nghe.
Mấy anh em chẳng có bà con nào làm lớn trong quân đội
hay chính quyền nên mới trôi dạt về đây phải không?
Hỏi xong ông ta khoái chí, không
đợi câu trả lời, cười ha hả. Cả bốn người đứng
yên, ngẩn người ngạc nhiên. Ở quân trường họ chỉ
gặp những sĩ quan luôn luôn nghiêm nghị, ăn nói chững
chàng. Thế mà đây là một ông sĩ quan cao cấp, lại là
chỉ huy trưởng của một đơn vị lớn của quân đội…
Ông trung tá chỉ ngay Bính và
hỏi:
- Chuẩn úy, cho tôi biết tại
sao chú về chốn khỉ ho cò gáy nầy?
Bính đứng thẳng người, trả
lời một cách nghiêm nghị:
- Thưa trung tá, tôi tuân lệnh bổ
nhiệm của thượng cấp trong quân đội.
- Thế thì, khi bị đưa về đây,
chuẩn úy có bất mãn hay ít nhất buồn bực trong lòng
không?
- Không, tôi chẳng bất mãn hay
buồn bực gì cả. Tôi đã vào quân đội thì cấp trên
có quyền sử dụng theo nhu cầu của quân đội. Vả lại,
nếu tôi bất mãn và tìm cách tránh né nơi đây thì
người khác cũng có thể làm như tôi, lấy ai đến đây
để phục vụ cho chiến trường nữa.
Trung tá bật đứng dậy, bước
ra vỗ mạnh vào vai Bính:
- Tốt, tốt. Thế mới xứng đáng
là sĩ quan của quân đội Cộng hòa. Tôi hỏi mấy anh em
như thế vì tôi không muốn dùng cái loại sĩ quan về đây
với tâm trạng bất mãn. Giao cho họ chỉ huy đơn vị thì
nguy cơ thất trận rất lớn lại nguy cho sinh mạng của
bao nhiêu người. Nếu bất mãn, thà tôi trả về cho sư
đoàn hoặc tổng tham mưu rồi lấy hạ sĩ quan lên thay
thế còn hơn giữ họ lại đây. Chuẩn úy nầy nói rồi
còn ba anh em kia, cứ nói thực đi, ai không bằng lòng
chiến trường nầy thì tôi làm giấy trả về ngay.
Cả ba người cùng xin ở lại
nhận nhiệm vụ của trung đoàn. Trung tá cười vui vẻ:
- Tốt lắm. Bây giờ tôi phân
các chú về các tiểu đoàn.
Ông bước ra cửa, nói to:
- Gọi thiếu úy Ánh lên đây,
mang theo hồ sơ của các chuẩn úy mới về mà sư đoàn
đã gởi theo xe.
Một thiếu úy bước vào, tay cầm
một xấp giấy tờ đặt lên bàn, tính lui ra thì trung tá
giữ lại:
- Thiếu úy ở lại nghe tôi phân
công cho các chuẩn úy rồi về làm lệnh bổ nhiệm ngay.
Từ ngày mai có chuyến liên lạc nào thì gởi các chuẩn
úy đi luôn.
Ông quay lại nói với các chuẩn
úy:
- Trung đoàn có ba tiểu đoàn.
Tiểu đoàn một và hai đang chuẩn bị hành quân với
trung đoàn. Tiểu đoàn ba được biệt phái cho bộ tư
lệnh sư đoàn giữ phi trường Kannack ở gần An khê. Tôi
muốn các chuẩn úy được chia về cả ba tiểu đoàn.
Bỗng Bính lên tiếng:
- Thưa trung tá, tôi xin nói.
Trung tá quay lại, thoáng ngạc
n﹨iên:
- Được, chuẩn úy cứ nói.
- Xin trung tá bổ nhiệm tôi và
chuẩn úy Tân về cùng tiểu đoàn.
Trung tá suy nghĩ vài giây rồi
trả lời:
- Được, tôi chấp nhận. Cho hai
chuẩn úy về tiểu đoàn Ba. Hai chuẩn úy kia về tiểu
đoàn Một và Hai. Bằng lòng rồi chứ?
- Cám ơn trung tá. Thế là chúng
tôi phải trở lại bộ tư lệnh trung đoàn ở Qui nhơn?
- Đúng vậy. Sáng mai đoàn xe sẽ
trở lại Tuy hòa. Sau đó các chú sẽ trở về Qui nhơn và
được đưa đến tiểu đoàn Ba tại Kannack. Hai chú về
tiểu đoàn Ba thì cho tôi gởi lời về thăm tất cả sĩ
quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của tiểu đoàn. Nhắn với
tiểu đoàn trưởng là tôi đã xin sư đoàn trả tiểu
đoàn trở về cho trung đoàn. Thiếu tướng tư lệnh đã
chấp thuận rồi nhưng phải đợi có đơn vị đến thay
thế.
Ông chỉ tay ra bên ngoài và nói
tiếp:
- Thôi bây giờ, các chú về chỗ
nghỉ ngơi là cái nhà sàn trước mặt đây. Các chú có
thể đi chơi vòng quanh cho biết cái thung lũng đèo heo hút
gió nầy. Nếu không có chiến tranh thì không bao giờ các
chú đến đây. Bốn bề đều có núi non và suối mát. Cứ
cởi hết quần áo nhảy xuống suối mà tắm, vắng vẻ
lắm, chỉ có đàn khỉ trên những nhánh cây cao nhìn
xuống và tưởng mình là đồng loại của chúng. Nhớ
đừng đi xa vào trong rừng có thể dẫm phải mìn. Trên
một số các đỉnh dồi chung quanh, có các tiểu đội làm
tiền đồn, đến gần mà không biết mật khẩu là họ
nổ súng chết oan mạng.
Đêm trong thung lũng hoàn toàn
vắng lặng nên hai anh em ngủ thực ngon giấc.
Hôm sau, Tân và Bính trở lại
Tuy hòa rồi thẳng đường về Qui nhơn. Hai anh em trở lại
nhà vãng lai của sư đoàn, cảm thấy buồn. Mấy hôm
trước đây, trong phòng nầy có đến mười bốn người
với tiếng cười đùa rộn rã, nay chỉ có hai người trở
lại trong gian nhà rộng thênh thang và vắng vẻ.
Hai ngày sau, hai cậu lên đường,
theo xe tiếp tế cho tiền đồn. Xe bon bon chạy trên quốc
lộ từ Qui nhơn qua khỏi đèo An khê, rồi chậm chạp bò
vào một con đường đất vòng vèo xuyên qua những cánh
rừng rậm rạp xen lẫn với những khu đồi trọc, nơi
những người Thượng đã canh rẫy và đã bỏ đi. Xe đến
căn cứ vào giữa trưa.
Trên một ngọn đồi khá to và
cao, ban chỉ huy tiểu đoàn đóng với đại đội trọng
pháo. Hai đại đội Hai và Ba lập doanh trại ở lưng
chừng núi để bảo vệ cho ban chỉ huy. Xa hơn một chút
về phía Nam, có một ngọn đồi nhỏ hơn dành cho đại
đội Một.
Hai chiếc xe chở lính và đồ
tiếp tế rú máy chầm chậm bò lên ngọn đồi to và dừng
lại trên đỉnh giữa hai dãy nhà tranh lụp xụp. Hai chuẩn
úy được mời vào một căn nhà nhỏ làm phòng ăn cho sĩ
quan của bộ chỉ huy. Trong phòng chỉ có một bàn dài
đóng đơn sơ bằng cây đẵn trong rừng. Vách của gian
phòng làm bằng tre đan. Hai anh em ngạc nhiên thấy trên ba
bức vách, treo ba ảnh to, bản sao nhiếp ảnh ba tác phẩm
danh tiếng của phương Tây.
Một đại úy bước vào thấy
hai anh em đứng ngắm ba bức ảnh một cách thích thú. Ông
lên tiếng:
- Chào hai chuẩn úy.
Hai bạn giật mình quay lại, đứng
nghiêm đưa tay chào. Đại úy chào lại và nói tiếp:
- Tôi là đại úy An, tiểu đoàn
trưởng. Tôi đã được công điện của trung đoàn báo
tin hai chuẩn úy về bổ sung cho tiểu đoàn. Hai chuẩn úy
đang thưởng thức các họa phẩm?
Bính đáp:
- Vâng, thưa đại úy. Nơi chốn
núi rừng heo hút và hoang sơ nầy, ba danh tác nầy tạo
nên một sự tương phản kỳ lạ và lý thú.
Đại úy An mỉm cười:
- Các bức ảnh nầy do chuẩn úy
Kỵ, sĩ quan tâm lý chiến đưa từ Sài gòn ra. Tiểu đoàn
di chuyển đi đâu, cậu ta cũng giữ lấy khư khư không
cho người khác cầm giúp sợ làm hư mất. Cậu ta bảo
trong chiến tranh phải có cái gì đó để giữ cho tâm hồn
người ta không bị khô héo, cằn cỗi.
Đại úy nói xong thì cười thực
cởi mở, đầy thiện cảm và nói tiếp:
- Trước khi về đây, hai chuẩn
úy có gặp trung tá trung đoàn trưởng không?
Tân bật cười:
- Có, chúng tôi có gặp trung tá
ở Cung sơn. Lúc đầu anh em chúng tôi không ngờ rằng ông
già bụng phệ đó là trung tá.
Đại úy cười theo:
- Cách ăn mặc cũng như tính tình
của ông ấy rất xuề xòa, nhưng khi đụng việc thì
trung tá nghiêm khắc lắm. Trong các cuộc hành quân, đó
là một cấp chỉ huy tài giỏi.
Tân nói tiếp:
- Thưa đại úy, trung tá gởi lời
thăm tất cả tiểu đoàn và nhắn riêng với đại úy
rằng trung tá đang xin điều tiểu đoàn về lại với
trung đoàn, không biệt phái cho sư đoàn nữa.
- Hay lắm, về lại trung đoàn
gặp lại anh em bè bạn thì vui hơn. Biệt phái cho sư đoàn
để trấn giữ nơi hoang vu nầy buồn chán lắm. Đi hành
quân cực nhọc nhưng đỡ buồn chán.
- Thưa đại úy, tiểu đoàn mình
có đầy đủ quân số không?
- Còn thiếu khá nhiều, nhất là
sĩ quan trung đội trưởng, hầu hết các trung đội đều
do hạ sĩ quan chỉ huy. Họ có kinh nghiệm chiến đấu
nhưng không đủ năng lực và uy tín để làm trung đội
trưởng. Vì vậy kỷ luật trong các trung đội khá lỏng
lẻo. Đó là điều đáng lo. Hai chuẩn úy về đây, chúng
tôi rất mừng.
Bính lên tiếng:
- Chúng tôi sẵn sàng về đây để
làm trung đội trưởng. Tuy nhiên chúng tôi có một nguyện
vọng, nếu được đại úy chấp nhận thì rất hay cho
chúng tôi.
- Chuẩn úy cứ nói đi.
- Hai anh em chúng tôi xin về chung
một đại đội để luôn luôn gần gũi nhau trên chiến
trường.
Đại úy nhíu mày suy nghĩ một
chốc rồi đáp:
- Như thế cũng được. Hai chuẩn
úy cùng về đại đội Một. Đại đội nầy hiện thiếu
đến ba sĩ quan trung đội trưởng. Thế nào hai đại đội
kia cũng than phiền. Nhưng không sao, đại đội Một là
chủ lực của tiểu đoàn, luôn luôn phải đảm nhiệm
công việc khó khăn nhất, bổ sung cho đầy đủ sĩ quan
cũng là điều hữu lý. Đại đội Một đang đóng quân
riêng ở đồi bên kia. Tôi sẽ gọi máy báo cho trung úy
Bá đại đội trưởng biết rồi cho xe chở thực phẩm
và đưa hai chuẩn úy về bên đó. Chiều nay, tôi cho nhà
bếp chi thêm thức ăn, làm tiệc đãi tất cả sĩ quan
trong tiểu đoàn để giới thiệu hai chuẩn úy. Hai chuẩn
úy ngồi chơi, đợi tôi một tí.
Nói xong ông bỏ ra ngoài. Tân nói
với Bính:
- Bính quen sống ở thành phố,
về xứ hoang vu nầy, có lẽ buồn lắm nhỉ?
Bính lắc đầu:
- Sống lâu thì chưa biết thế
nào chứ mới tới đây, khung cảnh núi rừng trùng điệp,
hùng vĩ thế nầy làm cho em xúc động và say mê. Nước
non của mình thực đẹp, đáng cho mình hi sinh tính mạng
để bảo vệ.
- Với ý nghĩ như thế, Bính làm
sĩ quan tâm lý chiến phải hơn là làm trung đội trưởng
tác chiến.
- Theo em thì chẳng cần phải là
sĩ quan tâm lý chiến. Mọi quân nhân đều phải có lòng
yêu nước đậm đà thì mới làm tròn được nhiệm vụ
của mình.
Bính ngừng lại khi một ông
trung sĩ bước vào nói với hai người:
- Mời hai chuẩn úy ra xe.
Chiếc xe Jeep chở hai bạn xuống
đồi rồi rú máy trườn lên ngọn đồi bên kia. Trung úy
đại đội trưởng siết tay hai người thực chặt. Trung
úy còn rất trẻ, da ngâm đen, nét mặt cương nghị nhưng
nụ cười thì rất cởi mở. Trung úy nói:
- Tôi rất mừng được hai chuẩn
úy về đây. Tôi là trung úy Bá.
Tân tiếp lời:
- Tôi là Tân, còn đây là chuẩn
úy Bính. Chúng tôi rất hân hạnh được cử về làm việc
với trung úy.
- Hai anh tốt nghiệp khóa Mười
bốn Thủ đức phải không?
- Phải. Còn trung úy?
- Tôi là sĩ quan hiện dịch, xuất
thân Võ bị Đà lạt, làm lính suốt đời. Bây giờ tôi
giới thiệu đại đội của mình cho hai anh rõ. Đại đội
có ba trung đội tác chiến và một trung đội vũ khí nặng
với hai đại liên và hai súng cối. Đại đội chỉ có
hai sĩ quan, tôi coi cả đại đội và chuẩn úy Tám ở
trung đội 1. Hai trung đội tác chiến kia do hai trung sĩ
nhất chỉ huy, còn trung đội vũ khí nặng thì do một
thượng sĩ làm trung đội trưởng. Tôi đề nghị các anh
về làm trung đôi trưởng tác chiến và hai trung sĩ nhất
sẽ là trung đội phó. Anh Tân về trung đội Hai và anh
Bính, trung đội Ba.
Tân hỏi:
- Thế còn đại đội phó?
Bá lắc đầu cười:
- Không có đại đội phó. Có
lẽ vì thiếu sĩ quan nên người ta bỏ chức vụ đó đi.
Khi cần thì sẽ cử một trung đội trưởng lên thay đại
đội trưởng. Thu xếp công việc nội bộ trong đại đội
thì do một thượng sĩ thường vụ đại đội. Đại đội
mình có thượng sĩ Lập khá lắm. Anh ấy và chuẩn úy
Tám đang coi lính làm tuyến phòng thủ dưới kia.
Bính hỏi:
- Thưa trung úy, hiện giờ nhiệm
vụ chính yếu của đại đội mình là gì?
- Phòng thủ một mặt cho tiểu
đoàn. Còn nhiệm vụ của tiểu đoàn là bảo vệ phi
trường?
- Nhưng phi trường ở đâu không
thấy?
- Phi trường dã chiến, cách đây
hơn một cây số. Trước đây, tiểu đoàn mình giữ phi
trường đó cùng bảo đảm an ninh cho con đường từ phi
trường ra ngã ba An khê. Nay phi trường không còn dùng
nữa. Máy bay quân sự chỉ còn lên xuống ở phi trường
An khê mà thôi.
- Thế thì bây giờ chúng ta có
nhiệm vụ gì trong vùng rừng núi âm u nầy? Có lẽ mình
ở đây để chặn đường chuyển quân của lính Bắc
Việt từ đường Hồ chí Minh về vùng duyên hải, phải
không trung úy?
Trung úy Bá không trả lời. Anh
đứng im nhìn xuống đồi nơi lính của đại đội đang
căng dây kẽm gai và đào giao thông hào. Đột nhiên, anh
quay lại:
- Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là
phải nói thực với hai chuẩn úy điều nầy, nhưng nhớ
chỉ có sĩ quan chúng mình biết thôi, không được tiết
lộ cho lính, kể cả hạ sĩ quan lẫn binh sĩ.
Hai chuẩn úy lắng nghe. Tiếng
nói của trung úy Bá nhỏ lại, dù trên đỉnh đồi nầy
chỉ có ba người mà thôi:
- Tháng rồi, tôi về Qui nhơn để
liên lạc với sư đoàn. Tôi có một người bạn thân
cùng khóa đang là sĩ quan hành quân của bộ tư lệnh. Anh
ta bảo với tôi rằng tiểu đoàn mình đóng ở đây không
phải là đễ giữ phi trường nữa. Phi trường đã bỏ
phế từ hơn một năm rồi. Phi đạo thì bằng đất chỉ
ủi cho bằng phẳng thôi, qua một mùa mưa ở xứ nầy là
hư hết. Ở đây cũng chẳng có dân cư để mình bảo vệ.
Cũng không có chuyện chận đường xâm nhập của lính
Bắc Việt. Rừng già thế nầy, mình ở đây, bọn nó đi
dưới kia, cách mình một cây số là mình chẳng biết gì
cả thì làm sao ngăn chận được.
Bính sốt ruột:
- Vậy thì chúng ta ở đây làm
gì? Theo như những gì mà chúng tôi đã học trong quân
trường thì sư đoàn là lực lượng chính quy có nhiệm
vụ hành quân truy lùng để tiêu diệt hay đánh đuổi
địch ra khỏi vùng lãnh thổ mà mình đang chịu trách
nhiệm, chứ đâu có nằm yên như thế nầy.
Trung úy cười và nói tiếp:
- Cũng như anh, tôi thắc mắc
không hiểu tại sao sư đoàn lấy tiểu đoàn mình về đây
rồi để yên từ ngày nầy qua tháng nọ tại đây. Tôi
theo căn vặn anh bạn của tôi rồi dẫn anh ta đi uống
một chầu, anh ấy mới chịu nói thực. Anh bạn của tôi
bảo rằng theo tin tình báo thì có một đơn vị bộ đội,
có lẽ là lính Bắc Việt đang lởn vởn trong vùng nầy.
Nhiều toán biệt kích mà quân đội thả vào rừng xác
nhận tin nầy. Tuy nhiên bộ đội Việt cộng phân tán và
di chuyển luôn nên khó lần ra dấu vết để cho máy bay
oanh tạc. Vì vậy bộ tư lệnh sư đoàn mượn một đứa
con của trung đoàn Mười lăm, tức là tiểu đoàn︠ của
chúng ta đây làm mồi nhử cái đại đơn vị nào đó của
cộng sản.
Tân thấy ớn lạnh trong xương
sống. Cậu nhìn sang Bính thì thấy nét mặt anh bạn trẻ
nầy vẫn thản nhiên mà còn có vẻ hứng thú nữa. Tân
hỏi:
- Thế là tiểu đoàn chúng ta
được sư đoàn dùng làm mồi nhử cho Việt cộng tập
trung lại đánh và bị lộ mặt phải không?
- Đúng vậy. Thông thường, muốn
đánh một vị trí, phía tấn công phải có quân số và
hỏa lực áp đảo, gấp ba bốn lần trở lên so với phía
phòng thủ. Muốn đánh chúng ta, Việt cộng tập trung ít
nhất là một trung đoàn. Có thể họ sẽ đưa vào đây
đến hai trung đoàn cùng đơn vị pháo hạng nặng mới
chắc ăn. Lúc đó sư đoàn hay quân đoàn sẽ hành quân
trực thăng vận ngay tức thì để tiêu diệt địch.
Bính cười to:
- Chúng ta đúng là một củ khoai
đáng thương được dùng nhử con chuột cống để cho con
mèo khổng lồ nhảy ra vồ bắt. Giả dụ con mèo bắt
được con chuột thì củ khoai cũng bị trầy trụa một
cách thảm thương hay có thể bị gậm cho tan nát không
còn hình thù gì nữa.
Trung úy cười ha hả và phụ họa
thêm hình ảnh mà Bính vừa ví von:
- Cũng có thể con mèo chưa kịp
đến thì con chuột đã tha củ khoai đi mất hoặc ăn hết
rồi vội vã rút lui.
- Vậy là anh em mình có dịp về
trình diện với diêm vương để xin với ông ta kiếp sau
đừng bắt mình làm củ khoai mà làm cục sỏi, cục đất
hay bất cứ thứ gì mà chuột và mèo không thèm ngó đến.
Cả ba sĩ quan cùng cười vui vẻ.
Tân ngưng cười, hỏi bằng giọng nghiêm trang:
- Khi muốn bắt một con chuột,
người ta đặt bẫy nơi nào mà chuột hay tìm đến. Nơi
đây là vùng hoang vu lại không có vẻ án ngữ một trục
giao thông nào cả. Thế thì Việt công đánh chúng ta chiếm
hai ngọn đồi nầy có ích lợi gì? Nếu không nhử được
Việt cộng đến đây, hóa ra sư đoàn đã làm một việc
vô ích. Mấy trăm con người phải nuôi ăn bằng tiếp tế
cũng tốn kém lắm chứ. Những chỗ khác lại đang cần
lực lượng để giữ an ninh cho dân chúng.
- Đúng vậy. Hôm đó tôi có hỏi
anh bạn tôi như thế. Anh ta giải thích như thế nầy. Ở
đồng bằng, quốc sách ấp chiến lược của chính phủ
đã đập tan nhiều cơ sở nằm vùng của Việt cộng;
tinh thần cán binh Việt cộng đang sa sút nhiều, danh sách
chiêu hồi dài ra mỗi ngày. Cộng sản Bắc Việt gấp rút
đưa người và chiến cụ xâm nhập vào Nam, tìm cách nâng
tinh thần Việt cộng trong nầy lên để giảm bớt số
người về chiêu hồi. Nâng đỡ cách nào? Tốt nhất là
một vài chiến thắng ngoạn mục ở tầm cỡ mà dân
chúng phải bàn tán. Trên đồng bằng thì họ không thể
tập trung được rồi. Vậy thì chiến thắng mà họ cần
chỉ có thể thực hiện ở vùng rừng núi âm u như ở
đây. Mặc khác, khi đưa quân vào đây, cộng sản cũng
cần tập dượt bộ đội của họ, cho chiến sĩ của họ
thử lửa để rút kinh nghiệm chiến truờng. Những năm
cuối cùng của cuộc kháng Pháp, với chiến thắng Điện
biên phủ, bộ đội Việt minh được công nhận là một
quân đội rất thiện chiến. Nhưng từ hiệp định Genève
đến nay, Bắc Việt được sống trong hòa bình. Gần mười
năm rồi chứ đâu phải ít. Những người lính thiện
chiến năm xưa đều đã lớn tuổi hay già nua cả rồi.
Hầu hết đã lập gia đình và đang è cổ ra kéo cày thay
trâu để nuôi sống vợ con. Trong số đó, chỉ một số
ít vào Nam với cương vị lãnh đạo chỉ huy, còn lại là
bọn trẻ mới lớn lên, chưa biết gì về chiến đấu.
Cần phải cho chúng thử lửa, cho chúng ngửi mùi thuốc
súng để chúng nó hăng lên, cho chúng thấy máu đổ để
kích thích lòng hận thù và liều chết của chúng. Thế
đó, phòng hành quân của sư đoàn đã suy luận như vậy
cho nên mới quăng chúng ta vào đây.
Tân thở dài:
- Một tiểu đoàn đơn độc và
trơ trọi giữa chốn rừng sâu núi thẳm nầy quả thực
là một đối tượng rất hấp dẫn để cho cộng sản
Bắc Việt tập dượt tân binh của họ. Một miếng mồi
thơm phức cho chú chuột đang cần ăn!
Trung úy Bá cười:
- Đúng là một miếng mồi hấp
dẫn, nhưng tôi chưa nói hết tất cả sự hấp dẫn của
miếng mồi đó.
- Còn gì nữa?
- Thế nầy nè. Việt cộng rất
sợ pháo binh của chúng ta. Trình độ pháo binh của mình
khá lắm, nhanh và rất chính xác. Hiện nay trên toàn lãnh
thổ Việt Nam Cộng hòa, pháo binh của chúng ta đã bao
vùng gần hết với đại bác 105 và155 ly, có tầm tác xạ
đến mười lăm cây số hay hơn nữa. Trên bản đồ quân
sự, lấy một điểm đặt pháo làm tâm, dùng compas vạch
một vòng tròn, trong đó là vùng yểm trợ của căn cứ
pháo nói trên. Hiện nay các vòng tròn đó phủ gần khắp
lãnh thổ, ngoại trừ các vùng rừng núi xa xôi. Tất cả
các đơn vị hành quân hay đồn trú đều nằm trong vùng
yểm trợ của pháo binh ngoại trừ chúng ta.
- Trời đất, thế thì hai ngọn
đồi nầy không được pháo binh yểm trợ sao?
- Không. Thế mới gọi là miếng
mồi ngon cho chú chuột Việt cộng chứ.
- Nhưng Việt cộng có biết điều
nầy không?
- Sao lại không? Chúng ta lập căn
cứ pháo binh chỗ nào thì chỗ đó ồn ào náo nhiệt, có
khi pháo chưa kịp kéo đến thì Việt cộng đã biết rõ
địa điểm đặt pháo rồi. Chắc chắn họ cũng có những
bản đồ quân sự như chúng ta với đầy đủ những vòng
tròn bao vùng của pháo binh mình.
- Và họ thấy ngay nơi nầy ngoài
vùng yểm trợ?
- Đúng vậy. Căn cứ pháo gần
nhất là ở thị trấn An khê, cách đây một quãng khá
lớn theo đuờng chim bay, đại bác không bắn tới được.
Nè, tôi nhắc lại, chuyện nầy phải giữ kín. Lính mà
biết được thì chúng nó sẽ hoang mang, có thể đào ngũ.
Các anh là sĩ quan thì tôi cho biết để chúng ta cùng chú
tâm đề phòng cho cẩn mật. Nếu địch đánh vào đây
thì chúng ta cố gắng thủ cho được càng lâu càng tốt
để quân đoàn kịp tới tiếp cứu.
- Đại úy tiểu đoàn trưởng có
biết chúng ta đang làm mồi nhử Việt cộng không?
- Có lẽ biết nhưng là bí mật
quân sự nên đại úy không nói với ai cả. Thôi, mình
vào nhà nói chuyện đi, ngoài nầy nắng lắm. Kìa cơm dọn
ra rồi. Trưa nay hai anh dùng cơm với tôi. Chiều nay các
anh nhận đơn vị xong thì lính trong trung đội sẽ lo cơm
nước cho các anh.
Trong bữa cơm, Tân hỏi:
- Đại úy tiểu đoàn trưởng
của mình là người thế nào?
- Rất tốt, hiền lành nhưng hơi
nhát.
- Đại úy sợ chết à?
Trung úy Bá gật đầu:
- Ông ta sợ cho anh em nhiều hơn
cho mình. Đại úy là người tốt, có trách nhiệm, biết
lo cho cấp dưới của mình.
- Đại úy đánh giặc giỏi
không?
- Khá lắm, sáng suốt và bình
tĩnh khi lâm trận nhưng luôn luôn cầu mong sự bình an cho
anh em hơn là chiến thắng.
- Nghĩa là đánh nhau, đại úy
cốt thủ hòa?
Trung úy Bá cười ha hả:
- Đúng vậy đó. Chính đại úy
cũng có lần bảo rằng đánh nhau rồi hòa và hai bên rút
lui là tốt nhất. Chiến thắng hay chiến bại đều phải
đưa xác đồng đội về chôn thì thực là đáng buồn.
Năm ngoái có một chuyện làm cho đại úy An và cả tiểu
đoàn đều xót thương.
- Chắc là chuyện hi sinh ngoài
chiến trường.
- Ừ, một chuyện hi sinh rất bi
thảm. Dạo đó tiểu đoàn có năm binh sĩ người Thượng
ở địa phương nầy. Tất cả đều có vợ con sống
trong khu gia binh ở hậu cứ của trung đoàn, còn họ thì
cứ theo tiểu đoàn lang thang từ nơi nầy đến nơi khác.
Bính hỏi:
- Tính tình người Thượng thế
nào?
- Rất hiền lành chất phác, cả
tiểu đoàn ai cũng thương. Một hôm, lúc chạng vạng tối,
tiểu đoàn nhận được lệnh hành quân. Đại úy họp
các đại đội trưởng để truyền lệnh cho mọi người
chuẩn bị vũ khí đạn dược cùng bảy ngày lương khô
mang theo. Mọi việc chuẩn bị đã xong trong đêm. Trời
mới rựng sáng, Đại úy tiểu đoàn trưởng đang nai nịt
thì Y Dao, anh lớn tuổi nhất trong năm người binh sĩ
người Thượng chạy xồng xộc vào, đứng chụm chân
chào. Đại úy ngạc nhiên hỏi:
“- Có chuyện gì vậy Y Dao?
“- Xin đại úy cho tôi ở nhà.
“- Không được, lệnh hành quân
bắt buộc phải đem theo tất cả quân số của tiểu đoàn
không chừa một ai cả.
“Y Dao cúi mặt xuống nài nỉ:
“- Đại úy cho tôi ở nhà. Nếu
tôi đi thì tôi chết, tội nghiệp vợ con tôi.
“Đại úy gắt lên:
“- Tôi bảo là không được. Y
Dao không biết luật lệ nhà binh ở mặt trận à. Trốn
tránh hành quân là ra tòa án quân sự. Nếu tôi cho phép
anh nghỉ ở nhà thì người khác bắt chước, lấy ai đi
hành quân cho đủ sĩ số.
“- Nhưng lần nầy, tôi đi tôi
sẽ chết. Đêm rồi, hồn con ma nó về báo với tôi. Đại
úy cho tôi ở nhà một lần nầy thôi. Lần khác tôi sẽ
đi.
“Đại úy dịu giọng:
“- Thôi đừng nói nữa, về đại
đội chuẩn bị đi với anh em. Đừng nghỉ vớ vẩn và
đừng tin nhảm nhí. Mấy tháng nay, tiểu đoàn vẫn hành
quân và mọi người đều bình an vô sự, Y Dao không thấy
sao?
“Đại úy đến vỗ vai anh ta và
cười:
“- Yên tâm đi Y Dao. Tiểu đoàn
mình được ông Trời phù hộ mà.
“Anh ta nói như mếu:
“- Tôi biết cả tiểu đoàn
được ông Trời phù hộ nhưng lần nầy, tôi và một
người nữa không được phù hộ.
“Anh ta nói xong thì lủi thủi
đi ra.
Tân có vẻ sốt ruột nên hỏi:
- Rồi anh ta trốn hay đi hành
quân theo tiểu đoàn?
- Anh ta đi theo. Người Thượng
rất thật thà, chất phác, xin không được thì anh ta đành
chịu.
- Rồi sao nữa?
- Hôm sau, tiểu đoàn đụng trận.
Có hai người ngã xuống, một hạ sĩ thuộc đại đội
Hai bị thương nặng và một binh nhì tử trận.
- Ai tử trận?
- Chính Y Dao, anh người Thượng
đáng thương đó. Khi nghe đại đội báo tin lên bằng máy
vô tuyến, đại úy An đứng sững không nói được tiếng
nào rồi ông khóc ngay trên mặt trận. Sau đó cả tiểu
đoàn góp một số tiền khá lớn gởi theo xe chở xác Y
Dao về hậu cứ của trung đoàn. Bốn người Thượng còn
lại được phép đi theo về để mai táng.
- Rồi họ có trở lại không?
- Có, bốn người đều trở lại
đúng ngày nhưng không phải trở lại để tiếp tục làm
nhiệm vụ. Lúc đó cuộc hành quân đã chấm dứt, tiểu
đoàn về đóng tại tiền cứ của trung đoàn. Bốn người
đến trình diện đại úy tiểu đoàn trưởng và xin đại
úy cho giải ngũ.
- Trời đất!
- Thực vậy, họ thản nhiên nói
với đại úy cho giải ngũ vì họ không thích đánh nhau
nữa. Họ bảo rằng họ ghét cộng sản đưa lính và súng
ống ngoài Bắc vào mới có chuyện đánh nhau. Họ theo
tiểu đoàn hơn hai năm rồi, thấy ai chết họ cũng buồn.
Lính quốc gia chết, họ buồn; lính Việt cộng chết họ
cũng buồn. Ai cũng có cha mẹ, anh em, vợ con, chết thì
mọi người đều đau đớn lắm. Đại úy kể rằng nghe
họ nói, thương đến chảy nước mắt. Nếu họ xin đi
phép hay vắng mặt trong cuộc hành quân thì lập tức đại
úy cho liền sau đó có bị khiển trách cũng chịu. Đằng
nầy họ xin giải ngũ thì làm sao giải quyết được. Đại
úy cố giải thích nhưng họ không nghe. Cuối cùng, họ
nói:
“- Đại úy không cho giải ngũ
thì chúng tôi cũng về nhà. Chúng tôi chào đại úy, bây
giờ đại úy không bao giờ thấy chúng tôi nữa.
“Đại úy xua tay:
“- Không được đâu. Các anh bỏ
về như vậy là đào ngũ. Rủi bị quân cảnh bắt được
thì các anh sẽ bị đưa ra tòa án binh xét xử đi ở tù
hay đi làm lao công đào binh.
“Họ thản nhiên đáp:
“- Chúng tôi không sợ. Chúng
tôi về không ở khu gia binh nữa đâu. Chúng tôi dẫn vợ
con vô rừng vô núi làm nương rẫy, nay ở chỗ nầy, mai
đi chỗ khác. Trong đó chỉ có thú rừng chớ đâu có
quân cảnh mà sợ. Sống với thú rừng trong đó dễ chịu
hơn sống với người ngoài nầy. Thú rừng chỉ giết
nhau khi đói bụng tìm thức ăn. Lúc no thì chúng hiền
lắm. Con người ở đây, đói hay no, lúc nào cũng tìm con
người để giết. Giết không phải để ăn như thú rừng
mà để làm gì không thể hiểu được. Thôi chào đại
úy, chào các sĩ quan, chào hết cả tiểu đoàn.
“Nói xong, cả bốn người đứng
nghiêm đưa tay chào. Đó là cử chỉ nhà binh cuối cùng
của đời họ. Đại úy đứng im há hốc mồm nhìn theo
bóng họ bước ra cửa. Đại úy bỗng đập mạnh hai tay
vào nhau rồi vội vã chạy sang phòng bên cạnh gọi anh
trung sĩ truyền tin.
Tân hồi hộp:
- Chi vậy? Báo cho quân cảnh hay
lính gác chận họ lại?
- Không phải vậy. Đại úy móc
tất cả tiền trong các túi quần, túi áo đưa cho trung sĩ
bảo chạy ra tặng cho bốn người. Đại úy dặn trung sĩ
làm cho kín đáo để đại úy khỏi mang tội tán trợ đào
ngũ. Đại úy An rất nghèo, có vợ và hai con đang sống
tại Phan thiết. Vợ đại úy làm công chức, lương ít
ỏi. Tháng nào lãnh lương xong đại úy cũng gởi phần
lớn về cho vợ con. Hôm đó, mới lãnh lương xong, đại
úy móc ra đưa hết, khỏi gởi về nhà tháng đó. Tội
nghiệp!
Trung úy ngưng nói khi thấy có
người bước vào. Tân ngước lên nhìn. Mắt của cậu và
của người mới vào gặp nhau, cả hai đều sửng sốt.
Người đó quay sang trung úy Bá:
- Thưa trung úy, hết giờ nghỉ
trưa rồi. Hàng rào bên dưới làm chưa xong. Bây giờ có
tập họp anh em ra làm tiếp hay không?
- Thôi, cho anh em nghỉ buổi chiều
như thường lệ, tối còn phải thức canh gác. Nhờ anh
mời tất cả các trung đội trưởng vào đây.
- Vâng, thưa trung úy.
Nói xong, anh ta vội vã đi ra.
Tân nghĩ thầm: “Hình dáng,
khuôn mặt thì giống lắm. Thêm giọng nói nữa thì gần
như chắc chắn rồi, không thể nhầm được. À, bao nhiêu
năm rồi nhỉ? Hơn sáu năm rồi”.
Trung úy Bá không để ý đến
nét mặt của hai người, vẫn thản nhiên nói với Tân:
- Đó là thượng sĩ Lập, thường
vụ đại đội. Anh Lập làm việc giỏi lắm. Mọi chuyện
trong nội bộ đều nhờ anh ấy lo liệu và thu xếp, từ
chuyện tiếp tế lương thực, đạn dược, vũ khí, chỗ
ăn, chỗ ở của đại đội, vân vân, anh ấy làm hết
một cách chu đáo.
Tân hỏi:
- Thượng sĩ ấy tên thực là
Lập à?
Trung úy Bá ngạc nhiên:
- Vâng, thượng sĩ Nguyễn thành
Lập. Sao chuẩn úy hỏi thế?
- Không có gì. Tôi thấy có
người, tên trong giấy tờ khác với tên gọi thông thường
nên buộc miệng hỏi đó thôi. Thượng sĩ Lập về đại
đội mình lâu chưa? Quê của anh ấy ở đâu?
- Tôi không nhớ rõ quê ở tỉnh
nào nhưng khi đi phép thì ghi về Sài gòn. Lập xuất thân
từ trường hạ sĩ quan Đồng đế, về tiểu đoàn Hai
làm tiểu đội trưởng, lên trung sĩ nhất làm trung đội
phó, lên thượng sĩ thì về đây làm thường vụ được
hơn một năm rồi.
Tân hỏi tiếp:
- Thượng sĩ có gia đình chưa?
- Chưa, vẫn còn độc thân. Hơn
ba mươi tuổi rồi đó nhưng trên giấy tờ thì chưa đầy
ba mươi.
Tân im lặng nghĩ thầm: “Tại
sao độc thân? Có vợ rồi mà, có cả thằng con bị bệnh
chết. Hay là sau vụ đó anh không tìm ra được người vợ
của mình?”
Có nhiều người bước vào phòng
cắt đứt ý nghĩ của Tân. Trung úy Bá giới thiệu:
- Đây là chuẩn úy Tân, chuẩn
úy Bính bổ sung cho đại đội mình. Đây là chuẩn úy
Tám, trung đội trưởng trung đội Một, thượng sĩ Bảo
trung đội trưởng trung đội vũ khí nặng, trung sĩ nhất
Hy trung đội Hai, trung sĩ nhất Mạnh trung đội Ba. Hai
trung sĩ nhất đang xử lý thường vụ trung đội trưởng.
Bây giờ có hai sĩ quan về làm trung đội trưởng thì hai
trung sĩ trở về chức vụ trung đội phó của mình. Tôi
đề cử chuẩn úy Tân về trung đội Hai, chuẩn úy Bính,
trung đội Ba.
Hai sĩ quan mới bắt tay hai trung
sĩ trung đội phó của mình. Trung sĩ Mạnh nói:
- Chúng tôi mong các chuẩn úy quá
chừng. Chúng tôi mang lon trung sĩ khó chỉ huy lắm. Các
tiểu đọi trưởng cũng là hạ sĩ quan như mình. Trong nhà
binh, cấp bậc phải hơn nhau rõ rệt thì mới chỉ huy
được.
Tân đỡ lời:
- Chúng tôi tuy là sĩ quan, nhưng
mới ra trường, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, các
trung sĩ phải hết lòng giúp đỡ chúng tôi mới được.
Trung úy Bá cười:
- Không sao đâu, ra tới đơn vị
tác chiến rồi thì dễ tìm kinh nghiệm lắm. Đụng vài
trận, hai buồng phổi chứa đầy khói súng thì kinh
nghiệm sẽ đeo lủng lẳng ngay trên chiến y. Thôi anh em
nghe đây. Chiều nay đúng bốn giờ tập họp đại đội
để bàn giao chức vụ trung đội trưởng.
Chuẩn úy Tám bây giờ mới lên
tiếng:
- Bàn giao chức vụ ở hai trung
đội Hai và Ba. Thế thì trung đội Một có phải tập họp
không?
- Có, tập họp cả đại đội
để tôi giới thiệu sĩ quan mới về với toàn thể anh
em. Xong rồi thì các trung đội về phân công trực gác
đêm nay. Sau đó, tất cả bốn anh em sĩ quan sang dự tiệc
do tiểu đoàn đãi để mừng hai sĩ quan mới về. Thôi
giải tán.
Đúng bốn giờ chiều, đại đội
tập họp xong. Trung úy Bá dẫn hai chuẩn úy mới bước
ra. Chuẩn úy Tám hô to:
- Đại đội chú ý… nghiêm! Báo
cáo trung úy, đại đội tập họp xong. Quân số 104, không
vắng mặt. Tại hàng 104. Hết.
Trung úy đưa tay chào hàng quân,
giới thiệu hai sĩ quan mới cùng chức vụ trung đội
trưởng. Anh đưa hai chuẩn úy về với hai trung đội và
thế là xong, mọi người giải tán.
Đúng lúc đó, anh binh sĩ truyền
tin chạy ra gọi:
- Thưa trung úy, tiểu đoàn bảo
các sĩ quan chuẩn bị, xe sắp qua đón.
- Được rồi, chúng tôi đã sẵn
sàng.
Không bao lâu sau, bốn sĩ quan của
đại đội được xe Jeep chở sang bộ chỉ huy tiểu đoàn
và cùng với các sĩ quan khác vào phòng ăn. Hôm nay chiếc
bàn dài phủ khăn trắng trông rất lịch sự. Thức ăn
dọn ra đầy bàn nhưng toàn là thịt gà. Khi mọi người
đã vào chỗ ngồi, đại úy An đứng lên nói:
- Hôm nay tiểu đoàn bày ra một
tiệc đơn sơ và dã chiến để chào mừng hai sĩ quan vừa
về với tiểu đoàn. Đây là chuẩn úy Tân và chuẩn úy
Bính.
Mọi người vỗ tay. Đại úy nói
tiếp:
- Cả hai sĩ quan đều về đại
đội Một, thể theo nguyện vọng của các đương sự.
Đại úy cũng giới thiệu với
hai chuẩn úy mới, mười hai sĩ quan của tiểu đoàn,
trong đó một đại úy cố vấn Mỹ. Đại úy nói tiếp
một cách vui vẻ:
- Rất tiếc, tiệc chào mừng sĩ
quan mới về mà không có champagne, whisky hay martel. Bia,
rượu đế cũng chẳng có. Sư đoàn căn dặn đừng đưa
rượu lên đây, sợ chúng ta uống say, ngủ quên, Việt
cộng vào khiêng ra Bắc, bộ tư lệnh không đủ tiền ra
Hà nội chuộc chúng ta về. Thôi anh em uống nước lạnh
thay rượu cũng được. Thức ăn thì khá dồi dào, nhưng
anh em đừng ngạc nhiên, chỉ có gà, gà và gà. Trống có,
mái có; đen vàng nâu trắng, đủ cả, nhưng chung qui cũng
chỉ là gà thôi. Có ai đó mách với sư đoàn rằng chúng
ta là một lũ chồn tu luyện lâu năm thành người. Sư
đoàn tin thiệt nên đã chỉ thị cung cấp cho chúng ta
toàn là gà thôi.
Mọi người ôm bụng cười ngất.
Bữa cơm diễn ra trong tiếng cười nói ồn ào vui vẻ.
Sau bữa cơm bốn sĩ quan đại
đội Một trở về ngọn đồi của mình. Trung úy Bá nói
với Tân và Bính:
- Ở đây ban ngày thì tương đối
thong thả. Khi mặt trời vừa khuất sau núi, công việc
phòng thủ mới thực sự bắt đầu. Hai anh ra đây, tôi
chỉ hệ thống phòng thủ của mình.
Ba người ra đứng trên đỉnh
đồi. Trời lặng gió, cây rừng bất động. Sương núi
trắng xóa bắt đầu xuất hiện dưới thung lũng, chầm
chậm bò lên sườn núi. Khí núi lành lạnh tỏa ra làm
cho Tân khẽ rùng mình. Cảnh núi rừng hoang sơ và xinh đẹp
lúc ban ngày, bây giờ bỗng trở nên thâm u trong cảnh
hoàng hôn đầy vẻ huyền bí rợn người.
Trong sự vắng lặng, tiếng trung
úy Bá nghe thực rõ ràng:
- Ba trung đội đóng ba mặt ở
lưng chừng đồi. Kìa, mỗi dãy nhà là của một trung
đội. Chốc nữa hai anh về với trung đội mình. Chắc
chắn trung đội phó đã sắp đặt chỗ ngủ cho các anh
rồi. Việc canh gác đêm nay thì vẫn do các anh ấy đảm
nhiệm, tôi đã dặn họ rồi. Mỗi anh nên bắt trung đội
phó trình bày cặn kẽ tình hình của trung đội mình.
Sáng mai các anh tập họp trung đội để biết tên, biết
mặt từng đội viên rồi đi xem xét tuyến phòng thủ bên
dưới chân đồi. Nhớ phải đi chung với trung đội phó
để khỏi dẫm phải mìn và hầm chông do mình gài và đào
dưới đó.
Tân hỏi:
- Ba trung đội đóng ở ba mặt,
còn mặt thứ tư?
- Đó là mặt đối diện với
tiểu đoàn, không cần lo. Việt cộng không bao giờ dám
tấn công lên mặt nầy vì làm như thế, họ sẽ đưa
lưng mà hứng hỏa lực đại liên của tiểu đoàn từ
đồi kia bắn vãi sang. Ở mặt nầy chỉ có một vọng
gác của trung đội vũ khí nặng, bên dưới chân đồi
không có mìn và hầm chông, vì đó là mặt dự phòng để
toàn thể đại đội có thể rút lui xuống đồi khi có
lệnh.
Bóng đêm đã bao phủ khắp nơi.
Ở chốn núi rừng nầy, màn đêm đến thực nhanh. Hoàng
hôn chưa đi hẳn thì mọi vật đã chìm trong bóng tối.
Mọi vật chung quanh biến mất trong một vùng đen ngòm,
phía trên có những đỉnh núi nhọn lởm chởm in bóng lờ
mờ trên nền trời không ánh trăng nhưng đầy sao lấp
lánh.
Trung úy Bá nói:
- Ở đây, đêm nào cũng như thế
nầy, buồn và chán lắm, một mình thơ thẩn trên đỉnh
đồi, mỏi chân thì vào giường nằm lắng tai nghe, cố
phân biệt những tiếng động khác nhau của đêm rừng
núi.
Bính cười bảo:
- Đêm thanh vắng thế nầy, ngủ
thì ngon giấc lắm.
Trung úy đáp lại ngay:
- Đâu có dám ngủ. Đêm nào cũng
cố thức. Mỗi đêm phải xách súng đi kiểm tra vài lần
quanh các vọng gác để xem lính gác có ngủ gục hay
không.
Bính nhìn các dãy nhà tối đen
không chút ánh sáng hỏi:
- Ban đêm cấm đốt đèn?
- Được đốt nhưng phải đóng
cửa thực kín không cho ánh sáng lọt ra ngoài. Đốm sáng
ban đêm là điểm nhắm rất tốt để Việt cộng rót đạn
cối hay hỏa tiễn vào.
- Nếu được đốt đèn thì mấy
anh em sĩ quan mình đánh cờ tướng hay chơi domino để cho
đêm bớt dài đi.
Trung úy Bá cười:
- Tôi muốn họp các anh em sĩ
quan và hạ sĩ quan lại để bày trò vui chơi lắm chứ.
Cờ và bài là những thứ tuyệt vời để giết thì giờ
của đêm vắng đáng sợ. Tuy nhiên không làm như thế
được. Ban đêm, thành phần chỉ huy không được tập
trung vào một chỗ, rủi địch pháo trúng thì đại đội
trở thành rắn mất đầu. Anh em mình chỉ có thể gặp
nhau nói chuyện chốc lát rồi ai về vị trí nấy. Thôi,
bây giờ hai anh đứng đây quan sát cho quen mắt với cảnh
vật về đêm ở vị trí đóng quân của mình. Tôi phải
vào liên lạc với tiểu đoàn. Mỗi đêm, tới đúng giờ
phải mở máy liên lạc ba lần vào đầu hôm, giữa khuya
và lúc bình minh.
Trung úy nói xong, bước vào dãy
nhà kế cận. Tân và Bính tiếp tục đứng trong bóng tối.
Bính hỏi bạn:
- Anh Tân, ngày đầu tiên về đơn
vị tác chiến, anh có cảm tưởng thế nào?
- Ấn tượng đầu tiên thực
đẹp, do cảnh vật hùng vĩ của miền Trung và cử chỉ
thân mật của những đồng đội của mình.
- Em cũng vậy. Em rất cảm động,
nhất là khi dự bữa ăn chiều mà tiểu đoàn tổ chức
để mừng anh em mình. Lúc ở quân trường, cứ thấy sĩ
quan là mình sợ sệt, vội vã tự quan sát, xem mình còn
gì sơ sót để có thể bị bắt lỗi hay bị phạt hay
không. Vì vậy giữa anh em mình với sĩ quan trong quân
trường có một khoảng cách rõ rệt. Còn ở đây tình
bằng hữu giữa các đồng đội ở tiền đồn heo hút
nầy thực là cảm động. Giờ nầy, em còn nghe văng vẳng
bên tai những lời nói đùa dễ thương của đại úy An
khi mọi người bắt đầu cầm đũa. Lúc đó em nhìn gương
mặt rạng rỡ và phúc hậu của đại úy rồi liên tưởng
tới cảnh ông gục đầu xuống khóc khi nghe tin Y Dao tử
trận như lời kể của trung úy Bá. Đại úy tiểu đoàn
trưởng của mình là con người phúc hậu. Anh có đồng ý
không?
- Chiều nay, anh thấy tất cả sĩ
quan trong tiểu đoàn đều là những người phúc hậu.
Bính cười:
- Thế mà lúc trước, bắt đài
phát thanh Hà nội hay đài Giải phóng, họ cứ gọi sĩ
quan Việt Nam Cộng hòa là những tên khát máu. Thực là
một luận điệu láo khoét. Cái từ thô bỉ đó phải để
dùng cho bên kia thì có lẽ đúng hơn.
Tân cãi lại:
- Không phải vậy đâu. Bên kia
chiến tuyến cũng là những con người nhân ái như chúng
ta vậy thôi. Anh đoan chắc như vậy vì anh đã có thời
sống và làm việc chung với họ. Em hãy tin lời anh nói
đi.
- Vâng, em tin anh. Thực là xót xa
khi cuộc chiến tranh trên đất nước miền Nam nầy đã
đẩy những con người hiền lành ra tay tàn sát lẫn nhau,
dù họ chẳng có mảy may lý do nào để thù ghét nhau.
- Đúng vậy, những người lính
Bắc Việt có thù ghét chúng ta chút nào đâu, nhưng họ
bị đưa vào đây và sẵn sàng tàn sát chúng ta.
Giọng Bính hằn học:
- Những người lính Bắc Việt
đó quá yếu đuối không thể cưỡng lại ý muốn của
một số người đầy tham vọng điên cuồng, gây ra thảm
cảnh đổ máu trên toàn miền Nam. Càng đáng giận hơn
nữa là số người đó đã phủ kín cái tham vọng điên
cuồng của họ bằng những từ tốt đẹp làm cho rất
nhiều người khác nhận lầm, nhất là những người
không tận mắt chứng kiến thảm cảnh chiến tranh. Em hi
vọng mai sau, lịch sử sẽ bóc trần cái tham vọng điên
cuồng đó. Lịch sử sẽ phán xét tội lỗi của họ một
cách thẳng thắn và công bình để đỡ tủi cho vong linh
những nạn nhân của cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn nầy.
Tân thở dài, tiếng thở dài
nghe rõ trong đêm thanh vắng:
- Nếu họ thua thì nhất định
lịch sử sẽ phán xét họ. Nếu họ thắng, anh e rằng
cái hi vọng đó của em khó lòng thực hiện được. Lúc
đó, họ sẽ bỏ công ra tô điểm cho chiến thắng của
họ và đó chính là những trang sử để lại cho đời
sau.
- Anh không tin rằng nhân loại
nói chung và Việt Nam nói riêng có những sử gia chân
chính à?
- Anh tin chứ. Nhưng tiếng nói
của những sử gia chân chính thì có bao nhiêu trọng
lượng? Chính anh là giáo sư sử địa, nên anh biết rất
rõ. Lịch sử luôn luôn có ý đề cao chiến công của kẻ
chiến thắng. Viết sử như thế thì mới làm cho người
đọc hào hứng. Em nhớ rằng lịch sử vẫn là một bộ
môn văn chương, người viết cũng cần phải có độc giả
chứ.
Thấy Bính đứng yên, lắng nghe,
Tân nói tiếp:
- Người cộng sản rất chú ý
đến lịch sử. Họ đã dùng lịch sử để dẫn chứng
cho lý thuyết của họ. Với cuộc chiến nầy thì chắc
chắn, người cộng sản Việt Nam cũng sẽ vo tròn bóp méo
lịch sử để biện minh cho hành động gây chiến của
họ. Họ sẽ che giấu sự thực và nói ra những điều mà
họ muốn người khác nghe theo. Có những điều dối trá
rõ rệt nhưng với một thái độ trông rất thành khẩn,
họ nhắc đi, nhắc lại trăm, ngàn, vạn lần, tới cái
độ người ta nghe quen tai và chấp nhận như một lẽ
đương nhiên không cần bàn cãi nữa. Đó, nếu họ thắng
thì lịch sử sau nầy để lại cho đời con, đời cháu
chúng ta như thế.
- Có lẽ anh được đào tạo để
dạy lịch sử nên anh chú ý nhiều đến vấn đề đó.
Bao nhiêu người khác, khi bàn đến cuộc chiến nầy, chỉ
chú ý đển nỗi khổ, sự phá hoại và chết chóc chứ
chẳng mấy ai quan tâm đến khía cạnh lịch sử. Hình như
lịch sử không có vai trò gì đối với đời sống.
- Không phải vậy đâu. Con người
khác con vật là có đầy đủ quá khứ, hiện tại và
tương lai. Lịch sử, tức là quá khứ là một phần ba ý
nghĩa của cuộc sống của con người. Lịch sử mà sai
lạc thì một phần ba cuộc sống đó cũng vứt đi.
Bính suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Anh nói đúng. Nói chuyện với
anh, em thu nhận thêm được nhiều điều bổ ích cho hệ
tư tưởng của mình. Có anh về đây với em thực là may.
Nếu hôm nọ, anh đưa hai lá thư giới thiệu ra và được
giữ lại ở bộ tư lệnh sư đoàn thì em về đây một
mình, buồn làm sao chịu nổi. À, hai lá thư anh để đâu
rồi?
- Anh xé bỏ ngay sau lúc gặp đại
tá tham mưu trưởng.
- Sao anh không để dành lại mà
phòng thân?
- Anh không muốn giữ thứ đó
lại trong túi mình, sợ có khi tinh thần sa sút thì anh sẽ
bị nó cám dỗ. Anh muốn như em, như những người mà
chúng ta cùng ngồi ăn chung chiều nay. Anh muốn thực sự
dấn thân vào cuộc đời, vào cuộc chiến nầy cho đến
khi số phận hất anh ra khỏi cuộc chiến, hay khỏi luôn
cuộc đời nầy.
- Em cũng có ý nghĩ như anh vậy.
Hai anh em chia tay. Tân bước xuống
con dốc thoai thoải đến dãy nhà của trung đội Hai. Cậu
đẩy cửa bước vào. Trên giường có bóng người nhỏm
dậy, lên tiếng:
- Chuẩn úy khép cửa lại để
tôi đốt đèn lên.
Nghe tiếng nói, Tân nhận ra là
trung sĩ Hy, trung đội phó của mình. Tân quay lui khép cửa.
Hy bật quẹt, châm vào chiếc đèn dầu nhỏ trên bàn.
Trong ánh sáng lờ mờ, cậu thấy một dãy sạp thô sơ,
làm bằng cây rừng và tre chạy dài suốt dãy nhà. Rải
rác có vài người đang nằm ngủ trong mùng. Tân lên
tiếng:
- Anh Hy chưa ngủ à?
- Dạ, chưa đâu chuẩn úy. Vô
nằm trong mùng cho đỡ muỗi. Ở đây có rất nhiều muỗi
đòn xóc truyền bệnh sốt rét. Chưa ngủ cũng phải chui
vô mùng. Riết rồi thành thói quen, ban đêm tôi ít ngủ
lắm. Cứ mỗi hai hay ba giờ lại phải đi tuần tra một
lần. Nếu không đi tuần, rủi lính gác ngủ quên, Việt
cộng vác mã tấu lên tới trên nầy mà chém thì còn chi
là đời. Mã tấu của Việt cộng gớm lắm. Có một lần
lính của tôi lôi cổ một tên trốn dưới hầm bí mật,
tịch thu một cây mã tấu dài gần một mét, bén ngót,
cầm vừa tay lắm. Tưởng tượng, nếu bị chặt thì cơ
thể mình thành hai khúc rời nhau ngay lập tức.
Hy chậc lưỡi và nói tiếp:
- Ra trận giết quân thù bằng
cách bóp cò súng đã thấy ghê tay rồi. Đưa mã tấu lên
mà chém vào người khác không có thù oán gì với mình
thì tính tình phải dã man lắm mới làm được. Tôi không
làm được như thế đâu chuẩn úy ạ. Kể ra cộng sản
cũng hay. Họ tuyên truyền để biến con người trở
thành dã man thì cũng tài thực.
Hy ngừng nói, móc trong túi ra một
bao thuốc điếu:
- Mời chuẩn úy.
- Cám ơn, tôi vừa mới quyết
định bỏ thuốc kể từ hôm nay.
- Vậy à, tôi cũng muốn bỏ
nhưng không bỏ được. Ở đây khí núi lạnh lẽo, hít
một hơi thuốc thấy ấm hẳn. Cả trung đội, cả đại
đội, ai cũng hút thuốc. Tiếp tế mà quên đem thuốc lên
là anh em đòi nổi loạn liền.
Hy rút một điếu thuốc châm vào
đèn rít một hơi dài rồi ngửa mặt nhả ra một ngụm
khói trắng. Anh vói tay lấy một cái ống làm bằng giấy
cứng úp vào đèn. Ánh sáng bị chận lại trong ống chỉ
còn một vòng sáng nho nhỏ in dưới mái tranh. Hy nói:
- Tới giờ đi tuần lần thứ
nhất rồi. Mời chuẩn úy cùng đi với tôi. Đêm nay mình
thức cả đêm đi chung để biết thể thức tuần tra và
vị trí canh gác của trung đội và đại đội. Từ ngày
mai, tôi và chuẩn úy chia nhau mỗi người phân nửa đêm
thì có thể ngủ được vài giờ trong một đêm.
- Khi đi tuần thì có phải đi
khắp ngọn đồi không?
- Chính yếu là đến các điểm
gác của trung đội mình và thỉnh thoảng qua các trung đội
khác. Trung úy đại đội trưởng đã dặn như thế để
đề phòng trung đội trưởng nào đó ngủ quên không đi
tuần.
- Đi tuần là làm công việc gì?
- Đến mỗi vọng gác xem lính có
thức không? Kiểm tra lính có đội mũ sắt và có gắn
lưỡi lê vào súng hay không? Nếu có trăng thì nhìn thấy
được, nhưng vào đêm không trăng và trời đầy mây thì
phải dùng tay sờ vào đầu lính gác và đầu súng của
nó. Ngồi với nó một chút để hỗ trợ tinh thần, sau
đó đi sang vọng gác khác. Trên đường đi giữa hai vọng
gác phải nhìn kỹ. Nếu thấy có gì nghi ngờ thì dùng
đèn pin rọi vào, vừa để quan sát, vừa để lưu ý hai
vọng gác hai bên. À, chuẩn úy biết mật khẩu đêm nay
chưa?
- Chưa.
- Thế là trung úy quên nói với
chuẩn úy rồi. Mật khẩu đêm nay là: cộng lại thành
chín.
- Nếu lính gác nói năm thì mình
trả lời bốn, có phải không?
- Không, ở đây trung úy Bá bày
ra hơi khác một tí. Lính gác hỏi: “Phải anh Ba đó
không?”, thì mình phải trả lời “Không, tôi là Sáu
đây.”
- Tại sao phải nói cho rắc rối
thế.
- Đề phòng địch núp dưới kia
có thể nghe được và biết mật khẩu của mình thì nguy
vì đây là mật khẩu của cả tiểu đoàn. Nói anh Ba, anh
Tư vân vân, chúng nó có nghe được cũng sẽ không ngờ
đó là mật khẩu.
Trung sĩ Hy bỗng phì cười:
- Nói về mật khẩu, hôm nọ có
một chuyện thực buồn cười. Đêm đó mật khẩu là
sáu. Tôi vừa đi tới một vọng gác đi thằng Kiệt hô:
”Anh Sáu phải không?” Tôi cứ đứng ngẩn người ra
không biết trả lời thế nào. Không lẽ bảo rằng tôi
là anh zéro đây. Thế là phải nói tên thiệt của mình
ra để có thể đến gần nó. Thôi bây giờ mình đi.
Hy bước xuống đất, lấy cây
súng carbin dựng ở đầu giường mang vào vai. Anh hỏi:
- Chuẩn úy chưa lãnh súng à?
- Chưa.
- Kho súng bên tiểu đoàn. Chắc
nội sáng mai trung úy đưa chuẩn úy sang lãnh và ký nhận.
Chuẩn úy nên lãnh carbin, đừng lãnh colt. Mang colt trông
oai thực nhưng nguy hiểm. Tụi Việt cộng chuyên bắn tỉa
cứ nhắm mấy ông mang colt vì chúng biết đó chính là sĩ
quan. Đi hành quân thì chẳng ai mang lon. Việt cộng nhận
ra sĩ quan do cây súng colt đeo lủng lẳng bên hông.
Hy mở cửa đi ra, Tân đi sau
người trung đội phó của mình vài bước. Có tiếng hô
khe khẽ và rắn rỏi:
- Ai đó, anh Bảy phải không?
- Không, anh Hai của mày đây.
Tân nghe và mỉm cười trong bóng
tối. Hai người tiến tới vọng gác đầu tiên. Dưới
ánh sáng lờ mờ của bầu trời đầy sao, Tân nhận ra
một chòi lá nhỏ và thấp. Trong chòi là một hố cá
nhân, miệng đen ngòm, chung quanh có bờ khá cao. Người
lính gác ngồi bệt trên bờ đất đó. Anh ta hỏi nhỏ:
- Trung sĩ đi với ai đó?
- Chuẩn úy Tân, trung đội trưởng
của mình đó mà.
Người lính gác mừng rỡ:
- Chuẩn úy, em là binh nhì Tá
đây. Khi chiều trong hàng, thấy chuẩn úy em thích lắm,
định tan hàng tìm chuẩn úy nói chuyện chơi, không dè
mấy sĩ quan đi ngay qua tiểu đoàn để dự tiệc.
Tân cảm động đến ngồi trên
bờ đất, vỗ vai người lính gác:
- Chào anh Tá.
- Không, chuẩn úy đừng gọi em
bằng anh. Gọi là mày và xưng là tao thì thích hơn. Tụi
em đứa nào cũng coi trung đội trưởng như anh cả của
mình vậy. Chuẩn úy có vợ con chưa?
- Chưa, còn chú mày thì sao?
- Cũng chưa. Em có con bồ. Nó bỏ
theo thằng khác cùng xóm với em. Em buồn quá. Mỗi ngày,
thấy hai đứa dẫn nhau đi ngang qua nhà trông ngứa mắt
lắm nên em đăng đi lính được hơn một năm rồi.
Nó nói xong cười hí hí. Trung sĩ
Hy bảo:
- Thôi đi, chuẩn úy ngồi với
thằng nầy năm ngày năm đêm nghe nó nói cũng không hết
chuyện.
Tân vỗ vai thằng Tá:
- Gác cẩn thận nghe.
- Yên chí đi chuẩn úy. Thằng
Việt cộng cũng như con thú rừng; nó đánh hơi biết em
ngồi đây thì không dám tới gần đâu.
Tân đứng dậy nhìn ra khoảng
tối đen trước mặt, trong lòng bỗng dậy lên một niềm
cảm khái mênh mang. Cậu cùng trung sĩ Hy đi khắp các vọng
gác rồi trở về phòng nằm thao thức chờ phiên tuần
tra kế tiếp. Quá nửa đêm, cậu ngủ thiếp đi. Trung sĩ
Hy cứ để yên không gọi dậy. Anh ta tiếp tục tuần tra
một mình đến sáng.
Sau bữa điểm tâm, Tân và Bính
cùng nhau đi bộ sang tiểu đoàn nhận súng đạn và về.
Gian nhà trống trơn, trung sĩ Hy đã dẫn cả trung đội
xuống chân đồi để tiếp tục làm hàng rào phòng thủ.
Tân ngồi xuống giường, lấy súng ra, mân mê từ đầu
nòng đến cuối báng. Khi bàn tay lướt qua bộ máy cò,
cậu nhớ lại, khi sắp bước chân vào quân ngũ, đã hứa
lúc ra chiến trường, không bao giờ chạm tay vào cò súng.
Cậu thì thầm nhắc lại lời tự hứa rồi đặt súng
lên giường kéo chiếu đậy lại. Cậu định đứng lên
đi xuống đồi thì có người bước vào cửa. Anh ta lên
tiếng:
- Chào chuẩn úy.
Tân hơi sững lại vài giây rồi
đáp lời:
- Chào…, chào thượng sĩ Lập.
Lập bước vào giữa phòng:
- Chuẩn úy mới đi lãnh súng về?
- Vâng, tôi mới qua tiểu đoàn
lãnh về.
- Bây giờ chuẩn úy sửa soạn
đi đâu vậy?
- Tôi định xuống coi anh em làm
tuyến phòng thủ dưới chân đồi.
- Có trung sĩ Hy dưới đó được
rồi. Hy khá lắm, rất rành việc, chuẩn úy đừng lo.
Chuẩn úy cứ ở lại đây, tôi muốn nói chuyện với
chuẩn úy một chốc.
Tân gật đầu:
- Vâng, tôi cũng muốn thế.
Thượng sĩ Lập nhìn thẳng vào
mắt Tân vài giây rồi xuống giọng hỏi nhỏ:
- Chuẩn úy nhận ra tôi rồi phải
không?
Tân gật đầu:
- Lúc mới gặp, tôi hơi ngờ ngợ
vì hơn sáu năm rồi. Có vài thay đổi trên khuôn mặt của
anh. Nhưng khi nghe giọng nói thì tôi không còn nghi ngờ gì
nữa, anh Quý ạ.
Giọng Lập trầm xuống, buồn
buồn:
- Phải rồi, suốt gần hai năm
trời trong khám, nằm kề bên nhau, mỗi đêm rì rầm nói
chuyện, thì dù nhắm mắt lại cũng nhận ra nhau. Cậu bé
học sinh đi tù ngày xưa bây giờ là một sĩ quan của
quân đội Cộng hòa rồi.
- Tại sao anh đổi tên là Lập?
- Chuẩn úy không đoán được lý
do hay sao? Tôi là thằng tù vượt ngục, phải đổi tên,
đổi họ thì mới trốn được sự truy lùng của công an
mật vụ.
- Bây giờ, anh có thể kể cho
tôi nghe chuyện cũ của anh được không? Sau khi anh đi
rồi, tôi vẫn nghĩ đến anh và lo lắng không biết từ
ngày đó cuộc đời anh ra sao.
Lập gật đầu:
- Cám ơn chuẩn úy. Tôi biết dạo
đó chuẩn úy có rất nhiều cảm tình đối với tôi; bây
giờ cảm tình đó chắc vẫn còn, vì vậy tôi đâu có
cần dấu chuyện cũ của tôi đối với chuẩn úy. Chuẩn
úy còn nhớ cái đêm tôi vượt ngục ở khám Tân hiệp
Biên hòa hay không?
- Còn nhớ. Đêm đó trời mưa
to, anh cạy miếng ván của vách ở đầu nằm, tôi ngủ
say quá không biết.
Lập cười:
- Không phải cạy trong đêm đó
đâu. Tôi đã lén cạy trước đó nhiều ngày, vào những
lúc anh em đi lao động, rồi đậy hờ lại, không ai để
ý cả. Vào nửa đêm hôm đó, tôi chỉ lật tấm ván lên
là ra khỏi phòng giam rồi nhẹ nhàng khép tấm ván lại.
- Sau đó anh chui vào cái giếng
tưới rau, đào ngách thông qua hàng rào kẽm gai để ra
ngoài. Trong vài giờ từ nửa đêm về sáng, tại sao anh
có thể đào xong cái ngách đó rồi moi lên mặt đất
được?
- Tôi đã đào mấy ngày liền
trước đó.
Tân ngạc nhiên:
- Nhưng tại sao chẳng ai phát
hiện ra? Lúc đó tôi cùng anh tưới rau khu đó, tại sao
tôi không biết gì cả?
- Chuẩn úy có nhớ lúc đó cái
dây gàu của tôi bị đứt, chuẩn úy bảo tôi nối lại
nhưng tôi không nối?
- Không, lâu quá rồi, tôi không
nhớ chi tiết đó.
- Tôi cố tình chặt đứt dây
gàu để có cớ leo xuống múc nước tận bên dưới, tốn
nhiều công hơn đứng trên miệng giếng dùng dây kéo nước
lên. Cũng may, giếng sâu không quá ba mét. Cứ mỗi lần
múc nước là tôi đào một chút vào ngách thông rồi múc
cả đất và nước lên tưới.
- Phải, tôi nhớ rồi. Sau khi anh
vượt ngục xong rồi thì cả vạt rau đó cằn cỗi vì bị
đất sét bó quanh gốc cây rau và phủ đầy mặt đất.
Anh em phải nhổ bỏ tất cả, cuốc lên, bón phân trồng
lại.
Lập cười:
- Tôi đã làm khổ anh em. Tôi moi
như thế một cách đều đặn cho đến khi nhắm chừng
cái ngách đã xuyên qua các lớp kẽm gai bên trên thì tôi
quyết định ra đi. Cũng may cho tôi, đêm đó mưa, trời
tối lắm, tôi lần ra hàng rào. Ngang qua chỗ trống tôi
phải bò, cuối cùng rồi cũng tới nơi. Tôi nhảy ngay
xuống giếng, trườn qua cái ngách và bắt đầu moi lên
với cái xẻng cụt cán để sẵn ở đáy. Tôi vừa moi
vừa dùng chân đạp đất vụn ra giếng. Độ gần hai giờ
đồng hồ, tôi thông lên được trên mặt đất. Tôi ló
đầu lên, gió khuya mát lạnh làm tôi khỏe ra và phấn
chấn vô cùng. Tôi hít mạnh vào một hơi dài cho lồng
ngực căng đầy bầu không khí tự do. Chỗ đó có cỏ
cao, nhìn lên chỉ thấy một khoảng trời nho nhỏ, lấp
lánh sao. Trận mưa đêm vừa chấm dứt, tôi vừa mừng,
vừa lo.
- Tại sao?
- Mừng là trời tạnh ráo thì đi
dễ dàng và nhanh chóng hơn. Tôi ước lượng lúc đó
khoảng hai giờ khuya, tôi còn chưa đầy bốn giờ để đi
khỏi nơi đó, thoát sự truy đuổi trước khi trời sáng.
Mừng là như thế, còn lo là, trời quang mây tạnh, lính
trên hai vọng gác có thể nhìn thấy khi tôi nhỏm dậy để
buớc tới. Tôi nhón cổ lên nhìn. Phía trước tối đen.
Cuối khoảng đất trống độ non ba trăm mét là làng xóm
đang ngủ say. Tôi nhìn lại phía sau. Xuyên qua những ngọn
cỏ lưa thưa và mấy lớp kẽm gai, ánh đèn soi sáng các
dãy trại tù, nơi tôi đã bị giam cầm suốt hai mươi
tháng. Tôi hình dung, anh em đang nằm sắp lớp trên hai bục
xi măng. Tôi hình dung chuẩn úy – à, chưa phải là chuẩn
úy mà là cậu Tân non trẻ và dễ thương – nằm co quắp
như con tôm, mắt nhắm nghiền, khuôn mặt chưa sạch nét
thơ ngây mà đã làm thân một người tù chính trị. Tôi
cảm thấy lòng bùi ngùi khi nghĩ rằng kể từ hôm nay tôi
không còn chung sống với cậu bé ấy và tất cả anh em,
không cùng sắp hàng xuống nhà cơm và về đêm không còn
nghe tiếng mớ của vài người trong không gian thanh vắng.
Tôi đưa tay vẫy chào và quay lại, bắt đầu vạch cỏ
để trườn về phía trước.
Tân ngắt lời:
- Tôi nghe nói chung quanh hàng rào
kẽm gai, người ta có gài mìn, anh có sợ không?
- Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đến
các họng súng từ hai trạm gác mà thôi. Tôi muốn nhanh
chóng thoát khỏi tầm bắn của lính gác, nhưng không dám
tiến nhanh sợ bị lộ. Tôi bò được một đoạn thì
đứng dậy, lom khom bước tới. Cuối cùng, tôi cũng đến
được nương rẫy của dân. Tôi dừng chân, đứng thẳng
dậy, quay lại nhìn, thấy đã đi được một khoảng khá
xa. Những bóng đèn của trại chỉ còn là những đốm
sáng nho nhỏ, còn những dãy nhà nhốt tù thì gần như
chìm hẳn trong bóng tối. Sau đó tôi rảo bước không
ngừng vì đường đi khá dễ dàng. Chẳng bao lâu, tôi lọt
vào một vườn cao su um tùm. Tôi cắm cúi bước về phía
trước, không cần biết mình tới đâu, miễn là càng xa
nhà tù càng tốt. Tôi ra khỏi vườn cao su, băng qua nhiều
nương rẫy, nhiều con đường làng; tôi cố tránh những
xóm nhà để khỏi bị đàn chó quỉ quái rượt theo sủa
inh ỏi. Khi đến được một cái chòi để trống giữa
những đám bắp, khoai sắn tươi tốt, tôi cảm thấy mệt
rã rời. Tôi chui vào nằm ngửa trên nền đất, nghe văng
vẳng có tiếng gà gáy. Tôi nhắm đôi mắt nặng trĩu và
lập tức ngủ say, chỉ giật mình thức giấc thì trời
đã sáng tỏ. Tôi ngồi dậy, nhìn xuống, bật cười thấy
quần áo mình dính đầy bùn đất. Bên ngoài nương rẫy
xanh tươi, mặt đất sạch không còn cỏ dại nên hi vọng
hôm nay, người ta không ra đây làm việc. Tôi đến cái
giếng bên cạnh chòi, nhìn quanh một lần nữa và cởi áo
quần ra tắm giặt sạch sẽ, rồi mặc chiếc quần ngắn
và phơi quần áo ướt lên cái sào gác ngang. Số tiền
mang theo gói trong bao nhựa, còn nguyên vẹn trong túi áo.
- Anh ở trong chòi đó mấy ngày?
- Từ sáng đến trưa. Tôi nghĩ
rằng, khi biết được tôi vượt ngục, người ta sẽ đổ
xô đi tìm chỉ nội trong buổi sáng mà thôi, nên tôi ngồi
trong chòi không dám ló ra. Khoảng ba giờ xế chiều, tôi
mặc lại áo quần đã khô ráo sạch sẽ và thản nhiên
đi vào làng. Tôi lên chiếc xe ngựa chở khách và về
thành phố Biên hòa. Từ đó tôi đi xe đò và đến Sài
gòn khi trời vừa tối. Đêm đó tôi ngủ tại nhà chị
tôi ở khu Bàn cờ và ngay sáng hôm sau về Trà vinh tìm vợ
tôi.
- Anh vượt ngục, không có giấy
tờ gì thì sao dám đi?
- Có chứ. Điều may mắn là khi
bị bắt, tôi không mang theo giấy căn cước. Vợ tôi kịp
dấu trước khi lính đến xét nhà.
- Nhưng anh chưa trở lại nhà cũ
thì làm sao có giấy căn cước?
- Chuẩn úy có nhớ thằng nhỏ
con tôi bị sốt xuất huyết chết không?
- Có, và anh đau đớn quá nên
nặng lời với chị.
- Phải rồi, lúc đó tôi bậy
lắm. Tình cha con, sao bằng tình mẹ con. Hơn nữa, gần
hai năm tôi ở tù, hai mẹ con sống với nhau. Vợ tôi vẫn
đi bán, chịu trăm cay ngàn đắng để nuôi con. Đối với
vợ tôi, thằng Tí còn hơn tất cả vàng ngọc trên thế
gian nầy. Thế mà tôi không an ủi cô ta lại nặng lời
mắng nhiếc. Từ nhà thăm nuôi của khám Tân hiệp, cô ấy
trở về trả nhà trọ, mang tất cả đồ đạc đến gởi
cho chị tôi. Lúc tôi trốn về, chị tôi lấy ra trao lại
cho tôi. Tôi lục thấy áo quần, giày dép của tôi, một
số áo quần của thằng Tí, giấy căn cước của tôi và
xấp ảnh của vợ chồng và con tôi. Tôi cầm áo quần
của thằng Tí, úp vào mặt và lặng lẽ khóc một hồi
lâu. Sáng hôm sau, tôi mang theo căn cước của tôi và xấp
hình của thằng bé, lên xe đò về Trà vinh để tìm vợ.
- Nhà chị có ở tại thị xã
không?
- Không, còn đi vô sâu, gần tới
bờ biển. Thời đánh Pháp, vùng đó là chiến khu. Sau
hiệp định Genève, chính quyền quốc gia thành lập trở
lại. Lúc tôi về thì chỗ đó lộn xộn lắm rồi và trở
thành vùng xôi đậu, ban ngày là của quốc gia nhưng tắt
mặt trời, chính quyền và dân vệ rút vô trụ sở và vô
đồn thì vùng đó thuộc về Việt cộng.
- Anh có dám vô tới trong đó để
gặp vợ anh không?
- Có chứ, tôi vào tới nơi. Vợ
tôi có ở nhà. Thấy tôi vào, cô ấy ngạc nhiên, đứng
yên như trời trồng và nhìn tôi sửng sốt, nước mắt
quanh tròng.
- Chị còn giận anh không?
- Vẫn còn. Cô ta vẫn chưa nguôi
ngoai về cái chết của thằng Tí. Tôi bảo cô ta chuẩn
bị theo tôi về Sài gòn. Cô ấy lắc đầu bảo về đó,
nhớ thằng Tí, cô lại muốn tự tử để gặp nó lại
dưới suốt vàng. Về phần tôi, tôi cũng tự thấy khó
có thể về sống tại thủ đô. Tôi quen biết nhiều
người ở đó. Tôi là tù vượt ngục, về chốn cũ là
có thể bị bắt không sớm thì muộn. Cô ta hỏi tôi có
chịu ở lại dưới đó sống và làm ruộng được không?
Tôi bảo để suy nghĩ lại. Tôi sinh ra và lớn lên ở
thành phố. Tôi quen với công việc của người thợ, chứ
đâu có biết gì về nghề nông và chưa hề sống ở vùng
đồng quê hẻo lánh. Hơn nữa, ở đây bắt đầu mất an
ninh rồi. Ban đêm, không khí rờn rợn, nhà nào cũng tắt
đèn, tắt lửa tối thui, cần thiết lắm cũng chỉ đốt
một ngọn đèn nho nhỏ leo lét mà thôi. Tôi nhớ ánh đèn
điện của Sài gòn và cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng
phải sống quanh năm ở nơi nầy. Tuy nhiên, tôi thương vợ
tôi quá và sau hai ngày suy nghĩ, tôi hơi nghiêng về giải
pháp chấp thuận ở lại để nối tiếp tình nghĩa vợ
chồng. Bỗng nhiên, có một việc xảy ra làm cho tôi bỏ
ý định nầy.
- Chuyện gì vậy? Chuyện vượt
ngục bị bại lộ?
Lập gật đầu:
- Đúng, nhưng không phải bại lộ
với chính quyền xã ấp của quốc gia đâu. Tôi kể
chuyện vượt ngục cho vợ tôi nghe, vợ tôi kể lại với
mẹ cô ta, thế là nhiều người khác biết. Độ một
tuần lễ sau khi tôi đến, một người đàn ông vào nhà.
Ông ta tự giới thiệu là người của cách mạng, hết
lời ca tụng chuyện vượt ngục của tôi và đề nghị
tôi ở lại đây để làm du kích thoát ly, nghĩa là rời
khỏi gia đình, sống lang thang nhà nầy qua nhà khác, ngủ
bờ, ngủ bụi. Nghe nói tôi hoảng quá. Chuẩn úy có nhớ
lý do tôi bị bắt lúc trước không?
- Có, anh bị dụ dỗ vào tổ
chức bí mật của Việt cộng nhưng chưa hẳn là người
của cách mạng.
- Đúng vậy, trí nhớ của chuẩn
úy khá lắm. Thực ra tôi chưa chính thức vào tổ chức
và chưa hoạt động ngày nào. Thế mà tụi nó bị bắt
và khai cho tôi. Đau đớn cho tôi thực. Trước đây, tôi
cũng có chút cảm tình với cộng sản, nhưng từ cái vụ
đó, tôi chẳng còn chút thiện cảm nào nữa. Chính cái
thằng Việt cộng khai cho tôi đã làm tan nát đời tôi,
tan nát gia đình chúng tôi. Nếu tôi không bị bắt thì
con tôi không chết. Một mình vợ tôi vừa lo cho sự sống
của hai mẹ con, lo bới xách tiếp tế cho tôi hàng tuần
thì còn sức đâu mà săn sóc cho con khi nó bệnh. Do đó,
khi nghe cái ông đó bảo tôi ở lại làm du kích thì tôi
muốn phát sốt rét lên luôn. Lúc đó đã hơi khuya. Tôi
nhìn ra ngoài trời tối đen, có hai con đom đóm như hai
oan hồn bay vật vờ, vờn nhau từ ngọn cây nầy sang ngọn
cây khác. Ừ, nếu tôi từ chối đi du kích thì đời sống
của tôi sẽ trở nên bất ổn, vật vờ như hai con đom
đóm ngoài kia.
- Rồi anh từ chối?
- Không, tôi không dám từ chối
thẳng thừng mà chỉ dám xin ông Việt cộng cho tôi suy
nghĩ vài hôm. Gần như ra lệnh, ông ấy bảo rằng cho tôi
suy nghĩ một ngày thôi. Tối mai ông ta sẽ trở lại. Nói
xong, ông ta bước ra cửa.
- Hôm sau, ông ta trở lại?
- Đúng vậy. Thấy tôi vẫn chưa
trả lời, ông ta nói thẳng rằng tôi muốn ở lại đây
thì phải vào du kích. Nếu không thì thế nào cũng có
người tố cáo tôi vượt ngục và bị bắt trở lại.
Ông ta gằn giọng ở câu sau cùng, trong đôi mắt thoáng
có hung quang xuất hiện. Tôi hiểu rằng nếu tôi tiếp
tục ở đây mà không vào du kích thoát ly thì chính ông
ta sẽ mượn tay nhà cầm quyền quốc gia trừng trị tôi.
Tôi ngồi im chưa biết trả lời thế nào thì đúng lúc
vợ tôi bưng nước ra mời, tôi thấy cái cách lão nhìn
cô ấy thì tôi hiểu tất cả.
- Anh có để ý thái độ của vợ
anh, à… của chị ấy đối với lão Việt cộng đó thế
nào không?
- Khó nói lắm nhưng rõ ràng
không có ác cảm đối với lão.
- Thế thì anh ở lại làm sao
được. Nếu anh chịu vào du kích thì trước sau gì, lão
cũng tìm cách giết anh hay đẩy đi nơi khác để đoạt
vợ anh.
- Đúng vậy. Tôi suy nghĩ suốt
đêm và thấy mình đang ở trong tình trạng hết sức nguy
hiểm, dù có vào du kích hay không. Lão ta có thể giết
tôi một cách dễ dàng. Ngay sáng hôm sau, tôi nói lời từ
giã với vợ tôi và bà mẹ. Vợ tôi đứng im khóc không
nói một lời nào.
- Còn bà mẹ?
- Bà mẹ cũng không cản trở.
Tôi biết bà là người hiền lành phúc hậu và có lòng
thương tôi. Thế mà khi tôi xin từ biệt, bà không hề có
ý lưu tôi lại. Bao nhiêu đó đủ cho tôi thấy mình cần
phải đi khỏi nơi đó càng sớm càng tốt. Thế là tôi
lên đường, lòng đau như cắt.
- Đau lắm chứ. Tôi biết anh
chịu nguy hiểm đến tính mạng, vượt ngục là cốt để
tìm lại vợ mình.
- Cám ơn chuẩn úy, hiểu cho tôi
như thế cũng là niềm an ủi cho tôi.
- Anh về lại Sài gòn?
- Vâng, tôi về nhà chị tôi ở
Bàn cờ, nói cho chị tôi rõ mọi chuyện. Chị tôi về
ngay quê chồng ở Nha trang thu xếp cho tôi đến đó sống
với cha mẹ chồng của chị ấy. Tôi ở đó, đi làm thợ
hồ, sống những ngày thực hồi hộp, nơm nớp lo sợ gặp
người quen nào đó biết mình là tù vượt ngục. Dần
dần, tôi nhận ra rằng chỉ có một chỗ giúp mình an
toàn chấm dứt chuỗi ngày lo lắng.
- Ở đâu? Vào chiến khu?
Lập cười:
- Nếu là chiến khu thì tôi đã
ở lại Trà vinh rồi. Chỗ an toàn mà tôi nói đó chính
là quân đội. Để chắc ăn, tôi phải đổi tên họ.
- Và anh đã bỏ tên Quý để lấy
lại tên Lập?
- Đúng vậy. Nguyễn thành Lập.
- Nhưng khai sanh thì sao?
Lập cười:
- Rất dễ. Trong số cả triệu
người di cư vào đây, rất nhiều người không mang theo
khai sanh nên chỉ cần hai người chứng là tòa tuyên án
“thế vì khai sanh” hợp lệ.
- Vậy là anh làm khai sanh kiểu
đó và đăng vào lính?
- Chưa. Trước đây, tôi đã học
đến đệ ngũ rồi bỏ học đi làm. Nay tôi muốn đi học
hạ sĩ quan chứ không muốn làm binh nhì. Muốn thế, cần
phải có bằng trung học đệ nhất cấp. Thế là tôi nạp
đơn đi thi và đậu.
Tân ngạc nhiên:
- Anh bỏ học từ lâu mà có đủ
sức thi đậu ngay à?
Lập tiếp tục cười:
- Sức gì đâu. Tôi may mắn ngồi
gần bên một thí sinh giỏi. Nó là học sinh nhưng không
biết tại sao lại thi trong hội đồng thí sinh tự do với
tôi. Tôi liếc qua thấy nó làm bài được lắm, nên bảo
nó đưa giấy nháp qua cho tôi, nhưng nó không chịu. Tôi
viết vào một mảnh giấy: “Anh cần bằng trung học đệ
nhất cấp để đi học hạ sĩ quan, hiểu chưa?”. Tôi
đưa giấy qua cho nó. Tôi làm cầu may thế mà nó chịu
quăng giấy nháp qua cho tôi. Ngày thi thứ nhất êm xuôi,
nhưng qua ngày thứ nhì thì giám thị để ý. Anh ta cứ
đứng gần bên thằng học trò nên nó không dám đưa giấy
qua cho tôi nữa.
- Rồi anh làm thế nào?
- Tôi làm như hôm qua nhưng bây
giờ viết chữ khá to để ra đầu bàn cho giám thị đọc:
“Thưa thầy, tôi cần bằng trung học xin đi hạ sĩ quan
ra chiến trường đánh giặc giữ nước để các thầy cô
yên tâm ở lại thành phố mà đào tạo nhân tài cho xã
hội.” Người giám thị đọc xong thì mỉm cười, mang
tờ giấy lên bàn giáo sư nói rì rầm với cô giám thị
thứ hai. Cô nầy cũng mỉm cười gật đầu. Sau đó hai
giám thị để yên cho thằng học sinh trao giấy nháp cho
tôi. Thế là tôi thi đậu, đi học trường hạ sĩ quan
Đồng đế rồi về sư đoàn Chín cho đến nay. Hôm qua,
gặp chuẩn úy tôi mừng lắm nhưng không dám nhìn người
quen.
- Anh sợ tôi tố cáo à?
- Không, nếu sợ thì tôi đã bỏ
trốn rồi chứ sao còn tìm đến đây nói chuyện với
chuẩn úy? Còn chuẩn úy ra tù hồi nào, tại sao lại mang
lon sĩ quan và lưu lạc đến đây?
Tân kể cho Lập nghe quãng đời
mình kể từ khi ra tù cho đến lúc bị động viên. Lập
suy nghĩ một chút rồi bảo:
- Chuẩn úy nầy, tôi thấy an
ninh ở miền Nam nầy quá lỏng lẻo. Chuẩn úy là cán bộ
Việt cộng, ở tù ra và trở thành sĩ quan chỉ huy trong
quân đội. Còn tôi là tù vượt ngục rồi cũng trở
thành hạ sĩ quan. Đó là điều đáng lo. Chuẩn úy có
thấy không?
Tân gật đầu:
- Quả thực là điều đáng lo.
Và vì vậy, tôi nghĩ rằng, trong quân đội và trong bộ
máy chính quyền miền Nam, chắc chắn không thiếu gì
người do cộng sản cài vào để phá hoại hoặc nằm yên
chờ cơ hội.
- Tôi nghe một tù binh kể lại
thì ở ngoài Bắc, cộng sản kỹ lưỡng lắm. Họ đặt
vấn đề nghi ngờ trên hết. Ngay trong nội bộ, họ cũng
không tin nhau hoàn toàn. Với người ngoài và nhất là
người có quá khứ chống lại họ thì sự nghi ngờ còn
ghê gớm hơn nữa. Những người nầy bị trù dập, không
bao giờ có được vị trí công dân tầm thường, nói chi
đến chuyện chen chân vào quân đội hay chính quyền.
Chuẩn úy có biết điều đó không?
- Có, tôi có nghe điều đó.
Những người ở miền Bắc mà bị nghi ngờ thì khổ vô
cùng.
- Tôi nghĩ lại thấy mình may mắn
sống ở miền Nam nầy, chứ như ở miền Bắc thì cái
thân của chúng mình hạ xuống làm trâu, làm chó cũng
chưa chắc được yên.
Tân gật đầu:
- Không riêng gì miền Nam. Bất
cứ xã hội nào theo chế độ tự do, có tôn chỉ nhân
đạo, trọng nhân phẩm con người cũng đều có điểm
yếu là khó ngăn chận kẻ thù xâm nhập vào guồng máy
cai trị của mình.
- Thì đành vậy thôi. Nếu miền
Nam cũng gắt gao như miền Bắc thì thôi để cho cộng sản
vào đây thống trị cho rồi chứ đánh nhau làm chi nữa.
Lập đứng dậy và nói tiếp:
- Thôi, bây giờ, tôi phải về
lo công việc của đại đội. Chuẩn úy nghỉ ngơi hay
xuống coi trung đội làm việc cũng được. À, chuẩn úy
nên chọn trong trung đội mình cậu binh sĩ nào dễ thương
để làm tà lọt.
- Tà lọt là cái gì?
- Là đứa theo mình giúp đỡ
những việc lặt vặt như lo chỗ ngủ, mang lương thực
lúc đi hành quân chẳng hạn. Trung sĩ Hy biết tất cả
trung đội. Chuẩn úy bảo Hy nó chọn cho.
- Cám ơn anh Lập.
Tân ra ngoài và xuống chân đồi
nơi trung đội đang làm hàng rào với những trụ cây rừng
và những cuộn kẽm gai. Trung sĩ Hy bước đến, vui vẻ:
- Chào chuẩn úy, anh em làm việc
tốt lắm. Nội sáng nay là hàng rào nầy xong xuôi. Ngày
mai bắt đầu gài một số mìn và lựu đạn bên trong
hàng rào.
Tân ngạc nhiên:
- Tại sao mìn và lựu đạn lại
gài bên trong mà không gài bên ngoài?
- Đó là lệnh của trung úy đại
đội trưởng. Trung úy giải thích, gài bên ngoài e thú
rừng dẫm phải nổ tung. Ở đây thỉnh thoảng voi về cả
bầy đi ào ào dưới chân đồi. Cọp, nai, mển cũng
thường về. Cái hàng rào cốt yếu ngăn thú rừng về
phá phách.
- Ngăn cả Việt cộng nữa chứ.
- Với Việt cộng thì hàng rào
chẳng ngăn được đâu, nhưng lớp mìn và lựu đạn bên
trong là yếu tố bất ngờ. Ở tất cả các cứ điểm,
mìn và lựu đạn được gài bên ngoài hàng rào phòng
thủ. Ở đây, sau khi vượt qua được hàng rào rồi thì
chúng sẽ mất cảnh giác thế là vướng vào dây gài mìn
và lựu đạn của mình. Lúc đó hàng rào có tác dụng là
không cho chúng rút lui nhanh chóng trước hỏa lực của
chúng ta từ trên đồi bắn xuống. Mấy hôm rồi anh em
làm việc cật lực cho xong vì bữa nay là mồng một âm
lịch, sắp có trăng non rồi.
- Tại sao lại có chuyện trăng
non, trăng già ở đây?
- Những ngày có trăng non là
những ngày phải đề phòng gắt nhất. Đầu hôm có
trăng, Việt cộng lợi dụng ánh trăng non để di chuyển
áp sát vào chỗ chúng ta. Đến khoảng nửa đêm, trăng
lặn, trời đất tối om là Việt cộng bắt đầu tấn
công. Vì vậy, trung úy dặn, trong những đêm thượng tuần
âm lịch, chúng ta phải canh gác tuần tra thực kỹ lưỡng.
Thôi, chúng ta đi xem qua một vòng rồi cho anh em về nghỉ.
Tân theo trung sĩ Hy đi dài theo
hàng rào. Đi tới đâu, Tân cũng được anh em chào hỏi
một cách vui vẻ, tình đồng đội thực thắm thiết nơi
chốn núi rừng hoang vu nầy.
*
* *