Một cuộc chiến tranh dài
Tập II
Chương 6: Quân trường
(1)
Bước vào quân trường là
bắt đầu ngay những ngày vất vả. Ngày đầu lãnh quân
trang và vũ khí. Khoác bộ quân phục vào người, ai cũng
thích thú với ý nghĩ đã trở thành người quân nhân
thực thụ. Niềm hãnh diện ngời lên trong những đôi mắt
trẻ trung của họ. Sau đó là những ngày mệt nhọc với
những bài học quân phong quân kỷ, những buổi tập đi
đứng ngoài trời, dưới cái nắng thiêu đốt của mùa
hạ. Mồ hôi ướt đẫm quân phục, mồ hôi rơi lả tả
xuống thao trường.
Hai tuần lễ nhọc nhằn trôi
qua. Hôm nay là chúa nhật, ngày thăm viếng đầu tiên của
gia đình các tân khóa sinh. Mọi người đều dậy thực
sớm, ăn mặc chỉnh tề, nôn nao chờ đợi. Riêng Tân thì
vẫn thản nhiên vì cậu biết chẳng có ai đến thăm
mình. Một tuần trước đây, quân trường cho phép viết
thư về nhà để báo tin ngày thăm viếng lần đầu, mọi
người cắm cúi trên trang giấy còn Tân thì đi thơ thẩn
trên những con đường quanh khu nhà ở của sinh viên. Bây
giờ, trong lúc mọi người ra phía trước cổng để chờ
đón thân nhân thì cậu xuống quán ngồi uống nước một
mình. Cậu nhớ lại những năm ở tù, trong những ngày
thăm nuôi, cậu cũng lang thang cô độc như giờ nầy. Cảnh
cô đơn cứ lặp đi lặp lại mãi trên con đường đời
của cậu. Buổi trưa, sau khi cơm nước xong, Tân ghé xuống
câu lạc bộ mua mấy tờ báo và về phòng.
Khi mặt trời xế bóng, ngày thăm
viếng chấm dứt, khóa sinh bịn rịn từ giã người thân
và lần lượt về phòng. Tân đang nằm trên giường thì
nghe tiếng gọi thực to của Bính:
- Anh Tân, cả buổi sáng anh đi
đâu? Em về phòng tìm anh hai lần mà không gặp.
- Em tìm anh làm gì? Hôm nay có ai
đến thăm Bính không?
- Có ba em, chị Mai và thằng
Bình. Ba em và chị Mai muốn gặp anh nhưng em tìm không ra.
- Nhưng tại sao ba em và Bạch Mai
biết anh ở đây?
- Chính em nói. Cả hai người đều
sửng sốt. Chị Mai nghe nói có anh ở đây thì mặt mày
tái mét. Ba em thì mừng rỡ lắm, hỏi thăm tíu tít. Ông
trách em tuần trước, viết thư về nhà không báo cho ông
biết anh nhập ngũ chung với em. Thực tình em rất lười
viết thư nên chỉ báo một cách vắn tắt cho gia đình
biết ngày giờ thăm viếng, cách thức đến trường mà
thôi, chứ không nói gì khác.
- Bác trai còn nhớ đến anh à?
- Nhớ chứ. Ba em bảo em đi tìm
anh để ông chúc mừng.
Tân cười:
- Nghe anh bị động viên thì phải
buồn cho anh chứ sao lại mừng?
Bính cười theo:
- Vâng đúng vậy, trong hoàn cảnh
của anh, bị gọi nhập ngũ là một điều đáng buồn vì
phải từ giã cuộc sống sung sướng của giáo sư để
nhận chịu sự cực nhọc và nguy hiểm của người lính.
Em nói như thế và ba em bảo rằng ông chúc mừng cho anh
cũng có lý do.
- Lý do thế nào?
- Trước đây ba em có hoạt động
cho Việt minh và suýt nữa đi tù, anh có biết không?
- Có, anh vẫn còn nhớ. Lúc còn
sống, má em đã kể anh nghe chuyện đó. Sau khi suýt bị
Tây bắt, bác trai thôi hoạt động nhưng vẫn giữ nhiều
cảm tình đối với kháng chiến. Trước đây anh có thể
đến và thân thiết với gia đình em cũng chính là nhờ
cái cảm tình của bác với người làm cách mạng.
- Đó là chuyện xưa cũ, còn bây
giờ cảm tình đó không còn nguyên vẹn nữa, nhất là từ
sau khi Việt cộng thành lập Mặt trận Giải phóng miền
Nam, thổi bùng ngọn lửa chiến tranh để chiếm cho hết
cả nước. Ba em cho rằng gây trở lại cuộc chiến tranh
trên đất nước nầy là điều sai lầm, là tội ác của
người cộng sản. Ba em muốn tất cả những người đã
từng tham gia cách mạng trước kia đều có quan điểm như
ông thì đương nhiên chiến tranh tàn lụi và dân mình sẽ
được hưởng thái bình. Vì vậy khi nghe anh nhập ngũ,
ông mừng rỡ vì tìm được người đồng quan điểm.
Tân thở dài:
- Bác muốn anh từ giã cộng sản
cũng phải vì trong thời gian anh hoạt động cho họ anh đã
có tội rất lớn đối với gia đình em.
Bính đặt tay lên vai bạn:
- Anh lại nhắc lại chuyện của
chị Mai nữa rồi. Anh không nên đeo mãi trong lòng cái mặc
cảm tội lỗi đó. Ba em và cả gia đình em không có ý
trách anh đâu. Em biết, ba em đã suy nghĩ rất nhiều và
đã nhận ra cái sai của người cọng sản. Sau đó, mỗi
lần thấy có ai tỏ ra có cùng quan điểm với mình thì
ba em mừng rỡ. Càng gặp được nhiều người như thế
thì ba em càng yên tâm với nhận định của mình. Đó là
tâm lý bình thường của con người và không liên quan gì
đến việc rủi ro của chị Mai, anh không nên mặc cảm
về vấn đề đó nữa nhé.
- Cám ơn em. Bác trai còn nói gì
thêm nữa không?
- Có. Ông bảo rằng, trước đây
ông tham gia kháng chiến là để giành độc lập. Bây giờ
thì ông thấy rõ mục đích của những người làm cách
mạng ở Việt nam không chỉ vậy thôi mà còn muốn tiến
xa hơn nữa, đó là áp đặt chế độ cộng sản lên đất
nước nầy. Chính vì chỗ đó mà dân mình phải chịu
đựng chiến tranh lâu dài. Cũng cùng là thuộc địa của
thực dân mà những nước trong vùng đều đã độc lập,
thái bình chứ đâu có phải bị chia cắt và đau khổ như
Việt Nam mình đâu.
- Thế ý kiến của em thế nào?
- Em nhớ trước đây lâu lắm em
có nói vấn đề nầy với anh rồi. Lúc ấy, em còn nhỏ
nên chỉ lặp lại ý kiến của ba em. Từ đó em luôn suy
nghĩ và đến bây giờ, em hoàn toàn đồng ý với ba em.
Hai cha con mà nói chuyện vơi nhau thì luôn luôn tâm đắc.
Em thường bắt đài phát thanh Hà nội để xuyên qua sự
tuyên truyền, đoán biết ý đồ của họ. Em nghe họ luôn
luôn kể công đối với đất nước. Thực ra họ làm hại
cho tổ quốc và dân tộc chứ không phải là có công.
- Tại sao vậy?
- Điều đó quá rõ. Hiện nay
trên thế giới đang có cuộc đối đầu giữa hai khối
tư bản và cộng sản. Cuộc đối đầu đó rất nguy hiểm
nên hai ông khổng lồ không dám trực tiếp chạm trán
nhau mà chỉ xúi đàn em đụng nhau ở một vài vùng trên
thế giới để thử sức và thử vũ khí. Những người
cộng sản Việt Nam mang cả Tổ quốc mình ra làm cái chỗ
thử sức đó của hai anh khổng lồ, trong khi những nước
khác thì vội xa lánh bằng cái phong trào gọi là “Không
liên kết”. Đó, lãnh tụ của người ta khôn ngoan như
thế cho nên người dân của họ được nhờ, trong khi
người cộng sản Việt Nam thì làm ngược lại. Họ không
phải là những người có tội hay sao? Em cho rằng sau nầy
lịch sử sẽ công minh lên án điều đó.
- Thôi, ở Việt Nam bây giờ,
chính trị như là một mê lộ trong đó trắng đen, phải
trái lẫn lộn nhau, thực đáng chán. Anh em mình chuẩn bị
đi ăn cơm. À, anh Thảo đâu không thấy nhỉ?
Bính cười thực dễ thương:
- Hôm nay có ông thầy của anh ấy
lên thăm người em ở đại đội Bảy nên anh Thảo cũng
ngồi vào nói chuyện suốt ngày. Hết giờ thăm viếng,
hai anh rủ nhau xuống câu lạc bộ, bảo em ghé về đây
mời anh xuống đó.
Bính đưa tay chỉ một giỏ xách
ở chân giường:
- Có thức ăn của chị Mai đưa
vào nữa. Chị ấy đã thức suốt đêm rồi để nấu
nướng những thứ nầy. Nghe nói có anh trong nầy, chị
mừng lắm, nhắc đi nhắc lại rằng những thứ nầy hai
anh em phải dùng chung. Bây giờ chúng mình đi, anh Thảo và
người bạn đang đợi dưới đó.
* *
*
Sau một tháng tập luyện đầy
khó nhọc, anh em đã quen với đời sống quân ngũ nên
giai đoạn tân khóa sinh được tuyên bố kết thúc. Một
buổi lễ đơn giản nhưng thực trang nghiêm và cảm động
được tổ chức tại vũ đình trường vào đêm thứ bảy,
dưới quyền chủ tọa của đại tá chỉ huy trưởng. Tất
cả các bạn trẻ đều được gắng huy hiệu alpha và trở
thành người sinh viên sĩ quan thực thụ. Sáng sớm hôm
sau, một đoàn xe buýt đưa họ về Sài gòn để dạo chơi
trong một ngày chúa nhật.
Trong ánh nắng rực rỡ của buổi
ban mai đẹp trời, những chàng trai hân hoan đi dạo trên
đường phố thân yêu mà họ đã từ giã để lên đường
nhập ngũ.
Ngày phép qua nhanh. Khi thành phố
lên đèn, họ tạm biệt để trở về quân trường, tiếp
tục những ngày tập luyện gian khổ. Kể từ khi trở
thành sinh viên sĩ quan, chương trình càng thêm nặng, càng
thêm gấp rút để sau khi mãn khóa có đủ kiến thức và
đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ của cấp chỉ huy
ngoài chiến địa. Trong các môn học, chiến thuật là môn
chiếm nhiều thì giờ nhất. Môn nầy luôn luôn được
huấn luyện ngoài các bãi tập, trong các làng quê chung
quanh trường.
Rất nhiều lần, bài học chiến
thuật kéo dài suốt ngày rồi lấn qua đêm. Buổi chiều,
nhà bếp dùng xe chở thức ăn ra tận nơi. Sau bữa cơm là
một giờ nghỉ ngơi để chờ đêm đến. Đó là lúc vui
thích nhất trong những ngày tập luyện. Mặt trời chìm
hẳn sau những hàng cây rậm rạp, không khí mát dịu, gió
chiều rì rào lay động cành lá. Khung cảnh làng quê thực
êm đềm và nên thơ. Sinh viên được nghỉ ngơi thoải
mái, một số nằm kê đầu trên báng súng, ngửa mặt
nhìn bầu trời xanh lơ, cao thăm thẳm, một số khác tụm
năm tụm ba chuyện trò vui vẻ hay kể cho nhau nghe những
tâm sự riêng của mình.
Từ khi vào quân trường đến
nay, Tân, Bính và Thảo càng ngày càng thân thiết nhau hơn.
Ba người bạn cùng thuộc về một trung đội, nằm kế
bên nhau, chia sẻ với nhau từng điếu thuốc, từng món
thức ăn. Những buổi chiều nghỉ ngơi ngoài bãi, ba anh
em bao giờ cũng ngồi riêng một nơi trò chuyện. Tân chú
ý rất nhiều những điều mà Thảo nói về miền Bắc vì
ở đó, anh Vinh của cậu đang sống.
Một hôm, cậu hỏi Thảo:
- Từ khi vượt biên đến nay anh
có dịp nào nhận được tin tức của gia đình không?
- Làm sao nhận được? Cùng một
đất nước mà ngày nay như hai quốc gia riêng biệt.
Bính nói thêm:
- Hai quốc gia coi nhau như hai kẻ
thù không đội trời chung.
Thảo thở dài:
- Đó là điều thực đau lòng.
Tuy nhiên đối với riêng tôi thì đất nước mình vẫn
là một, miền Bắc vẫn luôn luôn nằm trong quả tim của
tôi. Tôi nhớ miền Bắc vô cùng. Cho đến bây giờ, thỉnh
thoảng tôi vẫn nằm mơ thấy mình đang sống ở miền
Bắc. Khổ nỗi, giấc mơ nào cũng rơi vào thời điểm
gia đình tôi bị đấu tố.
Bính lại giải thích theo thói
quen của mình:
- Thời gian khủng khiếp đó đã
in quá sâu vào tâm trí của anh, nó tràn ngập cả tiềm
thức và vô thức của anh rồi.
Thảo gật đầu:
- Anh Bính nói đúng, thời gian
đấy vô cùng khủng khiếp, nó sẽ ám ảnh tôi suốt đời.
Nhiều hôm, sau giấc chiêm bao, tôi không dám ngủ lại,
phải đốt đèn lên, chống mắt mà thức tới sáng.
- Anh có buộc phải chứng kiến
cha mẹ mình bị đấu tố hay không?
- Không, cũng may lúc đó tôi đang
học ở thị xã, cách làng tôi khá xa. Ở miền Bắc lưu
thông tệ lắm chứ không phải như trong nầy đâu. Cách
nhau vài mươi cây số là kể như xa lắm rồi, cả nhiều
tháng hay một năm mới về nhà một lần. Nếu ở tại
quê thì hoặc tôi chịu bị đấu tố chung với gia đình,
hoặc bị bắt phải đứng trong hàng ngũ bọn mắng chửi
và ném đá vào cha mẹ tôi. Tuy không chứng kiến nhưng
tôi vẫn hình dung rõ ràng sự chịu đựng của cha mẹ
mình trong ngày khủng khiếp đấy.
Thấy hai bạn mình im lặng chăm
chú nghe, Thảo nói tiếp:
- Tôi hình dung được thảm cảnh
ấy vì tôi và các bạn học sinh cùng lớp được dẫn đi
tham gia cuộc đấu tố ở một làng gần thị xã, trên
sân của đình làng.
Bính nói ngay:
- Thế là các vị thần của làng
buộc phải tham gia cuộc đấu tố.
Thảo mỉm cười nói tiếp:
- Khi bọn học sinh chúng tôi đến
nơi thì sân đình đã đông nghịt người. Tôi chen vào và
hoảng sợ thấy cả một gia đình bị trói giữa sân,
chung quanh là một vòng người xô đẩy nhau. Một ông lãnh
đạo xã cầm một tờ giấy đưa ra trước mắt rồi, vừa
đánh vần vừa đọc lời buộc tội. Cứ xong một đoạn,
ông ta ngẩng lên thì, trong đám đông, có nhiều tiếng la
ó chửi rủa tục tĩu vang lên. Cuối cùng ông ta cũng chấm
dứt được bài diễn văn sặc mùi máu. Tiếng la ó lại
nổi lên to hơn. Một người dùng đá ném vào, vài người
khác bắt chước làm theo. Tôi thấy rõ ràng ông già bị
một hòn đá đập vào trán, đưa hai tay ôm đầu và gục
xuống. Sau đấy, ông già bị tuyên án tử hình và bị
bắn chết ngay chiều hôm ấy.
Tân cảm thấy gai ốc nổi khắp
mình. Cậu nói:
- Thực là kinh khiếp. Thế mà
trong Nam mình đâu có biết.
Bính nói:
- Có chứ. Nhiều người trốn từ
miền Bắc vào kể lại. Rồi người ta dựng thành một
bộ phim nữa. Tuy nhiên, đa số người dân trong nầy không
tin. Họ bảo đấy chỉ là chuyện bịa đặt để bôi nhọ
cộng sản.
Thảo gật đầu:
- Không tin cũng phải. Suốt bao
nhiêu năm, có một phóng viên độc lập nào được bước
lên đất miền Bắc đâu. Chỉ nghe thuật lại thôi thì
làm sao tin được những chuyện như thế còn có thể xảy
ra trong thời đại văn minh nầy được.
Tân tiếp lời:
- Cảnh xử án đó thì đúng là
của thời trung cổ; ngày nay, có lẽ chỉ còn trong các bộ
lạc hoang sơ chưa có chút ánh sáng văn minh nào. Nhưng tại
sao người ta đưa học sinh đi xem cảnh tàn ác đó?
- Không phải đi xem mà đi học
tập thực tế. Lúc đấy chuyện học văn hoá bị khựng
lại vì cán bộ cấp trên về bắt học tập chủ trương
cải cách ruộng đất của đảng và nhà nuớc. Học sinh
cũng được khuyên trở về đia phương vận động với
gia đình và bà con mình tố cáo địa chủ trong làng.
Tân ngạc nhiên:
- Lúc đó trong làng anh cũng vẫn
còn địa chủ à?
Thảo cười:
- Làm gì còn. Trước đấy, khi
cộng sản chưa chiếm được miền Bắc, còn có một số
người sở hữu ruộng đất và cho tá điền thuê với
cái giá vừa phải chứ chẳng có ác ôn gì cả. Sau hiệp
định Genève, phần lớn các điền chủ bỏ hết tài sản,
di cư vào Nam. Số còn ở lại thì xin hiến đất cho nhà
nước. Tuy nhiên, vài người cũng còn tiếc của do ông
cha để lại nên không hiến hết mà giữ lại một ít để
cho gia đình trực tiếp canh tác hoặc cho người khác thuê
lại với giá rẻ. Những người đấy là đối tượng bị
đấu tố trước tiên. Họ bị giết hay bị hành hạ cho
đến chết, đất đai bị tịch thu, miếng nào ngon lành
thì giao lại cho cán bộ canh tác. Vì vậy cán bộ thi hành
rất tích cực.
- Giết hết những người đó
rồi thì thôi đấu tố?
- Chưa đâu. Phải tiếp tục tìm
người khác để đưa ra xử. Cuộc đấu tố cần kéo dài
thêm nữa, có lẽ cho đến khi nào gây được tâm lý
hoảng loạn ở nông thôn miền Bắc mới thôi. Ở nhiều
địa phương, đảng và nhà nước đề ra chỉ tiêu về
số người bị đưa ra đấu tố, không đủ thì không
được. Thế là tha hồ cho người ta trả thù cá nhân với
nhau. Người ta lập ra những tòa án và nhiều người
tưởng tượng ra những tội lỗi trong quá khứ để gán
cho nạn nhân của họ.
Tân nhíu mày:
- Tại sao nhân dân ngoài đó nhẫn
tâm thế.
Bính vội cải chính:
- Có lẽ không phải nhân dân
muốn đấu tố đâu. Những người cộng sản luôn luôn
lạm dụng từ nhân dân để biện minh và rêu rao hành
động của họ.
Thảo tiếp lời:
- Đúng vậy. Đa số dân chúng bị
lùa ra chứng kiến nhưng họ không thực sự tham gia đấu
tố. Họ im lặng đứng nhìn. Chỉ có một số la hét mà
thôi. Đấy là những chuyên viên đấu tố mà đảng và
nhà nước phái về, đấy là những người có thù oán
với nạn nhân, và đau đớn hơn cả, đấy còn là đám
học sinh loi choi bị cán bộ và nhà trường kích động.
- Người ta nỡ dạy cho trẻ em
làm chuyện độc ác như thế à?
- Sao lại không? Trong lúc trẻ em
miền Nam được dạy lòng nhân ái thì trẻ em miền Bắc
được huấn luyện về giai cấp đấu tranh ngay từ khi
mới bước chân vào lớp học. Rồi chúng ta chờ xem; chỉ
qua một thế hệ thôi, tâm tính con người ở hai miền sẽ
khác hẳn nhau. Không biết mai sau thống nhất rồi hai miền
có thể sống với nhau được hay không? Không như miền
Nam, miền Bắc đang sản xuất ra những người sẵn sàng
nhúng tay vào tội ác.
Tân ngắt lời:
- Chuyện thống nhất còn xa vời
lắm, chưa nên bàn đến. Hiện giờ, tôi còn thắc mắc
về việc đấu tố ở miền Bắc. Anh bảo sau khi cộng
sản chiếm được miền Bắc rồi không còn địa chủ ác
ôn nữa thế thì bày ra đấu tố để làm gì?
- Đấu tố là một phần của
cải cách ruộng đất. Người cộng sản nói đấy là
cuộc cách mạng để đem lại công bằng cho nông dân.
Bính lắc đầu:
- Cộng sản nói thì không thể
tin được.
- Phải. Tôi đã suy nghĩ nhiều
về điều nầy. Theo tôi, mục đích của đấu tố không
phải vì lợi ích của nông dân mà ngược lại. Người
ta chủ trương thu hết ruộng đất vào tay của đảng và
nhà nước. Người cộng sản biết rằng nông dân thường
nặng óc tư hữu, ai cũng muốn có một mảnh ruộng riêng
của mình, nên lấy mất đất đai của họ là điều nguy
hiểm vì họ có thể nổi loạn. Thế là bày ra trò đấu
tố, đem hàng trăm ngàn người ra làm vật hi sinh để cho
nông dân run sợ không còn dám bảo vệ quyền tư hữu đất
đai nữa.
Tân ngạc nhiên:
- Vậy là đấu tố, thực chất
không phải là đánh địa chủ mà là trấn áp nông dân,
thành phần chủ lực đã giúp cho họ thành công trong cách
mạng Mùa Thu?
- Đúng như thế.
Bính nói một cách tức giận:
- Thực là xảo quyệt và tàn ác.
Thảo thở dài:
- Dù sao, người cộng sản cũng
đã thành công. Phong trào đấu tố quả thực đã đạt
được mục đích là triệt tiêu óc tư hữu của nông dân
nhưng đồng thời cũng gây quá nhiều xáo trộn ở miền
Bắc và làm bất mãn nhiều người, nhất là tầng lớp
trí thức. Thế là người ta cho ngưng lại, giả bộ phê
bình kiểm điểm, và để thoa dịu nỗi uất ức trong
nhân dân, người ta đổ hết mọi tội lỗi cho một người
gánh chịu. Ai cũng biết rằng chủ trương đấu tố là
chủ trương của cả tập thể lãnh đạo chứ có riêng
ai nên việc đổ lỗi là một màn kịch vụng về rất
đáng khinh bỉ. Vỡ kịch thô bỉ đấy hạ màn rồi nhưng
nỗi đau vẫn còn nhức nhối không nguôi. Trong hàng trăm
ngàn người làm vật hi sinh có cả cha mẹ tôi.
Thảo ngưng nói, mím chặt môi để
ngăn nước mắt. Tân hỏi:
- Tại sao ba má anh bị đấu tố?
Có thù oán với ai không?
- Không. Bố mẹ tôi hiền lành
lắm nhưng bị bí thư xã đưa ra đấu tố.
Bính hoảng kinh:
- Trời đất. Bị bí thư xã đưa
ra đấu tố thì nguy rồi. Có lẽ lại bị tử hình.
- Không bị tử hình vì ông nội
tôi mới thực sự là địa chủ, còn bố tôi lại có
công với cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
ông giúp việc cho ủy ban kháng chiến hành chánh ở địa
phương; quê tôi là vùng giải phóng trong suốt thời kỳ
ấy.
- Thế bị đấu tố vì lý do gì?
- Bố tôi tuy không phải là địa
chủ chính cống nhưng bị kết án là thừa hưởng của
cải mà đời trước cướp được của nông dân. Bố tôi
không trực tiếp mang nợ máu đối với nhân dân nhưng
phải gánh món nợ đấy do ông tôi để lại. Tên bí thư
bảo rằng, trong người bố tôi, trong từng giọt máu,
từng thớ thịt đều có con vi trùng địa chủ ẩn núp.
Vì vậy, tuy không xử tử nhưng phải cô lập bố mẹ
tôi, không ai được tiếp xúc với hai con người mang đầy
vi trùng địa chủ đấy. Họ buộc bố mẹ tôi giao nhà,
giao vườn lại cho ủy ban và dẫn nhau ra sống trên một
cái chòi trên miếng đất hoang ở cuối làng.
- Còn em gái anh đâu?
- Nó không bị mang ra đấu tố.
- Tại sao vậy? Nghe nói thông
thường, nếu bị đấu tố thì cả gia đình đều bị xử
vì cùng chung hưởng quyền lợi của địa chủ.
- Tên bí thư xã không đưa em gái
tôi ra vì nó đẹp nhất làng. Người ta nói lại với tôi
rằng chính tên đó ve vãn em tôi mặc dầu hắn đã có vợ
con rồi.
Tân ngắt lời:
- Bí thư mà cũng như thế à? Tôi
nghĩ rằng ông ta phải có một chút gì đó gọi là đạo
đức cách mạng chứ.
Thảo cười khẩy:
- Đạo đức cách mạng à? Đấy
là điều mà người cộng sản rêu rao ngoài cửa miệng.
À vâng, trong miền Nam, các cán bộ còn giữ một chút đạo
đức cần thiết để có thể ẩn núp trong dân. Một khi
đã chiếm được chính quyền rồi, như ở ngoài miền
Bắc, thì người ta chẳng cần giữ đạo đức nữa mà
nghĩ đến việc hưởng thụ cho bõ công gian khổ bấy
lâu. Muốn được hưởng thụ cho nhiều, người ta hết
sức phấn đấu để được kết nạp vào đảng và cố
ngoi lên một chức vụ càng cao càng tốt. Ngoài những đặc
quyền đặc lợi công khai được gọi là chính sách, họ
còn được hưởng bao nhiêu là thứ khác nên càng ngày
càng xa rời lý tưởng ban đầu của họ và sau cùng chỉ
lo thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình thôi.
Bính tiếp lời:
- Bản tánh con người đều là
thế cả chứ có riêng gì ở miền Bắc.
Thảo nói tiếp:
- Vâng, ở đâu cũng vậy, sự
ham muốn hưởng thụ cá nhân hủy hoại đạo đức. Ở
miền Nam, cái bản năng đấy bị pháp luật chế ngự còn
ở miền Bắc, vào được đảng rồi thì không còn sợ
pháp luật nữa vì đảng đứng trên pháp luật mà. Chỉ
trích đảng viên có thể bị chụp mũ chống đảng, thế
là tiêu đời. Vì vậy, tên bí thư đã có vợ con còn ve
vãn em tôi, nhiều người trông thấy nhưng chẳng dám nói
gì.
Tân cười:
- Còn thái độ cô em của anh thì
thế nào?
- Nó không dám phản đối và tìm
cách lánh mặt. Nó có người yêu rồi.
- Ai đó? Có lẽ một anh chàng
đẹp trai nào đó trong làng?
- Không phải. Đó là một cán bộ
miền Nam tập kết ra Bắc. Chúng nó quen nhau trong một dịp
tình cờ nào đấy mà tôi không rõ.
- Anh có gặp người thanh niên
tốt số đó chưa?
- Chưa bao giờ, tôi đi học xa,
ít về nhà nên chỉ nghe nói lại thôi. Tên bí thư biết
điều đấy nên sẵn dịp, hắn đưa cha mẹ tôi ra đấu
tố để dằn mặt con Hải Đường, em gái tôi. Sau đó
hắn tính dàn cảnh cứu mạng bố mẹ tôi để lấy lòng
em tôi nhưng không ngờ con Hải Đường sợ quá bỏ trốn
lên Hà nội ngay trước khi bố mẹ tôi bị lôi ra xét xử.
- Nhưng ai dám nhận cô ấy trong
khi gia đình đang bị đấu tố?
- Dì Huệ, em ruột của mẹ tôi.
Tôi có hai người dì đều là công nhân cả. Dì Lan làm
việc ở Thanh hóa, ban đêm về quê dẫn con Hải Đường
trốn lên tỉnh rồi đưa ngay ra Hà nội giao cho dì Huệ.
Hai dì đều biết rằng bảo bọc cho con Hải Đường là
điều nguy hiểm nhưng vì là cháu ruột của mình thì đành
chấp nhận. Thế là tên bí thư trút tức giận lên đầu
bố mẹ tôi, buộc phải ra ở ngoài chòi hoang vắng vẻ.
Trong làng, có nhiều bà con và xóm giềng còn nặng tình
cảm với ông bà, nên chờ đêm tối trời lén đi ra, đứng
từ xa quăng vào những đồ dùng như muối, xà phòng, vân
vân. Hai ông bà cắn răng chịu đựng, mong có ngày được
“khoan hồng” và gặp lại con cái. Nhưng cái tên bí thư
ấy chẳng chịu buông tha. Nó cho người rình rập để
ngăn cản sự tiếp tế cho bố mẹ tôi. Có đứa còn tàn
nhẫn phá phách, nhổ bỏ cả khoai sắn và rau cải của
ông bà trồng chung quanh căn chòi. Có người quen kể cho
tôi nghe rằng trông thấy hai ông bà già lủi thủi sống
với nhau như….
Thảo dừng lại, nuốt nước bọt
nhiều lần để ngăn nước mắt. Bính hỏi bằng giọng
thì thào:
- Như cái gì anh Thảo?
- Như hai bóng ma, như hai tội đồ
đáng ghê tởm bị người đời xa lánh.
Thảo lại ngừng nói trong nghẹn
ngào, đưa tay áo nhà binh lên lau nước mắt rồi nói
tiếp:
- Mẹ tôi chịu đựng không nổi.
Bà lâm bệnh rồi chết. Cha tôi bó chiếu chôn mẹ tôi
bên hè nhà. Sau đấy ông treo cổ tự tử.
Thảo nói tới đó, không tự chế
được nữa, lấy hai tay che mặt, khóc thút thít. Hai người
bạn cũng rưng rưng nước mắt. Cả ba anh em cùng ngồi im
lặng một lúc khá lâu.
Trời đã tối, cảnh vật hiện
ra lờ mờ dưới bầu trời màu xám. Bỗng tiếng còi rít
vang lên cùng tiếng hô to:
- Đại đội Năm tập họp.
Thế là bài học chiến thuật
“Phục kích ban đêm bắt đầu”.
Đại đội chia làm hai. Một toán
phục kích ở một khúc quanh dẫn vào làng. Phần còn lại
giả làm địch quân nhởn nhơ đi trên đường, chuyện
trò vui vẻ tiến dần đến địa điểm phục kích và lập
tức bị toán kia hạ gục ngay tức thì. Sau đó hai toán
đổi vai trò cho nhau, qua một địa điểm khác, lặp lại
bài thực tập.
Buổi học chấm dứt vào lúc
mười giờ đêm, đại đội tập họp rồi lếch thếch
trở về. Anh em lặng lẽ băng qua cầu Bến Nọc, lẫm lũi
đi thành hai hàng trên con đường đất đỏ gồ ghề. Mặt
trăng khuyết một mảnh, nhô lên khỏi ngọn cây, ánh sáng
nghiêng soi bóng những người binh sĩ của quân trường,
tay cầm súng đứng im lìm rải rác hai bên đường cho đến
tận cửa sau của quân trường, để giữ an ninh cho sinh
viên sĩ quan trên đường về trường.
*
* *
Sau bốn tháng luyện tập bộ
binh căn bản, sinh viên sĩ quan sẽ qua một cuộc thi trắc
nghiệm và dựa vào đó, một số sẽ được chuyển đi
học các trường của các binh chủng chuyên môn. Mọi
người bàn tán xôn xao. Ai cũng mong được đi binh chủng
để trong tương lai ít đối đầu với hiểm nguy. Suốt
từ sáng đến chiều, sinh viên phải trả lời nhiều trăm
câu trắc nghiệm bao hàm kiến thức của tất cả các
ngành nghề trong quân đội. Hôm sau, tất cả anh em được
nghỉ ngơi một ngày.
Các câu lạc bộ luôn luôn đầy
sinh viên. Họ vừa ăn uống, vừa bàn bạc về cuộc trắc
nghiệm vừa qua. Ba người bạn của chúng ta cũng trong số
đó. Bính hỏi Tân:
- Anh hi vọng được đi học binh
chủng chuyên môn không?
Tân gật đầu:
- Có nhiều hi vọng đi học
truyền tin. Trước đây, anh có đọc một số sách điện
tử nên có một số khái niệm căn bản đủ để trả
lời phần lớn những câu hỏi về ngành nầy.
- Thế thì mừng cho anh. Em chẳng
biết làm thứ gì cả nên chắc chắn giai đoạn hai tiếp
tục học làm sĩ quan bộ binh ở đây rồi. Nếu anh em
mình phải xa nhau thì cũng đáng buồn.
Bính quay sang Thảo:
- Còn anh? Anh có hi vọng đi học
binh chủng chuyên môn không?
Thảo lắc đầu:
- Không. Tôi đã có ý định đi
tác chiến từ lúc xin nhập ngũ. Suốt ngày hôm nay, tôi
chẳng khoanh một chữ nào trong các câu hỏi trắc nghiệm.
Thấy hai bạn nhìn mình một cách
ngạc nhiên, Thảo giải thích:
- Tôi đã nhất quyết chọn biệt
động quân. Tôi đã có hỏi chuẩn úy trung đội trưởng.
Muốn về binh chủng biệt động quân thì phải ở lại
đây học bộ binh giai đoạn hai. Tôi thích binh chủng nầy
vì thường xuyên phải đảm đương những nhiệm vụ khó
khăn trên chiến trường.
Tân nói:
- Đi tác chiến với những đơn
vị thiện chiến đó thì mau thăng chức lắm.
- Tôi không quan tâm đến chuyện
thăng chức đâu. Tôi đã nguyện hiến dâng cuộc đời
mình cho hai mục tiêu. Một là giải phóng miền Bắc để
tìm lại em gái tôi. Hai là bảo vệ miền Nam để đền
đáp công ơn tất cả những người đã yêu thương và
cưu mang tôi từ ngày tôi thoát khỏi gông cùm cộng sản
đến nay.
Tân gật đầu:
- Tôi hiểu lòng căm thù của anh
đối với những người đã giáng tai họa khủng khiếp
xuống cho gia đình anh. Ra chiến trường, anh sẽ giết cho
nhiều người để thỏa mối căm thù đó.
Thảo lắc đầu:
- Không, tôi không nghĩ như thế
đâu. Nhớ tới tai họa mà bố mẹ tôi phải gánh chịu,
tôi vừa đau đớn, vừa căm thù. Nhưng những kẻ mà tôi
căm thù chính là những kẻ đã chủ trương cuộc đấu
tố dã man. Bọn đấy đang sống trong những tòa nhà kiên
cố ở miền Bắc, có kẻ hầu người hạ, chứ đâu phải
là những người cầm súng phía bên kia chiến tuyến.
Những người mà tôi sẽ đối đầu ngoài mặt trận cũng
là những nạn nhân đáng thương, bị nhà cầm quyền miền
Bắc xua vào Nam để thực hiện công cuộc xâm lăng. Thân
phận họ còn bi đát hơn chúng ta nhiều.
- Tại sao lại bi đát hơn? Tôi
nghe nói họ vào đây với nhiều khí thế lắm, vì vậy
họ rất gan dạ, có khi thất trận và đến đường cùng
rồi mà vẫn không đầu hàng.
- Nỗi bi đát là chỗ đấy. Đi
xâm lăng mà không hiểu rằng mình xâm lăng, đi gieo chiến
tranh tang tóc cho đồng bào mình mà cứ ngỡ rằng mình đi
làm nghĩa vụ. Những con người như thế thì không đáng
thương sao? Vì vậy nghĩ đến chuyện sau nầy phải bắn
giết tàn sát lẫn nhau với những người ấy thì tôi
không vui thích tí nào. Chắc chắn trong số đấy, có
không ít những bạn bè cùng trường, cùng lớp với tôi
trước đây. Nhiều đêm tôi chiêm bao thấy mình còn ngồi
học chung với những bạn bè đấy. Giật mình tỉnh giấc,
bỗng thấy khát khao được gặp lại nhau để nhắc lại
những chuyện vui buồn của một thời xa xưa. Ngày mai có
thể tôi sẽ gặp lại họ nhưng không phải để nhắc
lại thời thơ ấu nữa đâu.
Thảo thở dài và nói tiếp:
- Nếu ngày nào đấy tôi ngã gục
trên chiến trận thì đấy là sự đền ơn đầu tiên và
sau cùng cho miền Nam của chúng ta. Nếu tôi còn sống sót
qua cuộc chiến tranh nầy thì tôi ước được đi học
trở lại để trở thành một nhà văn hay một triết gia,
ngửa cổ ra mà gào thét cho toàn thể nhân loại hiểu
được thân phận của con người Việt Nam trong cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn nầy.
Tân nắm lấy bàn tay rắn rỏi
của Thảo và bóp nhẹ trong tay mình:
- Anh Thảo, tôi hiểu anh. Tâm
trạng của anh não nề lắm, lúc nào cũng làm cho người
nghe chực rơi nước mắt. Thôi chúng ta về phòng nghỉ
ngơi, sáng mai ra bãi tập sớm.
*
* *
Một tuần lễ sau, kết quả trắc
nghiệm được đưa về trường. Đúng như dự trù, Tân
nằm trong danh sách được chọn đi học trường truyền
tin tại Vũng tàu. Thảo và Bính ở lại trường, học cho
hết khóa bộ binh. Tân mừng vì được đi học ngành mà
mình mong muốn nhưng cũng buồn vì sắp xa cách hai người
bạn thân của mình. Giai đoạn một còn kéo dài trong một
tuần lễ nữa. Sau đó sinh viên sẽ được gắn huy hiệu
alpha một gạch để chuyển sang giai đoạn hai. Tân cảm
thấy bồi hồi mỗi khi nghĩ đến giờ chia tay.
Sáng thứ hai, mọi người đều
uể oải sau một ngày nghỉ phép. Tuy nhiên, sau lệnh tập
họp của đại đội trưởng, sinh viên vội vàng nai nịt,
chuẩn bị lên đường. Sáng nay đại đội sẽ tập tác
xạ đại liên suốt ngày ngoài sân bắn. Theo chương
trình, đây là buổi tập bắn cuối cùng của những người
được chọn đi binh chủng chuyên môn. Nghĩ đến đó, Tân
hăng hái ra sân trước hơn tất cả mọi người. Môn tác
xạ vốn là môn mà cậu ưa thích nhất. Điểm thi bắn
của cậu luôn luôn cao nhất đại đội.
Khi anh em đã hàng ngũ chỉnh tề
và đợi lệnh xuất phát thì người trung sĩ trực văn
phòng vội vã đạp xe đến và dừng trước hàng quân.
Anh chào trung úy đại đội trưởng và trao một mảnh
giấy. Trung úy đọc xong, khẽ nhíu mày và gọi to:
- Sinh viên sĩ quan Phạm bá Tân
Tân giật nẩy người, vội đứng
nghiêm:
- Có mặt.
- Về phòng thay quân phục màu
vàng đi trình diện an ninh quân đội. Nhanh lên, xe đang
đợi ở văn phòng chỉ huy trưởng.
Tân bước ra khỏi hàng, mặt
trắng bệch, đưa tay chào trung úy và vào phòng. Cả đại
đội tò mò nhìn theo. Một giọng nói thì thầm vừa lo
lắng, vừa thương hại:
- Chết thằng Tân rồi. Bị an
ninh quân đội gọi về điều tra là tiêu đời.
Một giọng khác cãi lại như để
binh vực:
- Tao thấy nó hiền khô và đứng
đắn lắm, chắc chẳng làm gì để bị điều tra đâu.
Biết đâu nó có gốc to được người thân gọi về chơi
như là một cách đi phép đặc biệt vậy.
- Chuyện vớ vẩn. Bà con nào mà
lại nhờ tới an ninh quân đội gọi về đi phép. Gan to
như thiên lôi cũng chẳng dám nhờ cơ quan đó như thế.
Chắc là thằng Tân gặp chuyện rắc rối quan trọng rồi.
Sau lệnh của đại đội trưởng,
anh em thôi bàn cãi, im lặng lên đường.
Tân về phòng, vội vàng thay áo
quần và theo viên trung sĩ đến văn phòng, tại đó một
chiếc xe Jeep đang đậu sẵn. Theo ngón tay chỉ của trung
sĩ, cậu bước lên ngồi vào băng sau, rán giữ bình tĩnh
để đợi người ta tra chiếc còng vào tay. Nhưng không,
người tài xế thản nhiên ngồi vào ghế và khởi động
máy xe. Một thượng sĩ già bước lên ngồi vào ghế
trước, quay lui nhìn cậu và mỉm cười một cách hiền
lành. Nụ cười làm cậu yên tâm phần nào.
Xe từ từ ra khỏi cổng, phóng
nhanh về hướng Sài gòn. Qua khỏi cầu Thị nghè rồi qua
khỏi sở thú, đến một ngã tư, xe rẽ vào một khu kín
đáo với vài dãy nhà thâm thấp khuất sau bức tường
cao nghệu.
Tân hồi hộp bước xuống. Cậu
hiểu rằng mình đang ở trong lãnh địa của an ninh quân
đội, cái nơi mà chỉ nghe nói đến cũng đủ làm cho mọi
quân nhân phải e sợ.
Viên thượng sĩ bảo nhỏ:
- Theo tôi.
Ông ta đi thẳng đến một dãy
nhà, quay lại bảo:
- Chờ một chút.
Ông vào một phòng mở rộng cửa.
Độ một phút sau, ông trở ra, nói:
- Vào đi.
Tân bước vào. Căn phòng không
rộng lắm, chỉ có một bàn duy nhất ở sát vách sau.
Phía trước bàn, đối diện cửa sổ là một bộ xa lông,
tuy không sang trọng nhưng sạch sẽ với những tấm nệm
dày bọc vải bông trông vui mắt.
Một trung úy ngồi sau chiếc bàn
ngẩng lên nhìn. Tân đứng nghiêm, đưa tay chào và xưng
danh cùng số quân để trình diện rất đúng tác phong
sinh viên sĩ quan.
Ông trung úy đưa tay chào lại và
nói:
- Anh ngồi xuống ghế đi. Tôi
muốn gặp anh một chốc rồi xe sẽ đưa anh trở lại
quân trường để tiếp tục học.
Tân nghe giọng nói dịu dàng nên
cảm thấy yên tâm. Cậu thở ra nhè nhẹ, ngồi ngay ngắn
xuống ghế. Không gian khá tĩnh mịch. Tiếng xe chạy ngoài
đường Nguyễn bỉnh Khiêm nghe văng vẳng xa xa. Phòng bên
có tiếng máy đánh chữ gõ lóc cóc. Trên trần, chiếc
quạt máy chạy vù vù làm cho gian phòng mát mẻ dễ chịu.
Ông trung úy xếp gọn hồ sơ
trên bàn, mở hộc rút ra một xấp giấy đựng trong một
bìa màu hồng rồi đến ngồi trên ghế đối diện với
Tân. Ông lên tiếng, giọng rõ ràng nhưng không có vẻ gay
gắt chút nào:
- Trong lý lịch, anh có khai một
thời gian bị ty Cảnh sát Đặc biệt Miền Đông bắt.
Tôi muốn biết thêm vài chi tiết về lời khai nầy. Anh
nên thành thực với tôi, anh có đồng ý không?
- Vâng, thưa trung úy, tôi xin hết
sức thành thực. Bây giờ tôi đã trở thành một quân
nhân rồi, chẳng có lý do gì không thành thực nữa.
- Tốt lắm. Câu hỏi thứ nhất,
anh nghe cho kỹ. Khi đó, anh bị bắt có oan không?
- Thưa trung úy, không oan chút
nào. Lúc bấy giờ, tôi đang hoạt động cho Việt cộng.
Ông trung úy nhướng người ngồi
thẳng dậy:
- Anh hoạt động cho cơ quan nào,
biết không?
- Biết. Cho một tổ chức của
đảng Lao động Việt Nam gọi tên là đoàn Thanh niên Cứu
quốc nay đổi tên là đoàn Thanh niên Lao động.
- Công tác chính yếu của anh là
gì?
- Công tác dân vận, nghĩa là vận
động sinh viên học sinh tham gia biểu tình, rải truyền
đơn chống chính phủ.
- Lúc bị bắt anh có khai điều
đó với nhân viên điều tra không?
Tân lắc đầu:
- Không, tôi không khai.
- Tại sao?
- Vì lúc đó tôi còn là cán bộ
của cộng sản, tôi còn vướng lời thề thà chết chứ
không khai.
Ông trung úy gật đầu, ngồi im
suy nghĩ một chút rồi nói:
- Đáng tiếc là lúc đó anh đã
không hợp tác với cơ quan điều tra để phá vỡ tổ
chức của cộng sản, tuy nhiên tôi phải công nhận rằng
anh đã hành động dũng cảm. Tuổi trẻ phải là như thế.
Chịu đựng và hi sinh cho lý tưởng là rất đáng khen.
Điều tai hại là lúc đó anh đã nhận sai cái lý tưởng
của mình. Nhưng thôi, tôi không đào sâu chuyện đúng sai
nầy vì tôi là sĩ quan an ninh chứ không phải sĩ quan tâm
lý chiến. Anh nghe tôi hỏi tiếp đây. Anh có bị Catinat
tra tấn hay không?
- Có nhưng ít so với những người
khác. Tôi chỉ bị đánh hai lần bằng chày vồ mà thôi.
- Chức vụ anh lúc đó trong tổ
chức của Việt cộng là gì?
- Bí thư chi đoàn, đang được
xây dựng để kết nạp đảng.
- Ghê nhỉ, tuổi trẻ mà tài
cao. Anh bị bắt trong trường hợp nào?
- Tôi cố tình hớ hênh nên bị
tổng nha cảnh sát bắt đưa vào Catinat.
Ông trung úy nhướng mày lên nhìn
một cách ngạc nhiên:
- Tại sao lại cố tình hớ hênh?
Anh nói gì thế?
- Trung úy ngạc nhiên cũng phải.
Đây là sự thực, xin trung úy hãy tin lời tôi. Đây cũng
là điều tôi muốn giữ kín tự bấy lâu nay. Tôi muốn
bị bắt vào tù vì đã quyết định dứt khoát từ bỏ
hoạt động cho Việt cộng. Xin trung úy cho phép tôi giải
thích thêm thì trung úy mới có thể tin rằng đó là sự
thực.
Ông trung úy ngồi thẳng dậy:
- Được anh cứ trình bày đi,
tôi sẵn sàng nghe anh, còn tin hay không thì khi anh nói xong
tôi mới định được. Anh nói đi.
- Thưa trung úy, lúc đó công tác
của tôi là vận động học sinh, kích động bầu máu
nóng của họ. Tôi núp trong bóng tối và thúc đẩy họ
đi biểu tình trước họng súng của cảnh sát dã chiến.
Khá đông học sinh nghe lời tôi, trong đó phần lớn là
nữ sinh. Tôi biết các bạn theo lời xúi giục của tôi
vì ham vui và có nhiều cảm tình với tôi chứ không hẳn
là do giác ngộ cách mạng.
- Đúng, tôi công nhận tướng
mạo và giọng nói của anh dễ gây cảm tình nơi người
khác. Anh nói tiếp đi.
- Trong cuộc vận động nầy, đã
có nhiều học sinh, vì nghe lời chúng tôi mà bị bắt và
nghe nói bị tra tấn nữa. Tuy các anh chị em bị bắt
không thuộc về cơ sở của tôi nhưng cũng làm cho tôi
xót xa và lo lắng. Tôi biết mình đang tham gia vào một
công việc thất đức nên nỗi xót xa biến thành sự đau
khổ cứ lớn lên dần trong lòng tôi, đến một lúc tôi
không còn chịu đựng được nữa. Tôi quyết định vào
tù để chấm dứt công việc đang làm cho tôi đau khổ.
Ông trung úy nhíu mày:
- Tại sao anh lại dùng đến giải
pháp ở tù? Tại sao anh không bỏ đi tỉnh khác hoặc giản
dị hơn, chia tay với Việt cộng?
- Trung úy chưa hiểu được tình
cảnh của tôi lúc đó. Đi tỉnh khác không được vì tôi
chẳng có bà con hay quen biết với ai cả, lấy gì mà
sống. Ở Sài gòn, tôi đang sống nhờ tiền đi dạy học.
Nếu ở lại tại thành phố nầy mà không tiếp tục hoạt
động cho họ thì không thể nào sống yên ổn được.
Tôi đã lỡ thề trung thành với họ rồi, họ sẽ đeo
tôi tới cùng, không dễ dàng buông ra đâu. Hơn nữa, tôi
biết mặt nhiều người trong số họ và cả tổ chức
của họ nữa.
Ông trung úy gật đầu;
- Vâng tôi hiểu. Nếu cần, họ
có thể ám sát anh để bảo toàn bí mật.
- Chuyện đó có thể xảy ra hay
không thì tôi không biết được. Nhưng có điều chắc
chắn là tôi không thể từ giã họ một cách đơn giản
được. Lúc đó tôi nghĩ chỉ có hai cách để giải
quyết, một là chết, hai là đi ở tù.
- Và anh đã chọn cách đi ở tù?
- Đúng ra là tôi chọn cả hai.
Ông trung úy ngạc nhiên:
- Sao? Anh chọn cả cái chết nữa
à?
- Vâng, tôi chấp nhận cái chết,
chịu đựng đến đòn tra tấn cuối cùng để khỏi phải
mang tiếng là kẻ phản bội. Nhưng may mắn người ta
không tra tấn nhiều nên tôi còn giữ được mạng sống
cho đến ngày nay.
- Tại sao người ta không tra tấn
anh nhiều?
- Có lẽ vì thấy tôi còn nhỏ
tuổi nên xem thường, và vì tôi bị bắt mà không có tài
liệu nào cả. Còn một lý do nữa cũng quan trọng là lúc
đó bót Catinat có quá đông người mới bị các nơi giải
đến, các phòng khai thác làm việc không xuể nên người
ta phải sớm kết thúc hồ sơ của tôi.
- Thôi được rồi, tôi cho thông
qua chuyện cũ. Bây giờ tới chuyện hiện giờ. Tại sao
anh chịu đi trình diện nhập ngũ?
- Kể từ lúc ở tù ra, tôi không
còn là người của tổ chức Việt cộng nữa. Tôi chính
thức là một công dân của miền Nam. Quân dịch là bổn
phận, lệnh động viên là pháp luật. Tôi phải làm bổn
phận và tuân theo pháp luật.
Ông trung úy nhìn Tân và nói bằng
một giọng rất nghiêm nghị:
- Bây giờ, anh thực sự là công
dân của miền Nam rồi. Miền Nam chính là Tổ quốc của
anh. Ai xâm phạm vào Tổ quốc thì anh phải chống lại.
Anh có đồng ý như vậy không?
- Đồng ý.
- Thế thì anh phải có bổn phận
tố cáo mọi hành vi, mọi tổ chức nào có phương hại
đến Tổ quốc, đến đồng bào của anh. Anh hãy cho tôi
biết những người trước đây cùng tổ chức với anh
hiện nay ở đâu.
Vẻ mặt trung úy trở nên lạnh
lùng. Ông với tay lấy cây viết lật sổ ghi chép ra, chờ
đợi lời khai của Tân. Cậu mím môi, cố dằn cơn xúc
động. Cậu hít vào và thở ra một hơi dài. Một cảm
nghĩ bất cần đời dậy lên trong lòng. Cậu không muốn
tỏ thái độ thách thức với ông trung úy nầy nhưng cậu
cũng chẳng có gì phải sợ sệt. Cậu cảm thấy hào khí
trong lòng mình dâng lên nên trả lời một cách rắn rỏi:
- Thưa trung úy, tôi đã trình bày
với trung úy rồi. Từ khi ra tù đến nay, tôi từ bỏ mọi
sự liên hệ với Việt cộng. Tôi đã vạch một lằn
ngang thực rõ ràng giữa quá khứ và hiện tại. Cho đến
bây giờ tôi vẫn hài lòng với quyết định đó. Tôi xin
mọi người đừng bắt tôi phải nhắc lại quá khứ nữa.
- Có lẽ anh ghê tởm quá khứ
của anh nên không muốn ai nhắc đến nữa, phải không?
Tân nghe cả người như nóng ran
lên. Cậu ngồi thẳng dậy và đáp lời một cách rõ ràng
và dứt khoát:
- Trung úy nghĩ về tôi như thế
không thực sự đúng đâu. Tôi không bao giờ ghê tởm hay
thù ghét quá khứ của tôi. Tôi cũng không cho rằng mình
đã sai lầm trong quá khứ. Không, ngay bây giờ và cả về
sau nầy nữa, tôi luôn luôn kính trọng quá khứ vì tôi
đã hành động như một người yêu nước không thể ngồi
yên khi thực dân Pháp trở lại đô hộ đất nước mình.
Cách mạng Tháng Tám làm cho tâm hồn trẻ thơ của tôi
bay bổng lên và tôi đã hành động theo cái cảm xúc chân
thành và cao cả đó. Kể từ khi bị bắt vào tù, tôi tự
coi đã hoàn tất đoạn đuờng mà người yêu nước phải
đi và tôi nhận ra rằng cộng sản Việt Nam đang kéo dài
con đường vinh quang đó vào một nẻo sai lầm và tội
lỗi. Vì vậy, tôi đã từ bỏ Việt cộng bằng sự suy
nghĩ chín chắn. Đó không phải là sự bỏ cuộc do hèn
nhát, do đầu hàng, do cầu an hưởng lạc. Tôi biết những
đồng chí cũ của tôi đã gán cho tôi những từ còn hèn
hạ hơn nữa. Dù vẫn còn rất nhiều cảm tình với họ,
tôi không cần để tâm đến những lời phê phán đó.
Điều đáng sợ nhất là mình tự khinh mình, người khác
làm sao hiểu được tâm tình và ý nghĩ thầm kín của
mình được.
Cậu dừng lại một chút rồi
nói tiếp, trong khi trung úy vẫn lắng tai chăm chú nghe.
- Thưa trung úy, tôi đã trình bày
khá dài dòng để xin trung úy hiểu cho rằng từ gần sáu
năm rồi tôi đã dứt khoát cắt ngang quá khứ của mình
và cố gắng tránh xúc phạm đến những gì mà mình đã
thề nguyền trong quá khứ. Bây giờ trung úy buộc tôi
phải khai trở lại các đồng chí cũ để trung úy bắt
họ. Điều đó có nghĩa là trung úy không cho phép tôi cắt
đứt quá khứ, nghĩa là phải trở lại cái ngày đầu
tiên tôi bị bắt vào Catinat. Ngày đó tôi đã thề không
trở thành kẻ phản bội. Không lẽ bây giờ tôi lại vi
phạm lời thề đó sao?
Tân ngừng lại. Trung úy khẽ
nhíu mày và nói:
- Tôi đồng tình với những điều
anh trình bày. Tuy nhiên anh phải hiểu rằng, đối với
chúng tôi, tấn công vào tổ chức bí mật của địch là
đòi hỏi trên hết. Có lẽ anh cũng có nghe thiên hạ đồn
rằng an ninh quân đội có những biện pháp có thể bẻ
gãy ý chí của những kẻ gan lỳ nhất. Thú thực với
anh, ở đây chúng tôi có những món còn ghê gớm hơn
thiên hạ đồn nữa. Không biết rồi anh có giữ được
đến cùng sự kiên cường của anh không.
Tân lắc đầu, không chút nao
núng:
- Tôi không thể nói trước là
có chịu đựng được hay không. Trước đây, tôi có thể
vững tâm về sự chịu đựng của mình với những đòn
tra tấn của Catinat. Lúc đó tôi đang có khí thế hừng
hực của tuổi mười tám, cái tuổi dũng mãnh nhất của
con người. Từ đó đến nay đã gần tám năm rồi, tôi
đâu còn khí thế xưa kia và cũng chẳng còn lý tưởng
chính trị để hỗ trợ cho khí thế đó nữa. Tuy nhiên,
nhất định trung úy cũng chẳng được gì nếu áp dụng
biện pháp nào đó để khai thác tôi.
- Tại sao vậy?
- Rất giản dị. Trung úy nhớ
rằng tôi đã bị bắt cách nay gần tám năm rồi. Ngay sau
khi tôi bị bắt, các đồng chí của tôi đã trốn hết
để đề phòng trường hợp tôi không chịu nổi sự tra
tấn. Sau đó các tổ chức có liên quan đến tôi đều
thay đổi để bít đường điều tra khai thác của cơ
quan an ninh. Trong thời kỳ tiếp theo, do sự hoạt động
rất hữu hiệu của cơ quan an ninh, nhiều tổ chức của
Việt cộng bị vỡ và xoá sổ. Tôi biết điều đó vì
thấy rất nhiều cán bộ tầm cỡ bị bắt vào ở tù
chung với tôi và tôi có nói chuyện với họ. Sau khi ra
tù, tôi thấy dân chúng sống một cách bình thản chứ
không nay phản đối, mai xuống đường như trong những
năm vừa ký xong hiệp định Genève. Điều nầy chứng tỏ
một cách rõ ràng hoạt động của Việt cộng đã suy
giảm quá nhiều và không còn dấu vết nhỏ nhoi nào của
tổ chức xưa kia mà tôi đã từng tham gia nữa. Vì vậy,
bây giờ, trung úy muốn khai thác tôi thì cũng chẳng ích
lợi gì. Dù có muốn đi nữa, tôi cũng không biết khai
điều gì với trung úy.
Ông trung úy dựa ra sau ghế một
cách thoải mái và mỉm cười vui vẻ:
- Thôi đủ rồi. Tôi thấy anh có
ý tưởng khác với đa số những người mà tôi đã gặp
nên tôi dọa để thử lòng anh đó thôi. Hôm nay tôi mời
anh đến không phải với mục đích khai thác chuyện cũ
của anh mà chỉ để xác minh thêm vài chi tiết. Bảng
khai lý lịch của mỗi người thì quá sơ lược nên khi
có liên quan đến Việt cộng thì phải khai lại cho đầy
đủ, thế thôi. Anh cũng đừng nên lo lắng gì. Tất cả
lý lịch sinh viên sĩ quan đều qua tay an ninh quân đội
xét duyệt. Hồ sơ nào được thông qua thì chúng tôi gởi
về trường để sinh viên sĩ quan tiếp tục được huấn
luyện.
- Còn trường hợp của tôi thì
sao?
- Chẳng sao cả. Tôi sẽ trình
cho cấp trên phê duyệt cho anh. Tôi tin rằng anh đã thành
thực với tôi và tin rằng anh đã có kinh nghiệm và đã
trưởng thành để không bị Việt cộng dụ dỗ theo vào
con đường có tội đối Tổ quốc một lần nữa. Bây
giờ anh hãy về trường và vài tháng nữa sẽ là sĩ quan
của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Anh không nên mặc cảm
về quá khứ của mình. Cứ an tâm học hành như mọi sinh
viên khác và sau nầy làm bổn phận như mọi sĩ quan của
quân đội.
- Cám ơn trung úy. Tôi nghe theo
lời khuyên của trung úy.
- Còn điều nầy nữa, đáng buồn
cho anh. Với lý lịch có tì vết, mọi sinh viên sĩ quan
đều không được theo học những ngành cần phải được
bảo vệ. Đó là nguyên tắc nghiêm ngặt của quân đội,
phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không trừ
ai cả.
Tân nói qua hơi thở:
- Vâng, tôi hiểu. Có lẽ trung úy
cũng đã biết tôi được chọn học trường truyền tin?
- Biết chứ. Sau kỳ trắc nghiệm
để phân binh chủng, danh sách được quân huấn gởi ngay
cho chúng tôi. Hồ sơ của các sinh viên được chọn phải
xếp riêng để duyệt xét kỹ lưỡng. Anh thuộc nhóm mười
người được điểm cao nhất trong kỳ trắc nghiệm nhưng
bây giờ, tên anh bị rút khỏi danh sách sinh viên theo học
trường truyền tin ở Vũng tàu.
Ông nhìn Tân, có vẻ thương hại:
- Tôi chia buồn với anh và nhắc
lại đó là nguyên tắc, không ai dám vượt qua. Ngoài
chuyện đó ra, anh có muốn tôi giúp anh điều gì khác
không?
Tân đáp với giọng cương quyết:
- Cám ơn trung úy. Tôi bằng lòng
ở lại học giai đoạn hai tại trường Võ khoa Thủ đức
và sẽ là một sĩ quan bộ binh. Tôi sẽ ra chiến trường
để thực sự chia sẻ nỗi đau khổ của đồng bào miền
Nam do chiến tranh gây ra.
Ông trung úy cười rạng rỡ:
- Thế mới đúng là tư cách của
trai thời loạn. Tôi thích những người dám làm và dám
ăn nói như anh. Thôi anh trở về trường đi. Xe đang đợi
sẵn ở gần cổng. Tôi đưa anh ra.
Trung úy đứng dậy, Tân đứng
dậy theo. Cậu lưỡng lự một giây và nói:
- Trung úy có thể cho tôi nói lời
cuối cùng trước khi chia tay không?
- Được, anh cứ nói.
- Nghe nói đến an ninh quân đội,
không nhiều thì ít, ai cũng sợ hãi. Nhưng, cuộc nói
chuyện sáng nay với trung úy sẽ để lại trong lòng tôi
cảm tình sâu đậm đối với cái nơi mà mọi người e
sợ nầy.
Trung úy vỗ vai cậu một cách
thân mật:
- Tốt lắm, cám ơn anh. Mỗi
người trong chúng ta đều có một chức vụ riêng để
thi hành. Nhưng bất cứ ở đâu chúng ta cũng muốn đối
xử với nhau bằng sự thân ái. Đó là tình người miền
Nam mà chúng ta cần bảo vệ, đừng để miền Bắc mang
quân vào xóa sạch nó đi.
Tân đứng nghiêm, hai gót chân
chạm vào nhau. Cậu đưa tay chào rồi quay lui ra khỏi
phòng, đến cổng, lên xe và trở về trường.
Tân vào phòng, cảm thấy là lạ
vì gian nhà vắng vẻ, nghe rõ bước chân cậu dậm trên
nền gạch. Cậu sực nhớ cả đại đội đều ra trường
bắn, chiều mới về.
Sau khi tắm xong, Tân đói bụng
nhưng cậu biết rằng nhà bếp đã đưa tất cả cơm và
thức ăn của đại đội ra bãi tập. Cậu xuống câu lạc
bộ, ăn đĩa cơm rồi trở về phòng, leo lên giường nằm
nhắm mắt một cách thoải mái. Chưa bao giờ cậu được
nằm trong gian phòng tĩnh mịch vào giờ làm việc như thế
nầy. Cậu nhắm mắt lại và nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Tân thức dậy, đồng hồ chỉ
ba giờ chiều. Cậu nghĩ đến các bạn giờ nầy đang
phơi mình ngoài bãi tập. Mệt nhọc, nắng nóng làm cho
mọi người thèm ngủ một cách lạ lùng. Giờ học nào
sĩ quan cán bộ cũng không ngừng đi vòng quanh để đánh
thức những người ngủ gục. Sinh viên thích nhất là môn
chiến tranh chính trị, không phải vì nội dung mà vì giờ
học môn nầy luôn luôn diễn ra trong rạp chiếu bóng của
quân trường. Ánh sáng trong phòng thì lờ mờ, các hàng
ghế đặt sát nhau, sĩ quan không thể nào kiểm soát được,
anh em tha hồ ngủ gục.
Tân phì cười một mình khi nhớ
lại giờ học của một ngày vào tuần trước trong rạp
chiếu bóng đó. Bài học là “nghệ thuật nói trước
đám đông”, dạy cho sinh viên cách ăn nói để sau nầy
có thể thuyết phục đồng bào theo về với chính nghĩa.
Giảng viên là một đại úy ngành tâm lý chiến, thuyết
trình rất lưu loát và hấp dẫn. Sau gần một giờ đồng
hồ thao thao bất tuyệt đến khản cổ, đại úy ngừng
lại hỏi to:
- Các anh có hiểu không? Ai có
thắc mắc gì về bài học, thì cứ phát biểu.
Đại úy nhắc lại lần thứ hai
vẫn thấy im lặng. Thì ra mọi người đều ngủ cả. Ông
hét to đánh thức mọi người dậy và tuyên bố kết thúc
bài học về nghệ thuật nói trước đám đông.
Tân lại phì cười, ngồi nhỏm
dậy nhìn quanh rồi nằm xuống cố dỗ giấc ngủ trở
lại cho bõ những lúc thèm giấc ngủ ban ngày.
Mặt trời ngả dần về hướng
tây, những bóng cây trải dài trên mặt đất. Từ cổng
sau, có tiếng hát quân hành nổi lên ồn ào. Sinh viên từ
bãi tập bắt đầu về tới trường.
Tân vùng dậy, ra hàng hiên đứng
nhìn. Từng trung đội đi qua, mọi người mặt mũi bơ
phờ, áo ướt đẫm mồ hôi nhưng bước đi vẫn đều
dặn theo nhịp quân hành. Từ một khúc quanh, trung đội
của Tân hiện ra. Mọi người chăm chú nhìn cậu. Tân
toét miệng cười và đưa tay vẫy chào. Trung đội dừng
lại trước phòng, “nghiêm nghỉ” ba lượt rồi hét to
hai tiếng “cố gắng” mới được giải tán. Hơn một
chục anh em chạy vội đến gần Tân. Một người hỏi
to:
- Mày đi trình diện an ninh quân
đội và về lúc nào vậy?
- Lúc mười hai giờ trưa.
- Họ gọi mày về dưới đó làm
gì?
- Chẳng có gì quan trọng. Chỉ
bổ sung lý lịch thôi.
- Vậy mà suốt ngày nay, tụi tao
cứ lo lắng cho mày. Thằng Ký còn quả quyết an ninh quân
đội gọi mày là “go away” luôn rồi, không trở về
học tập với anh em nữa đâu. Nó còn bảo rằng mày sẽ
được máy bay thả ra Bắc để làm lính cụ Hồ chứ
không cho làm lính Cộng hòa. Nghe nó nói y như chuyện
thiệt nên tụi tao bàn với nhau gói đồ đạc của mày
lại cất cho kỹ, sau nầy gặp mày ngoài chiến trường
thì đưa ra cho mày chuộc lại.
Cả bọn cười ồn ào vui vẻ
rồi vào phòng, chỉ có Thảo và Bính còn đứng lại.
Thảo hỏi với vẻ lo lắng:
- Anh về Sài gòn phải không? Có
chuyện gì thế?
- Dài lắm, tí nữa tôi sẽ kể
lại cho mà nghe.
- Có gì đáng lo không?
- Xong rồi, chẳng có gì đáng
lo. Thôi hai người đi tắm đi. Hôm nay ba anh em mình không
đến nhà cơm mà xuống câu lạc bộ để ăn mừng.
- Bị an ninh quân đội gọi, sao
lại ăn mừng?
- Ăn mừng thực sự. Thôi đi tắm
nhanh lên.
Nửa giờ sau, ba anh em đến quán
ăn và ngồi vào một bàn ở một góc phòng. Bính lên
tiếng trước:
- Bây giờ anh nói đi. Ăn mừng
cái gì?
- Tôi được giữ lại học bộ
binh giai đoạn hai tại quân trường nầy.
Bính đứng dậy, sửng sốt:
- Tại sao lại có chuyện như
thế? Đó là tin buồn chứ ăn mừng gì được?
- Vâng, cũng có phần buồn cho
tôi nhưng không nhiều lắm. Còn vui là ba đứa chúng mình
cùng học chung đến cuối khóa. Bởi vậy mới ăn mừng.
Thảo gật đầu:
- Tôi hiểu rồi. Ngày nay, thấy
tôi cứ thắc mắc và lo âu mãi về việc anh bị gọi về
an ninh quân đội nên Bính có kể cho tôi nghe anh đã từng
hoạt động cho cộng sản, từ thời còn Việt minh và sau
đấy bị bắt đi tù.
Tân mỉm cười:
- Anh có ngạc nhiên về quá khứ
của tôi không?
- Chẳng ngạc nhiên gì cả. Hầu
hết bọn trẻ cùng lứa tuổi với mình đều như nhau,
đều lao vào cách mạng. Điều đấy cũng dễ hiểu. Khi
mình vừa biết bắt đầu nhìn ra cuộc đời thì cách
mạng Tháng Tám ào tới như một cơn lốc xoáy, vừa dũng
mãnh vừa huy hoàng. Cả một dân tộc đều bị cuốn vào
cơn lốc ấy chứ không riêng bọn mình. Chính tôi cũng đã
tham gia đội thiếu nhi Cứu quốc rồi đoàn thanh niên Cứu
quốc của cộng sản trong nhiều năm. Bính kể với tôi
rằng anh là một cán bộ thuộc về loại tầm cỡ của
Việt cộng. Thế mà anh nhận ra sự sai trái của họ, nên
từ bỏ để về với hàng ngũ quốc gia. Đối với một
người biết suy nghĩ sâu xa như anh thì đấy là một điều
tất yếu chứ chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Bính tiếp lời với vẻ bực
tức:
- Anh Tân đã nhận ra lẽ phải
nên đã can đảm từ bỏ cộng sản và đã tuân lệnh
nhập ngũ rồi, bây giờ cấm anh đi học truyền tin như
những người khác. Tại sao lại phân biệt đối xử như
thế?
Thảo giải thích một cách ôn
tồn:
- Không phải phân biệt đối xử
đâu. Mình phải thông cảm cho trách nhiệm to lớn của
những người làm công việc giữ gìn an ninh cho cả quân
đội chứ. Binh chủng truyền tin nắm tất cả các tin tức
mật của quân đội. Vì lý do đấy mà người ta không
cho anh Tân đi học ngành nầy thì cũng là hữu lý. Ngay
như tôi đây, nếu qua trắc nghiệm được chọn học
truyền tin thi cũng sẽ có thể bị bác vì lý do đã sống
ở miền Bắc sau 1954, dù tôi được bộ xã hội công
nhận là nạn nhân của cộng sản.
Bính vẫn chưa hết lo lắng:
- An ninh quân đội còn có biện
pháp nào bất lợi cho anh nữa không?
- Không, ngoài việc buộc tôi học
tiếp bộ binh, chẳng còn biện pháp nào nữa. Ông trung úy
của an ninh quân đội đã giải thích cho tôi y như anh
Thảo vừa nói đó. Trung úy nói chuyện với tôi một cách
ân cần, an ủi tôi, xác nhận tôi có đầy đủ tư cách
của một công dân và sắp tới có đủ tư cách của một
sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trung úy khuyên tôi
không nên mặc cảm về quá khứ của mình.
Thảo chắc lưỡi rồi gật gù
và nói:
- Miền Nam thực là vô cùng độ
lượng. Tôi sống nhiều năm ở vùng cộng sản nên tôi
không tưởng tượng được có một nhà cầm quyền độ
lượng như miền Nam nầy. Ở miền Bắc, nếu thực sự
anh có tham gia tổ chức chống chế độ thì chắc chắn
anh không còn cơ may để sống sót, nói chi đến chuyện
làm lại cuộc đời. Chỉ cần bị nghi ngờ có tư tưởng
chống đối mà chưa có hành động cụ thể nào cũng bị
trù dập suốt đời, không phải riêng anh mà đến ba đời
liên tiếp.
Bính chen lời:
- Theo kiểu tru di tam tộc thời
trung cổ.
- Đúng vậy, cộng sản áp dụng
lại rất nhiều biện pháp dã man thời trung cổ. Bị nghi
ngờ hay kết tội oan cũng phải cắn răng mà chịu.
- Không kêu oan được à?
- Không được. Anh kêu oan thì
anh càng chết sớm.
- Tại sao vậy?
- Ở miền Bắc, mọi việc đều
do đảng lãnh đạo, không từ một việc nhỏ nhặt nào.
Nghi ngờ anh, kết tội anh, tất cả đều do sự lãnh đạo
của đảng. Kêu oan đồng nghĩa với việc cho rằng đảng
sai lầm, đảng kém sáng suốt. Thế là tiêu đời anh rồi.
Chỉ có việc nhận tội, nhận tội và nhận tội, dù
thực tình anh không có tội, rồi sau đấy vật nài xin
lượng khoan hồng của đảng. Miền Bắc là như thế. Còn
ở miền Nam nầy, chỉ cần buông con dao đồ tể là thành
Phật như mọi chúng sinh khác. Tôi liều sinh mạng, vượt
rừng, vượt núi để vào Nam, thực không uổng công chút
nào.
Tân cười vui vẻ:
- Thôi, mọi việc ổn cả rồi.
Bây giờ, mình uống mỗi người một chai để mừng anh
em mình còn gần gũi nhau cho đến ngày mang lon chuẩn úy
trên vai.
*
* *