Một cuộc chiến tranh dài
Tập III
Chương 9: Giã từ vũ khí
(1)
Sáng hôm sau, Tân lên xe đò về Tân an và đến trường trung học.
Trường đang nghỉ hè nên vắng
tanh. Cậu bước qua cổng vào trong sân trường rộng rãi.
Các phòng học ở tầng lầu và tầng trệt đóng im ỉm.
May quá, dãy văn phòng còn mở cửa, trong đó có phòng
hiệu trưởng. Tân gõ cửa, bên trong có tiếng nói vọng
ra:
Tân đẩy cửa chớp bước vào.
Căn phòng khá rộng và thoáng mát. Một người đàn ông
ngồi sau một chiếc bàn to tướng đang cắm cúi viết.
Tân nhìn đăm đăm cố nhớ lại vị hiệu trưởng mà cậu
đã gặp một lần trước đây bốn năm lúc mới ra trường
về trình diện nhiệm sở, nhưng không còn nhớ chút nào
gương mặt xa xưa đó nữa. Người đàn ông ngưng viết
và ngước lên:
- Chào ông, ông muốn tìm ai?
- Thưa ông, tôi muốn tìm ông
hiệu trưởng.
- Vâng, chính tôi đây.
- Thưa ông, tôi là thiếu úy Tân,
tôi….
- A!
Ông hiệu trưởng đứng bật
dậy, reo lên mừng rỡ:
- Tôi đang chờ thiếu úy đây. À
mà bây giờ là giáo sư Tân chứ đâu còn là thiếu úy
nữa. Anh vừa mới được giải ngũ phải không?
- Vâng, thưa ông hiệu trưởng,
tôi vừa được giải ngũ và ở đơn vị về thẳng đây
để trình diện lại nhiệm sở cũ. Tôi xin trình ông hiệu
trưởng quyết định cho giải ngũ của bộ quốc phòng.
Tân cho tay vào túi nhưng ông hiệu
trưởng đã khoát tay:
- Khỏi, khỏi, anh không cần
trình giấy, tôi biết rồi. Tôi vẫn theo dõi hồ sơ của
anh và biết anh đã sắp hết thời hạn quân dịch pháp
định. Chốc nữa hoặc ngày mai anh hãy nạp bản sao giải
ngũ và chứng chỉ ngưng lương cho văn phòng. Nhà trường
cũng có vài giáo sư nhập ngũ sau anh nên chưa đến thời
hạn giải ngũ. Trong thời gian trong quân đội, anh có được
làm công việc thuộc về chuyên môn không?
Tân lắc đầu:
- Gần hết thời gian đi lính,
tôi ở đơn vị tác chiến.
Ông hiệu trưởng có vẻ thán
phục:
- Vậy à, thế thì rất đáng nể.
Trong trường, thỉnh thoảng các giáo sư vẫn nhắc đến
anh. Nhiều người còn nhớ cả tên anh nữa.
Tân ngạc nhiên:
- Họ còn nhớ tôi sao? Ngày
trước, khi tôi về đây trình diện thì trường cũng đang
nghỉ hè, tôi đâu có gặp ai, ngoài ông hiệu trưởng,
ông giám học và vài nhân viên văn phòng.
- Vào năm học, mọi người đều
biết có anh về trình diện nhưng lên đường nhập ngũ
ngay. Ai cũng tỏ ý xót xa và cầu mong anh được bình an
để trở về với các em học sinh.
Tân cảm động:
- Anh em vẫn nhớ đến người
không may mắn à?
Ông hiệu trưởng sôi nổi:
- Có chứ. Tôi còn nhớ có một
lần, lâu lắm rồi, anh Thân đang dạy sử địa trong một
lớp mười hai, nổi hứng nói với các em, đại khái như
thế nầy: “Các em có biết không? Đáng lẽ hôm nay, các
em đang ngồi nghe thầy Tân giảng bài nhưng tôi phải thay
thế vì thầy Tân đã nhập ngũ và sẽ trở thành một
chiến sĩ tung hoành ngoài trận mạc để cho các em được
ngồi yên ổn trong lớp học nầy….”. Các em vỗ tay
hoan hô, nhiều em đập bàn đập ghế om sòm. Học sinh là
thế đó, hễ có dịp là chúng làm ồn khiếp lắm. Lúc
đó, nhiều giáo sư không biết chuyện gì, ngưng giảng
bài, ló đầu ra nhìn. Từ trên văn phòng, tôi vội đi
xuống. Thầy Thân lặp lại câu nói để giải thích, tôi
đành cười trừ và rầy la các em một cách qua loa cho
xong chuyện. Đó, anh thấy chưa, các anh ra chiến trường,
ở hậu phương, chúng tôi vẫn không quên các anh đâu.
- Được nghe ông hiệu trưởng
nói như thế, tôi thực thỏa lòng sau bốn năm vào lính.
Ông hiệu trưởng hào hứng:
- Phải vậy chứ, các anh chịu
biết bao khổ cực, người hậu phương phải nhớ ơn các
anh. À, có tin vui cho anh. Anh có biết sau hai năm nhập ngũ,
anh bắt đầu được hưởng lương sai biệt giữa chức
vụ giáo sư và cấp bậc trong quân đội không?
- Dạ biết nhưng lâu quá tôi
quên mất chuyện đó đi rồi.
- Cách đây hai năm, tôi không
biết anh ở đâu để liên lạc. Anh không hề nhắn một
tin tức vào về trường. Tôi đánh điện đi hỏi nhiều
nơi mà không nhận được phúc đáp. Tôi chẳng biết anh
sống chết ra sao. Bây giờ, anh về đây rồi, tôi sẽ đốc
thúc văn phòng làm hồ sơ cho anh truy lãnh luôn hai mươi
bốn tháng một lượt. Món tiền cũng khá to để anh dùng
thu xếp cuộc sống của mình. Bây giờ, anh cứ nghỉ ngơi
trong suốt mấy tháng hè, mỗi tháng đến trường lãnh
lương. Gần đến ngày nhập học, anh đến đây nhận giờ
dạy của anh.
- Thưa ông hiệu trưởng, tôi có
việc muốn trình bày.
- Vâng, anh cứ nói.
- Tôi mốn xin thuyên chuyển về
Sài gòn để dạy.
Ông hiệu trưởng ngạc nhiên:
- Sao thế, chúng tôi mong anh trở
về đây cùng làm việc mà. Anh suy nghĩ lại xem.
Tân im lặng, nhớ đến câu nói
của Thùy Liên chiều hôm qua ở bến Ninh kiều: “Em thích
Sài gòn vì ở Cần thơ, em đã chứng kiến quá nhiều đau
thương…”.
Cậu ngẩng lên nhìn ông hiệu
trưởng, giọng vừa cương quyết, vừa khẩn khoản:
- Tôi cần về dạy học tại Sài
gòn nên tôi tha thiết xin ông hiệu trưởng đừng giữ
tôi lại và cầu mong ông chỉ cho tôi cách thức nào xin
về Sài gòn hữu hiệu nhất.
Ông hiệu trưởng có vẻ xiêu
lòng:
- Anh muốn về Sài gòn để có
thể gần gũi và săn sóc hai cụ phải không? Thôi được,
tôi không giữ anh đâu. Anh cứ xin thuyên chuyển. Anh có
ưu tiên vì là quân nhân xuất ngũ, xã hội cần đền bù
phần nào công sức của anh. Nếu anh xin được giấy
chứng minh đã từng ở đơn vị tác chiến thì càng tốt
hơn nữa. Trong thời gian ở quân ngũ, anh có huy chương gì
không?
- Có, tôi có một anh dũng bội
tinh và một chiến thương bội tinh.
Ông hiệu trưởng ngạc nhiên một
cách lý thú. Giọng ông đầy vẻ thán phục:
- Anh có bị thương à? Bị thương
ở chiến trường chứ?
Tân cười:
- Nếu không bị ở chiến trường
thì làm sao có chiến thương bội tinh?
- Anh bị thương ở đâu? Có bị
tật gì không?
- Tôi bị một viên đạn vào
vai, bay mất một chút xương. Chẳng bị tật gì cả nhưng
phải mang vĩnh viễn một miếng kim loại để làm kỷ
niệm chiến trường.
- Thế thì tốt lắm, anh làm đơn,
kèm theo các bản sao cần thiết. Hai hôm nữa, anh mang đến
nha trung học. Hôm đó, tôi đến làm việc với nha khảo
thí về hội đồng thi tú tài. Tôi sẽ cầm đơn của anh
trao thẳng ông giám đốc nha trung học. Xong kỳ thi nầy
thì nha trung học sẽ triệu tập hội đồng xét duyệt
thuyên chuyển, rất hi vọng đơn của anh sẽ được chấp
thuận. Anh có ý định về trường nào ở Sài gòn?
- Trường nào cũng được.
- Thế thì càng dễ cho hội đồng
xét duyệt. Xong rồi nhé. Xin anh thông cảm, tôi có quá
nhiều công việc phải giải quyết nội trong ngày hôm
nay. Anh giám học vừa về Đà nẵng sáng nay vì phụ trách
hội đồng thi ngoài đó, để lại rất nhiều việc mà
tôi phải làm cho xong thì mới kết thúc được năm học
vừa rồi.
Tân đứng dậy:
- Tôi xin lỗi đã làm mất thì
giờ quí báu của ông hiệu trưởng. Tôi cũng xin hết
lòng cám ơn ông hiệu trưởng. Ngày đầu tiên trở về
với đời sống dân sự, tôi đã gặp điều may mắn to
lớn mà ông hiệu trưởng đem đến cho tôi.
Ông hiệu trưởng siết chặt tay
cậu, giọng chan chứa cảm tình:
- Anh không phải quan tâm về điều
đó. Anh vừa trải qua bốn năm gian khổ trong quân ngũ,
chúng tôi ai cũng phải cố gắng giúp đỡ anh, gọi là
chút đền ơn đối với chiến sĩ. Thôi, chúng ta hẹn gặp
lại trong hai hôm nữa.
Hai người buông tay nhau. Tân ghé
xuống văn phòng rồi ra khỏi trường với tấm lòng phơi
phới.
Cậu lên xe đò và một giờ sau
xe đỗ bến Chợ lớn. Cậu xuống xe đứng yên một lúc
trong cái cảm xúc nhè nhẹ khi trở về thành phố thân
yêu mà cậu đã cách xa bao nhiêu năm tháng rồi.
“Về đâu bây giờ đây?”. Cậu
lẩm bẩm một mình và chợt một hình ảnh rất xa xưa
trở về trong trí óc. Đó là hình ảnh của một buổi
chiều khi hoàng hôn đang về trong ánh đèn đường vừa
bật sáng, một cậu bé vừa ra khỏi chiến khu Đồng tháp
mười và trở về Sài gòn để tiếp tục con đường
hoạt động cách mạng của mình. Bây giờ đứa bé đó
đã là một thanh niên trưởng thành, cũng từ một vùng
đất của Đồng tháp mười trở về Sài gòn để bắt
đầu gầy dựng cuộc sống bình thường của một công
dân trong chế độ tự do. Tân cảm thấy cuộc đời mình
như một con thuyền, chưa đầy ba mươi tuổi đầu mà đã
trải qua biết bao nhiêu sóng gió. Cách mạng, nỗi đam mê
một lý tưởng cao cả, rồi chiến tranh, nỗi kinh tởm
một chủ nghĩa bạo tàn. Mọi thứ trái ngược nhau trộn
lẫn vào nhau một cách lạ lùng, lôi cuốn những con người
yêu nước vào một cơn lốc, khi thì sát cánh bên nhau để
nhìn về một hướng, khi thì quay lại chĩa súng vào nhau
trong một cuộc chiến tranh không khoan nhượng.
Cậu buồn bã thở dài.
Một chiếc taxi trờ tới. Cậu
mở cửa và thờ ơ bước lên băng sau. Người tài xế bẻ
cờ của máy tính tiền nhưng vẫn đứng yên chờ đợi.
Cậu khẽ bảo:
- Sài gòn.
Xe rú máy và vọt tới. Tân nhìn
đồng hồ trong xe, đúng ba giờ chiều. Cậu ngồi vào
giữa để tránh ánh nắng rọi vào khung cửa kính. Sài
gòn đã vào mùa mưa mà trời trong xanh không gợn chút
mây, mặt trời ra sức trút hơi nóng xuống trần gian. Cậu
ngồi lim dim mắt nhìn ra bên ngoài; phố xá, người qua
lại vùn vụt lùi về phía sau.
Một lúc sau, người tài xế cho
xe chậm lại, nghiêng mặt hỏi:
- Thưa ông, về đường nào?
Tân thoáng giật mình:
- Tới đâu rồi?
- Thưa ông, chúng ta đang đi trên
đường Hồng thập tự, vừa qua khỏi Tao đàn, sắp đến
dinh Độc lập.
- Thế à, nhanh nhỉ.
Xe tiếp tục giảm tốc độ, bác
tài quay hẳn đầu về phía sau:
- Có lẽ ông mới đến Sài gòn
lần đầu?
- Không, tôi lớn lên tại thành
phố nầy. Tôi đã đi qua mọi con đường ở đây.
Bác tài mỉm cười:
- Thế, bây giờ tôi chở ông đến
đâu?
Tân lưỡng lự:
- À, à. Thôi cho tôi đến đường
Vườn chuối cũng được!
Bác tài càu nhàu:
- Nếu ông cho biết sớm hơn thì
chúng ta đã đến nơi rồi. Chúng ta đã đi quá, phải
tiếp tục đi tới để tìm chỗ quay đầu xe lại, tốn
thêm tiền cho ông.
Tân im lặng nhìn ra bên ngoài.
Đầu óc cậu tập trung lại, cậu bắt đầu nhận ra
khung cảnh quen thuộc trên đường. Một chốc sau, cậu
nói:
- Bác tài cho tôi xuống đây.
Xe dừng lại bên vệ đường.
Cậu trả tiền, ôm bao hành trang bước xuống. Xéo bên
kia đường là một căn phố lầu khá đồ sộ, tầng dưới
là cửa tiệm sang trọng với tấm bảng hiệu to và đẹp:
“Tạp hóa Bạch Mai”
Cậu đứng tần ngần một chút
rồi băng qua đường, đứng trước cửa tiệm và nhìn
vào. Một người đàn ông, có lẽ là khách hàng đang đứng
đợi giữa phòng. Dưới nền gạch bông, một người đàn
bà ngồi quay lưng ra ngoài, đang loay hoay cột dây quanh một
gói hàng khá to, một đứa bé gái đứng cạnh chăm chỉ
nhìn. Tân khẽ gọi:
- Bạch Mai!
Người đàn bà ngẩng lên, vụt
đứng dậy:
- Anh Tân, trời ơi, anh Tân. Anh
Tân đó à? Anh về lúc nào vậy?
Tân đứng im lặng mỉm cười.
Mai nói tiếp:
- Anh Tân, vào đi. Anh đợi em một
chút. Em gói hàng xong cho khách đã.
Tân đứng yên, hết nhìn nàng
lại nhìn sang đứa bé gái bên cạnh. Con bé thực xinh,
đôi mắt mở to trông giống đôi mắt Bạch Mai lạ lùng.
Bé nhìn sững Tân, miệng méo lại như sắp khóc.
Người khách đã ra khỏi tiệm.
Mai đứng dậy, bế con lên tay và nói nhỏ:
- Anh Tân, vào nhà đi. Sao anh cứ
đứng im nhìn em vậy. Chắc bây giờ, em xấu xí lắm làm
anh lạ lùng nên đứng nhìn mãi phải không?
Tân mỉm cười:
- Không, Mai vẫn đẹp nhưng trông
lạ hẳn ra. Mới hơn hai năm mà có thực nhiều thay đổi.
Tân nhìn quanh, những tủ kính
đầy ắp hàng hóa sang trọng. Bạch Mai kéo ghế đưa cho
Tân và ngồi đối diện; đứa bé ôm chặt lấy mẹ. Nàng
nhìn Tân một cách thân mật, lăp lại câu hỏi ban đầu:
- Anh Tân, anh về lúc nào vậy?
- Anh vừa xuống xe và đến đây
ngay.
- Tại sao hai năm rồi, anh không
về thăm, cũng chẳng có một lá thư hay lời nhắn gởi
nào. Bộ anh không biết ba và vợ chồng em lo lắng cho anh
hay sao?
Tân mỉm cười khi nghe giọng nói
trách móc và đầy hờn dỗi của người bạn gái. Mai vẫn
tiếp tục nói như để trút hết nỗi giận hờn:
- Anh vô tình lắm, đi biền biệt
ngoài chiến trường mà không quan tâm đến sự lo lắng
hằng ngày, hằng giờ của người khác. Có một lần,
chồng em nghe tin có một thiếu úy tên Tân của sư đoàn
Chín tử trận. Anh Thế về kể lại, em khóc oà làm cho
ba và anh Thế cũng khóc theo. Sau hỏi lại thì ra người
tử trận là Nguyễn thành Tân chứ không phải anh. Anh
Tân, lúc nào em cũng sợ anh đi luôn không về như Bính
vậy.
Mai nghẹn ngào không nói tiếp
được. Nàng đưa tay áo chặm vào mắt, nuốt mạnh nước
bọt để dằn cơn xúc động rồi nói tiếp:
- Em và anh Thế sửa sang nhà cửa
lại, phần lớn cũng nhờ có số tiền tử tuất của
Bính. Ngày xưa, công khó nhọc của Bính giúp em mở tiệm
tạp hóa, cứu vớt mạng sống của mẹ con em. Bây giờ,
chính món tiền tử trận của Bính mà ba em lãnh được,
giúp nhà cửa khang trang và việc buôn bán phát đạt hơn.
Sửa nhà xong, em dành một chỗ đẹp nhất trên lầu để
đặt bàn thờ Bính. Bây giờ, em dẫn anh đi xem chỗ thờ
và đốt nén nhang cho Bính. Nó thấy anh về, chắc chắn
nó mừng lắm.
Tân lại mỉm cười:
- Anh xuống xe rồi đến đây
ngay; áo quần, đầu cổ, tay chân đều đầy bụi bặm.
Dơ bẩn thế nầy mà đi viếng linh hồn tinh khiết của
Bính thì khó coi lắm.
Bạch Mai bật cười:
- Trời đất, em lẩm cẩm quá đi
mất. Thấy anh về, em mừng quá, không kịp suy nghĩ gì
cả. Thôi thôi, anh theo em vào sau nhà rửa ráy, uống nước.
- Khoan, cho anh hỏi thăm trước
đã. Bác trai có mạnh không, anh Thế hôm nay đi làm hay ở
nhà? Bé Bình đi học chưa về? Bé gái nầy có phải con
anh Thế không?
- Trời đất, em như lú lẫn rồi.
Những chuyện nầy, đáng lẽ em phải nói cho anh rõ trước
khi nói sang chuyện khác mới đúng. Anh đừng cười em. Em
mừng quá đâm ra lú lẫn. Nầy nhé, ba em vẫn khỏe nhưng
sau khi Bính chết thì ba em già đi nhanh chóng.
Nàng quay mặt vào trong gọi to:
- Ba ơi ba, anh Tân về đây nè.
Nàng quay trở lại, nói tiếp:
- Ba em ở trên đó suốt ngày đọc
kinh kệ và triết lý của đạo Phật. Anh Thế, chồng em
vẫn mạnh khỏe. Anh ấy lên thiếu tá từ năm ngoái, vẫn
còn ở tổng tham mưu, ngày nào cũng đi làm, không kể
chúa nhật hay ngày thường. Bé Bình đang học lớp hai,
sáng anh Thế chở đi, chiều đón về. Còn đây là bé
Thảo, con của em và anh Thế.
Có tiếng chân bước ở cầu
thang. Bạch Mai nói nhanh:
- Ba em đi xuống đó.
Tân đứng ngay dậy, bước vào
phía trong, nơi chân cầu thang.
- Bác Tư.
Ông già nắm chặt hai bàn tay của
cậu, giọng run run:
- Tân, cháu về thăm bác đây à.
A di đà Phật. Đêm nào bác cũng cầu xin Phật bà Quan âm
cho cháu được tai qua nạn khỏi nơi chiến trường. Bây
giờ thì bác thấy tận mắt cháu về đây rồi. Đội ơn
Phật Bà.
Tân cảm động:
- Cháu xúc động lắm. Cháu không
ngờ tấm thân côi cút của cháu lại được nhiều người
quan tâm đến thế. Cháu không biết làm thế nào để đền
đáp tấm lòng thương yêu của bác và của Bạch Mai đối
với cháu.
Bạch Mai chen vào:
- Anh Tân đừng nói lời khách
sáo như thế, em không thích đâu. Từ lâu rồi, cả nhà
em đều coi anh là người thân thiết, anh không biết sao?
Thôi bây giờ thế nầy nhé. Anh Tân đi tắm rửa đi. Ba
ra ngoài trước ngồi trông hàng và con cháu ngoại giúp
con.
Tân ngạc nhiên.
- Mai đi đâu?
- Em đi chợ mua thức ăn về để
cả nhà mừng gặp lại anh. Anh Thế và bé Bình cũng sắp
về rồi. Ba giúp con một tí nhé.
- Ừ, con đi đi, để cửa hàng
và con bé đó cho ba.
Tân tắm xong thì Bạch Mai cũng
vừa về. Nàng đặt túi thức ăn lên kệ bếp, vừa cười,
vừa nói:
- Em đi khắp chợ chiều, suy nghĩ
mãi, không biết anh thích món ăn gì?
- Cuối cùng Bạch Mai mua thứ gì
để đãi anh?
Mai, đưa một ngón tay lên môi:
- Bí mật. Tí nữa, vào bàn ăn,
anh mới có quyền biết món gì. Bây giờ thì anh lên lầu
đốt nhang cho Bính đi. Anh lên hết cầu thang là gặp ngay
bàn thờ nó.
Tân làm theo lời nàng. Chiếc bàn
thờ xinh xinh và trang hoàng đẹp mắt. Phía sau lư nhang là
khung ảnh của Bính, mặc quân phục đi phép của sinh viên
sĩ quan, cầu vai có mang huy hiệu alpha và một gạch, đôi
mắt sáng quắc, nhìn thẳng về phía trước, miệng hơi
mỉm cười. Bên dưới tấm ảnh là một bông mai vàng và
huy chương anh dũng bội tinh.
Tân đốt ba cây nhang cắm vào lư
và đứng im nhìn khung ảnh. Cậu bỗng cảm thấy trong
lòng mình dâng lên một mối xúc cảm vô cùng mãnh liệt.
Cậu quỳ xuống gục mặt vào cạnh bàn thờ. Những ngày
lang thang ngoài chiến địa lần lượt hiện ra: núi rừng
Bình định trùng trùng điệp điệp, cánh đồng Kiên
lương mênh mông bát ngát, vườn dừa Bến tre một màu
xanh thẳm, bãi dừa nước như vô tận của Vĩnh bình và
cuối cùng, những ngọn núi Thất sơn chơi vơi trên cánh
đồng bao la. Ôi, Thất sơn, một buổi chiều oan nghiệt!
Bính đã nằm xuống với quả tim chứa đầy tình nhân ái
đã bị vỡ toang!
Tân rùng mình vì một bàn tay
chạm nhẹ vào vai. Cậu quay đầu lại, bắt gặp cái nhìn
buồn bã của bác Tư. Bác nói với giọng nhỏ nhẹ:
- Cháu Tân, đứng dậy đi. Nhớ
đến em nó như thế là tốt, nhưng đừng nên buồn khổ.
Sống chết là lẽ đương nhiên của một kiếp luân hồi.
Sống là để chuẩn bị cho sự chết; chết là để cho
một sự sống khác bắt đầu. Chẳng có gì đáng vui mà
chẳng có gì phải khổ.
Tân đứng dậy, nhìn ảnh một
lần nữa rồi theo bác xuống tầng dưới.
Có tiếng xe gắn máy dừng phía
trước, bác Tư nhìn ra và bảo:
- Chồng con Mai chở con về rồi
đó.
Thiếu tá Thế dựng xe, bước
xuống, đi vào nhà. Giọng anh oang oang:
- À, anh Tân!
- Chào thiếu tá.
Thế xua tay:
- Thiếu tá gì. Tôi là Thế,
chồng của Mai.
Tân mỉm cười:
- Vâng, chào anh Thế.
Hai người bắt tay nhau. Thế hỏi:
- Anh về hồi nào vậy? Đi phép
giải ngũ phải không?
- Vâng, tôi bắt đầu đi phép
giải ngũ, nhưng sao anh biết?
Thế cười to:
- Sao lại không biết? Anh quên
tôi là sĩ quan của tổng tham mưu à? Phòng tôi cũng có
hai thiếu úy khóa Mười bốn như anh và cũng vừa hoàn
tất thủ tục giải ngũ, ngày mai là tiệc chia tay.
Mai dưới bếp tất tả chạy
lên, níu chặt cánh tay của chồng:
- Trời ơi, anh Tân được giải
ngũ à? Tại sao từ chiều đến giờ, anh không nói cho em
biết?
Tân cười:
- Từ lúc tôi về nhà đến giờ,
Mai giành nói hết, tôi có dịp nào để trình bày đâu.
Bác Tư chen vào, giọng trầm
trầm:
- Cháu Tân được ra khỏi quân
đội rồi à? Tại sao vậy?
Tân đáp:
- Cháu đã nhập ngũ được bốn
năm, hết thời hạn quân dịch pháp định nên được
xuất ngũ và trở thành một phần tử trừ bị cho quốc
gia.
- Vậy hả, đủ bốn năm rồi
sao?
Bác chép miệng và nói tiếp:
- Nếu thằng Bính còn sống thì
bây giờ cũng được giải ngũ để về đi học và đi
dạy lại rồi.
Bác dứt lời, gian nhà bỗng rơi
vào một sự im lặng nặng nề. Thiếu tá Thế nói to với
vợ để phá tan sự im lặng đó:
- Bé Thảo đâu rồi em?
Mai cũng cố lấy giọng vui vẻ
để trả lời:
- Em gởi nó cho ông ngoại để
đi chợ. Nó ngồi với ông một lát chán quá nên ngủ gục
trên tay ông. Em bế nó vào giường rồi. Thôi, anh tắm đi
rồi ăn cơm. Bình, sao con đứng yên vậy? Con chào bác Tân
đi. Lúc nhỏ, con gọi bác Tân là đại tướng đó, con
không nhớ sao?
- Bây giờ, đại tướng bị lột
lon rồi.
Tân vừa nói vừa cười và cúi
xuống ôm chặt thằng bé vào lòng. Thiếu tá Thế nhìn
đứa bé một cách âu yếm và nói với Tân:
- Cháu Bình ngoan lắm, bác Tân ạ.
Cháu học giỏi nhất lớp. Tháng nào cô cũng ghi lời khen
vào vở của cháu. Từ khi được nó gọi là ba, tôi càng
ngày càng nghĩ đến tương lai của bọn trẻ nhiều hơn.
Tôi thường cầu mong cho chiến tranh chấm dứt để cho
thế hệ thằng Bình lớn lên trong khung cảnh thái bình và
không phải chịu đựng sự điêu đứng triền miên như
thế hệ mình.
Mai tiếp lời với giọng sôi
nổi:
- Anh Tân, hai cha con thương yêu
và quyến luyến nhau, làm cho cả xóm nầy, ai cũng phải
ngạc nhiên và thán phục. Anh Thế thường bàn bạc với
em là phải dạy dỗ nó thế nào cho tốt, sau nầy cho nó
học ở đại học nào hay đi du học ở đâu để trở
thành nhân tài của đất nước.
Thiếu tá Thế quay sang nhìn vợ
một cách âu yếm còn Tân nhìn sững thiếu tá. Cậu thấy
trên gương mặt cương nghị của vị sĩ quan Việt Nam
Cộng hòa nầy, ngời lên một nét cao thượng và nhân từ
đáng yêu, đáng quý vô cùng. Cậu nghĩ thầm; “Thằng
Bình có hiểu nó là một đứa trẻ vô cùng may mắn hay
không? Cha ruột nó, bây giờ có lẽ không còn nhớ nó có
mặt trên cõi đời nầy nữa. Một người đàn ông khác
không có tí liên hệ máu huyết nào với nó lại thương
yêu, đùm bọc nó nhiều hơn biết bao người khác đối
với những đứa con ruột thịt của mình”.
Bạch Mai vỗ vào vai chồng:
- Em đã bảo anh đi tắm và thay
áo quần để cho em soạn bàn ghế ra dọn cơm. Chốc nữa
vào bữa ăn, tha hồ anh em nói chuyện. Hôm nay mừng anh
Tân được giải ngũ trở về, em đãi hai anh một món
ngon tuyệt. Em cũng cho phép anh say sưa với anh Tân một
bữa.
Thế lườm vợ:
- Cho phép, cho phép. Lúc nào em
cũng ra giọng cấp trên ra lệnh cho cấp dưới. Em không
coi cái lon thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng hòa của anh
ra gì cả.
Tân cười ha hả:
- Cái lon thiếu tá của anh Thế
mà Mai coi không ra gì thì cái lon thiếu úy của tôi đáng
để Mai vứt vào sọt rác không thương tiếc.
Bạch Mai cũng không vừa:
- Các anh là cấp chỉ huy ở
trong quân đội, còn ở nhà nầy, chuyện bếp núc, ăn
uống là của em. Em nói gì, các anh phải nghe theo. Nếu
các anh còn phàn nàn nữa thì em sẽ cúp phần rượu chiều
nay như người ta cúp phép của các anh trong quân đội
vậy.
Cả nhà cười vui ồn ào. Nét
mặt bác Tư cũng rạng rỡ. Bác cố nói thực to:
- Nhìn thấy các con vui vẻ thế
nầy, ba thấy tuổi già của ba cũng đáng kéo dài thêm
vài năm nữa.
Bữa ăn gia đình được dọn ra
với những thức ăn thơm phức, ngon lành. Quanh chiếc bàn
tròn, cả nhà ngồi quây quần, hai đứa bé cũng ngồi bên
cha nó. Mai luôn tay gắp thức ăn và rót rượu bia cho Tân
và cho chồng mình. Nàng không thiết gì ăn uống mà chỉ
thích ngồi nhìn hai người đàn ông chén chú, chén anh,
với đôi mắt ngập tràn hạnh phúc.
Tân cảm thấy hơi nóng bừng
bừng bắt đầu xông lên mặt. Cậu bắt đầu chếnh
choáng say nên lòng tràn đầy hứng khởi. Cậu quay sang
ông Tư:
- Thưa bác Tư, con không nhớ cuộc
đời con, cho đến nay, có bữa cơm gia đình nào vui vẻ
như bữa hôm nay không. Chắc chắn là không có đâu bác
Tư ạ. Biết bao năm rồi, con cứ lang thang nơi nầy sang
nơi nọ, không có những bữa cơm gia đình mà chỉ có
những bữa ăn tập thể vội vã trong rừng núi, trên
những cánh đồng hay những bữa ăn đơn độc và nhạt
nhẽo trên đường phố. Hôm nay, con vui quá, thức ăn ngon
lành, rượu thì Bạch Mai cứ rót đầy ly. Con sợ đến
lúc quá chén, không kiểm soát được lời nói của mình,
rồi phải hối hận.
Thiếu tá Thế đứng bật dậy:
- Anh Tân đừng ngại. Tôi có
nhận xét khá chính xác về tính tình của mỗi người
trong cuộc nhậu. Nhìn thấy nét mặt, nhất là đôi mắt
của anh lúc hơi men bắt đầu bốc lên là tôi biết anh
thuộc về típ người không khi nào buông rời lý trí kể
cả lúc không còn đủ sức ngồi hay đứng vững nữa.
Trong quân đội, chắc chắn, anh phải trải qua nhiều cuộc
nhậu đến cái độ không còn biết trên đầu mình còn
có bầu trời nữa. Tuy nhiên, tôi tin rằng anh chưa bao
giời nói điều gì xúc phạm đến người khác, có đúng
không?
Tân không trả lời mà cười một
cách rất thoải mái. Thế ngồi xuống nhưng cao hứng nói
tiếp:
- Có những người, khi say thì ăn
nói quàng xiên vì không làm chủ được mình. Lại có
người khi say lại trở nên cởi mở và thành thực hơn,
không quá kín đáo và dè dặt như lúc chưa say. Anh Tân có
đồng ý vậy không?
Tân trả lời người cách vui vẻ:
- Rất đồng ý. Anh có nhận xét
về tâm lý rất đáng khen.
- Chẳng có gì đáng khen. Sống
chung lâu ngày với đồng đội cho tôi nhận xét như thế.
Tôi rất thích sự thành thật và cởi mở. Vì vậy tôi
yêu cuộc sống trong quân ngũ; ở đó người ta sống chân
thật, không ngại bộc lộ những tính chất riêng tư của
mình.
Tân gật gù:
- Anh Thế, tôi rất cảm phục
anh. Bạch Mai thực có phước mới được làm vợ anh.
Ông Tư gật gù, có vẻ hài lòng
về câu nói đó, còn Bạch Mai mặt ửng hồng, dù chưa
uống một giọt rượu nào. Nàng thỏ thẻ:
- Cám ơn anh Tân. Chúng em rất
hạnh phúc khi sống chung với nhau. Nhớ lại khi anh Thế
ngõ lời cưới em, em không ngờ được như hôm nay. Về
tình duyên của quá khứ, anh Thế và em đều là những
người bất hạnh. Chúng em đã góp hai số phận bất hạnh
đó để làm nên hạnh phúc hôm nay.
Ông Tư cũng tỏ ra cao hứng. Ông
nói:
- Trong trời đất, luôn luôn có
luật bù trừ và luật nhân quả các con ạ. Lúc gặp bất
hạnh mà vẫn giữ được lòng nhân thì thế nào cũng có
lúc được ông Trời ban thưởng.
Bạch Mai nhìn Tân, giọng nghiêm
trang:
- Anh Tân, anh nghe ba em nói chưa.
Bất hạnh mà giữ được lòng nhân thì thế nào cũng
được ông trời ban thưởng. Quá khứ anh có nhiều bất
hạnh. Bất hạnh hơn biết bao người khác. Lòng nhân của
anh cũng quá dư thừa. Em chắc chắn anh sắp được đền
bù, đúng như lời ba vừa nói. Nhưng anh đã tìm được
người nào để đền bù hạnh phúc cho anh chưa?
Tân ngẩng lên nhìn vào đôi mắt
Bạch Mai và gật đầu:
- Có rồi!
Một nét hoảng hốt vụt thoáng
qua trên gương mặt của Bạch Mai rồi biến mất nhanh như
tia chớp. Giọng nàng tiếp tục tự nhiên và vui vẻ:
- Em xin chúc mừng anh. Ba em, anh
Thế và hai cháu bé cũng chúc mừng anh. Anh định chừng
nào rước nàng tiên của anh về?
Tân lắc đầu:
- Chưa định được. Mới giải
ngũ ra, phải lo ổn định cuộc sống trước đã.
Ông Tư tỏ vẻ quan tâm:
- Cô ấy ở đâu, làm nghề gì?
- Thưa bác, Thùy Liên ở Cần
thơ, làm y tá trong quân y viện. Con gặp Liên cách nay hơn
một năm, lúc đang dưỡng thương ở đó.
Bạch Mai nhỏm dậy, giọng hốt
hoảng:
- Sao, anh bị thương hả? Bị
thương thế nào, ở đâu?
- Bị bắn vỡ xương vai ở mặt
trận Vĩnh bình. Vết thương lành hẳn rồi, cánh tay hoạt
động bình thường. Vả lại, trở về dạy học chỉ
phải cầm viên phấn thôi thì không có gì đáng ngại.
Thiếu tá Thế hỏi:
- Có được chiến thương bội
tinh không?
- Có.
- Thế là anh được liệt vào
hàng ngũ những đứa con cưng của Tổ quốc rồi.
Bác Tư muốn quay trở về câu
chuyện:
- Thế hai đứa đã hẹn hò nhau,
dứt khoát tiến tới hôn nhân chưa?
- Dạ, gần như dứt khoát rồi.
- Cô ấy còn cha mẹ không?
- Dạ còn.
- Cháu đã gặp ông bà và thưa
chuyện chưa?
- Dạ chưa, nhưng cháu sẽ đến
gặp. Điều cần kíp bây giờ là cháu phải lo chuyện
sinh sống, chuyện nghề nghiệp, chuyện chỗ ở rồi mới
tính toán chuyện hôn nhân được. Sáng nay, cháu vừa gặp
ông hiệu trưởng trường trung học Long an và xin ông ấy
giúp cháu thuyên chuyển về Sài gòn. Ông hiệu trưởng
hứa hết lòng giúp cháu. Theo lời ông ấy thì gần như
chắc chắn hội đồng xét duyệt thuyên chuyển sẽ chấp
thuận nguyện vọng của cháu vì cháu có bốn năm thâm
niên quân vụ, có anh dũng bội tinh và chiến thương bội
tinh.
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Chiến thương bội tinh là quan
trọng nhất. Nếu bộ giáo dục không chấp thuận đơn
của anh thì bộ tổng tham mưu sẽ can thiệp cho anh.
Bác Tư tỏ vẻ hài lòng:
- Ừ, hai con lo được gì cho cậu
Tân thì ráng hết sức đi. Lo cho cậu Tân thì cũng như lo
cho thằng Bính vậy.
Bạch Mai chớp chớp mắt như
muốn khóc:
- Anh Tân, anh có chấp nhận sự
góp sức của chúng em hay không?
Tân trả lời ngay:
- Sao lại không? Đó là điều
may mắn rất lớn trong cuộc đời tôi mà.
Thiếu tá Thế chen vào:
- Tốt lắm. Bây giờ, chúng ta
tính toán, việc nào cần làm trước, việc nào cần làm
sau. Ngày mai, anh Tân định làm việc gì?
- Tôi sẽ dành trọn ngày mai đi
bộ khắp các đường phố Sài gòn để ôn lại những kỷ
niệm sau bốn năm dài xa cách. Ngày mốt tôi đến nha
trung học, gặp anh hiệu trưởng để nhờ nạp đơn xin
thuyên chuyển.
- Sau đó đi thăm những nơi quen
biết?
Tân lắc đầu:
- Ở Sài gòn nầy, tôi quen rất
nhiều người nhưng rốt cuộc chẳng còn nơi nào quen biết
trừ nhà nầy. Nhưng tôi sẽ đi Bảo lộc để thăm ông
bà Thái, ân nhân của tôi trước đây, đi Biên hòa thăm
anh Long, người bạn tù khá thân thiết của tôi.
- Rồi sau đó?
- Nằm đợi cho hết mấy tháng
hè để đi dạy.
Thiếu tá Thế tặc lưỡi:
- Nằm không thì phí thì giờ
lắm. Trường tư đang bắt đầu khai giảng. Anh có thích
đi dạy ở đó không?
- Thích lắm chứ, nhưng tôi chẳng
biết làm thế nào. Không quen biết, đến xin dạy thì ai
mà cho.
- Đúng rồi, không có người
giới thiệu thì chẳng có trường nào nhận đâu. Tôi có
một người bạn hiện đang làm hiệu trưởng một trường
trung học tư thục ở đường Trần quí Cáp. Chúng tôi là
bạn học từ thở nhỏ và khá thân nhau. Lớn lên, tôi
theo nghiệp nhà binh, anh ấy theo nghề dạy học. Tôi sẽ
đến xin cho anh một chân giáo sư tại đó.
Giọng Tân bộc lộ niềm hân
hoan cùng cực:
- Cám ơn anh. Anh giúp tôi như thế
là mở ra con đường tươi sáng cho sự trở về đời
sống dân sự của tôi.
- Được rồi, tôi sẽ làm được
việc đó cho anh. Tôi tin rằng, với khả năng của anh,
một khi đã bám rễ được vào một trường tư rồi thì
bộ rễ đó sẽ phát triển mạnh mẽ, đảm bảo được
cuộc sống vật chất của anh và gia đình tương lai sau
nầy. Chuyện dạy dỗ coi như xong rồi, đến vấn đề gì
nữa?
Tân ngập ngừng:
- Vấn đề chỗ ở.
Bạch Mai vội chen vào:
- Thì anh ở đây cũng được chớ
có sao. Em sẽ thu xếp chỗ ở của anh vào cái phòng trống
trên lầu, kế cận phòng của ông ngoại hai cháu.
Tân lắc đầu:
- Cám ơn lòng tốt của Bạch
Mai. Nhưng tôi chỉ xin trú tạm ở đây vài hôm thôi. Đây
là nơi thân duy nhất của tôi hiện nay. Tuy nhiên tôi muốn
giữ nguyên sinh hoạt riêng tư của gia đình Bạch Mai và
anh Thế.
Bạch Mai xua tay:
- Thôi thôi, em biết rồi. Anh
đang nôn nóng lập một tổ ấm, một túp lều tranh cho
hai quả tim vàng, đúng không?
Nàng quay sang nói với chồng:
- Gần đây, trong hẽm 175, có một
căn phố của bà Ba Tí. Ông Ba đạp xích lô mới bị bệnh
mất cách nay nửa tháng. Hôm đi đám ma, em có nghe bà Ba
than thở là hai ông bà không có con; nay ông mất rồi thì
bà không thể sống một mình nên phải về nhà quê, đâu
ở miệt Vĩnh long để sống gần gũi với bà con. Bà muốn
bán rẻ căn phố đó.
Thiếu tá Thế tỏ vẻ băn khoăn:
- Rẻ thì rẻ, nhưng anh Tân vừa
mới chân ướt chân ráo về với đời sống dân sự thì
làm gì có tiền.
Tân mỉm cười:
- Tôi sắp truy lãnh tiền lương
sai biệt trọn hai năm. Nghe anh hiệu trưởng nói món tiền
khá lớn.
Bạch Mai mừng rỡ:
- Thế là được rồi. Anh Tân sẽ
dùng món tiền đó để mua nhà. Nếu thiếu vợ chồng
chúng em cho anh mượn thêm rồi anh rán đi dạy để trả
cho chúng em. Em nghe nói trí thức bị động viên vào quân
đội nên các trường tư thiếu giáo sư nhiều lắm, anh
tha hồ dạy kiếm tiền.
- Cám ơn Bạch Mai.
- Thế thì, ngày mai, anh đi chơi
về sớm rồi cùng vợ chồng chúng em đến coi nhà. Nếu
anh bằng lòng thì chúng em đặt cọc giùm cho anh.
Nàng quay sang chồng:
- Chiều mai, anh về sớm một
chút được không?
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Được, em ra lệnh thì đương
nhiên anh phải thu xếp về sớm, bởi vì nhất vợ….
Bạch Mai xua tay:
- Thôi thôi, không nói chơi nói
giỡn nữa. Chuyện nầy phải gấp rút, nếu không người
khác họ mua mất. Sáng mai em sẽ chạy sang đó ngay. Anh
Tân lập gia đình mà sống gần mình thì thích quá phải
không ba?
Bác Tư gật đầu:
- Ba đã nói rồi, hai con nên cố
gắng giúp đỡ cậu Tân.
Thiếu tá Thế cười tuơi:
- Xong thêm một chuyện nữa. Bây
giờ mới đến chuyện hấp dẫn nhất phải không anh Tân?
Bạch Mai ngạc nhiên :
- Chuyện gì mà hấp dẫn?
- Rước người đẹp Hậu giang
về, chuyện đó không hấp dẫn sao? Có phải vậy không
ba?
Bác Tư cười ha hả:
- Chuyện đó thì quả nhiên hấp
dẫn đối bọn thanh niên. Tao nhớ ngày xưa, mấy ngày
trước khi rước bả về, tao lo lắng mất ngủ đến ốm
rộc cả người. Thiệt hấp dẫn mà cũng đáng sợ nữa.
Ha, ha. À, khi nãy, cháu Tân nói con nhỏ đó ở Cần thơ
mà tên gì, bác quên rồi.
- Dạ Thùy Liên, Đặng thị Thùy
Liên.
- Tại sao hai đứa thương nhau
rồi mà cháu không đến trình diện ba má cô Liên để
cho hai ông bà coi giò coi cẳng?
Tân cười:
- Thưa bác, giò cẳng cháu thì
không có gì đáng lo. Nhưng Thùy Liên dặn cháu để cô ấy
thông báo với ông bà trước đã.
- Sợ ông bà phản đối à?
- Dạ, không phải vậy. Chắc
chắn ông bà đồng ý. Thùy Liên lớn rồi, năm nay đã
hai mươi bốn tuổi, chứ đâu còn nhỏ nữa. Nhưng vì một
lý do riêng, Thùy Liên bắt cháu phải đợi một thời
gian ngắn.
Bác Tư gật đầu:
- Ừ, coi vừa ý rồi thì phải
lo tính toán đi. Thương nhau mà đã quyết định đi đến
hôn nhân thì nên có một hình thức lễ nghi nào đó để
tạo lòng tin cho nhau.
Thiếu tá Thế xen vào:
- Cũng như muốn mua được nhà
thì sau khi nhìn qua một cái là phải đặt cọc ngay, nếu
không thì người khác phỏng tay trên mất.
Bạch Mai lườm chồng:
- Anh ăn nói vậy sao? Cưới vợ
mà bảo như đi mua nhà! Nhà, không bằng lòng cái nầy thì
đổi sang cái khác; vợ thì đâu có được như vậy.
Thiếu tá Thế làm bộ thở dài:
- Vì vậy, khi nãy ba nói, rước
vợ về là điều hấp dẫn nhưng cũng đáng sợ lắm phải
không ba?
Bác Tư vuốt râu cười khà khà.
Ông quay sang hỏi Tân:
- Chừng nào thì cháu sẽ về Cần
thơ ra mắt ông bà thân sinh của cô Liên.
- Cháu chưa biết. Cháu và Liên
sẽ thường xuyên liên lạc bằng thư từ. Cháu xin địa
chỉ nhà nầy để nhận thư của Liên có được không?
Bạch Mai giành câu trả lời:
- Sao không được? Anh cứ bảo
chị Liên gửi thư về đây đi, không ai xem lén đâu mà
sợ. Anh cứ xem nơi nầy là nhà của anh, đưa địa chỉ
nầy cho tất cả những người quen biết mà anh cần liên
lạc. Sau nầy, khi anh có chỗ ở riêng rồi thì anh cũng
cứ xem nhà nầy là nơi rất thân thiết của anh. Em và
tất cả người khác trong gia đình đều thích như thế.
Bác Tư và thiếu tá Thế mỉm
cười gật đầu.
Tân tỏ vẻ xúc động:
- Cám ơn Bạch Mai. Tôi sẽ viết
thư cho Liên để kể cho cô ấy nghe rằng, từ chiến
trường về thủ đô, tôi bước vào nhà nầy như một
lãng tử lạc vào thiên đàng.
Bạch Mai nguýt dài:
- Thôi anh đừng ví von nữa. Khi
nãy ba hỏi khi nào anh về Cần thơ trình diện bố mẹ vợ
mà anh chưa trả lời.
Tân quay sang bác Tư:
- Dạ chừng nào Liên gởi thơ
lên và bật đèn xanh là con xuống liền.
Bác Tư trầm ngâm một chút rồi
ngẩng lên nhìn Tân:
- Cháu Tân!
- Dạ
- Bác nói điều nầy cháu nghe.
Nếu cháu không đồng ý thì bỏ qua nhé.
Tân ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy bác?
- Chuyện nầy không phải chuyện
tức thì bây giờ, nhưng bác nghĩ cũng không còn xa lắm
đâu.
- Chuyện gì vậy bác? Bác nhập
đề dài quá, cháu hồi hộp lắm.
Bác Tư vuốt râu mỉm cười:
- Chuyện thế nầy nè. Cháu mồ
côi từ thuở nhỏ. Bác biết ở miền Nam nầy cháu chẳng
còn bà con thân thiết nào nữa để lo việc lễ nghi trong
hôn nhân sắp tới của cháu. Nếu cháu đề nghị thì bác
sẵn sàng đứng ra thay mặt ba má cháu.
Tân vụt đứng dậy:
- Bác Tư, cháu….
Bác Tư đưa tay ra dấu cho cậu
ngồi im và nói tiếp:
- Cháu không có anh em ruột thịt
gì ở đây cả. Vậy thì vợ chồng Thế và Mai sẽ thay
thế anh chị em của cháu. Bác biết phong tục của nhà
quê miền Nam mà. Đến giai đoạn tiến hành lễ nghi mà
cháu cứ đơn thân độc mã thì không thể tiến hành
được. Còn nếu cứ tiến hành bừa đi thì vợ cháu cũng
sẽ tủi thân với bà con hàng xóm, tội nghiệp nó. Cháu
có đồng ý lời đề nghị của bác không?
Tân trịnh trọng nắm lấy bàn
tay ông cụ nâng lên, nghẹn ngào:
- Bác Tư, cháu cảm ơn bác vô
cùng vô tận. Chắc chắn, ba má cháu trên tiên cảnh cũng
rất cảm kích về ân huệ nầy của bác đối với cháu.
Cậu quay sang hai bạn:
- Anh Thế, Bạch Mai, tôi phải
nói thế nào để cảm ơn lòng tốt của các bạn đây?
Thiếu tá Thế cười vui vẻ:
- Anh khỏi nói gì cả, để tâm
xúc tiến nhanh công việc, thế là anh đáp lại lòng mong
muốn của vợ chồng chúng tôi rồi đó.
Tân ngồi xuống, ngửa đầu ra
sau, nhắm mắt lại, nói nho nhỏ:
- Đúng là hôm nay, gã lãng tử
đã lạc vào một thiên đường.
Chiếc đồng hồ trên tường
thong thả ngân nga mười tiếng. Bác Tư bảo:
- Thôi khuya rồi, lo thu xếp và
đi ngủ.
Bạch Mai nói với Tân:
- Thường ngày mới hơn tám giờ,
ba đã vào giường rồi. Hôm nay, ông cụ ngồi đến giờ
nầy mà còn tươi tỉnh.
Bác Tư cười:
- Hôm nay vui nên không thấy mệt.
Thôi ngừng lại, dành cuộc vui nầy để tiếp tục trong
những ngày sau.
Bạch Mai nói với Tân:
- Cái phòng trống trên lầu đầy
bụi bặm. Ngày mai rảnh rỗi em mới quét dọn được.
Đêm nay, anh ngủ đỡ trên chiếc ghế bố trong phòng của
ba, được không?
- Sao lại không được? Chỉ cần
một chiếc võng treo giữa hai thân cây là tôi yên giấc
đến sáng.
Mọi người đứng dậy. Mươi
phút sau, Tân theo bác Tư lên phòng ngủ. Cậu chui vào
mùng, nằm mở mắt nhìn trần nhà trong ánh sáng lờ mờ
của đèn đêm. Cậu ôn lại những sự việc xảy ra hai
ngày qua. Tất cả đều là những điều may mắn cùng dồn
dập đến một cách lạ kỳ. Cảm thấy choáng ngợp trong
niềm hạnh phúc to lớn, cậu khoan khoái mỉm cuời một
mình và duỗi thẳng chân ra.
Tiếng bác Tư nổi lên rõ ràng
trong đêm vắng:
- Cháu Tân chưa ngủ à?
- Dạ chưa, bác cũng còn thức
sao?
- Tôi lớn tuổi rồi, ngủ ít
lắm. Đêm nào cũng nằm thao thức, nhớ lại chuyện nầy,
chuyện kia trong quá khứ. Cậu đang nghĩ đến chuyện gì
mà chưa ngủ?
- Cháu đang nghĩ đến những việc
may mắn vừa gặp trong hai ngày đầu tiên trở về đời
sống dân sự. Cháu đang sống trong hạnh phúc. Nếu không
có cuộc chiến tranh tàn ác nầy thì hạnh phúc tràn lan
trên khắp miền Nam nầy phải không bác?
- Đúng vậy, bác cũng thường
nghĩ như thế. Ngày xưa mình theo cộng sản cũng vì lầm
lạc không thấy điều đó. Lúc đầu, ai theo cộng sản
cũng chỉ vì mục đích cao nhất là đem hạnh phúc lại
cho mọi người. Nhưng người cộng sản gây ra cuộc chiến
tranh nầy đến cuộc chiến tranh khác thì làm sao có được
hạnh phúc.
- Nhưng rồi chiến tranh cũng có
lúc chấm dứt chứ. Trong lịch sử nhân loại, có cuộc
chiến nào mà không đi đến hồi kết thúc đâu.
Bác Tư thở dài:
- Bác e rằng cuộc chiến tranh
nầy chỉ chấm dứt một khi cộng sản chiếm được toàn
thể Đông dương. Lúc đó, tạm thời có hòa bình nhưng
không hề có hạnh phúc.
- Tại sao vậy?
- Rất nhiều tin tức cho biết ở
các nước cộng sản trong đó có miền Bắc của chúng
ta, dân chúng phải sống theo một khuôn mẫu, suy nghĩ theo
một cách do đảng áp đặt, người nầy nghi kỵ người
kia. Cuộc sống như thế thì còn gì là hạnh phúc.
Tân hỏi:
- Nhưng tại sao có người vẫn
còn tin theo họ?
- Chúng sinh cứ mãi lẩn quẩn
trong vòng mê muội. Không mê muội cách nầy thì cũng mê
muội cách khác.
Ông cụ ngưng nói. Tân cũng im
lặng và từ từ đi vào giấc ngủ.
*
* *
Tân thức giấc, mở mắt ra, nhận
thấy ánh sáng từ dưới rọi lên qua lỗ thông ở cầu
thang. Cậu thấy tỉnh táo và khỏe khoắn thì biết rằng
mình đã ngủ một giấc dài và có lẽ trời sắp sáng.
Từ bên dưới, có tiếng nói chuyện rì rầm vọng lên.
Tân vén mùng, bước đến đầu cầu thang nhìn xuống. Bác
Tư, thiếu tá Thế và Bạch Mai đang ngồi quanh chiếc bàn
nhỏ cạnh bếp. Trên bàn, có bình trà và mấy chén tách.
Bạch Mai ngẩng mặt lên, gọi:
- Anh Tân dậy rồi. Xuống đây
uống nước đi anh.
- Tôi ngủ ngon quá, cả nhà thức
dậy hồi nào không hay.
- Gia đình em ngủ sớm và dậy
sớm quen rồi.
Tân bước xuống các bậc thang,
vào phòng vệ sinh rồi ra, ngồi vào chiếc ghế trống.
Thiếu tá Thế rót một tách nước đẩy đến trước mặt
cậu:
- Mời anh.
- Cám ơn anh.
Bác Tư mỉm cười một cách hiền
lành:
- Lúc bác thức dậy thì cháu còn
ngủ say. Bác nhìn gương mặt cháu lúc ngủ thì thấy ngay
cháu có sự bình an trong tâm hồn.
Bác tặc lưỡi rồi nói tiếp:
- Người có lòng nhân thì thường
đau khổ nhưng tâm hồn thì luôn luôn được bình an.
Tân mỉm cười:
- Có lẽ ai lọt vào trong không
gian của gia đình nầy thì tâm hồn cũng được bình an.
À, cháu đã quyết định thay đổi chương trình. Chốc
nữa, cháu về thăm anh chị Long ở Biên hòa vì hôm nay,
chúa nhật, anh chị ấy có ở nhà. Dự định đi lang
thang ở các đường phố Sài gòn thì gác lại hôm khác.
Bạch Mai hỏi:
- Anh định đi Biên hoà vào lúc
nào?
- Sáng ra là tôi đi ngay. Tôi ở
chơi cả ngày trên đó và chiều tối trở về.
Bác tư nói:
- Ừ, cháu đi chơi đi và chiều
tối nhớ về ăn cơm.
Mai vội cướp lời:
- Không được, anh Tân phải về
sớm. Anh không nhớ chiều nay mình đi xem căn phố của bà
Ba Tí sao?
Tân cười:
- Vâng, tôi nhớ rồi. Chiều nay
tôi sẽ trở về sớm và có mặt tại nhà trước năm
giờ. Trời sáng rồi, tôi sửa soạn đi ngay bây giờ.
Mai đứng dậy:
- Khoan, anh ngồi đó, đợi em pha
cà phê và đi mua thức ăn điểm tâm cho anh.
Tân khoát tay:
- Cám ơn Mai. Tôi sẽ ghé một
tiệm ăn trên đường đi đến bến xe đò.
Nói xong, Tân bước vội lên lầu.
Hai phút sau, cậu trở xuống, y phục chỉnh tề, chào tạm
biệt mọi người.
Mai đứng dậy ra mở cửa rồi
trở vào lo bữa ăn sáng cho gia đình. Khi thiếu tá Thế
dẫn xe ra khỏi nhà thì Mai cũng mở toang cửa và chuẩn
bị đón tiếp người khách hàng đầu tiên trong ngày.
Buổi sáng sớm, có nhiều khách
hàng, Mai phải làm việc tất bật. Hai đứa bé thức dậy,
quanh quẩn bên chân mẹ rồi dẫn nhau lên lầu chơi với
ông.
Đôi khi vắng khách, Mai ngồi
trên ghế nhìn ra đường, nét mặt bỗng nhiên đờ đẫn.
Nàng nhớ lại câu chuyện trong bữa ăn đêm vừa rồi,
lẩm bẩm một mình:
- Có lẽ Thùy Liên đẹp lắm.
Hai người đã yêu nhau ghê gớm, có phải vậy không?
Nàng bỗng nghe trong lòng mình dậy
lên một nỗi xót xa. Nàng vụt đứng dậy, cảm thấy tự
xấu hổ lấy mình. Nàng cố xua đuổi mọi ý nghĩ, nhưng
nỗi niềm tự xấu hổ cứ đeo bám, lớn lên và gần như
trở thành một mặc cảm tội lỗi.
Nàng bước đến chân cầu thang
và gọi to:
- Thảo à, xuống má biểu.
Có tiếng dạ thực dễ thương
rồi con bé xuất hiện ở đầu cầu thang, anh nó đứng
liền sau lưng.
Hai đứa bé bước xuống, chậm
chạp từng bậc một. Mai dang hai tay ra ôm cả hai con vào
lòng. Nàng hỏi con gái:
- Thảo à, con có thương ba không?
- Có, con thương ba.
- Thương nhiều không?
- Nhiều.
Mai nói to như hét:
- Mẹ cũng vậy. Mẹ thương ba
con lắm, thương yêu vô cùng. Ba con là người tốt nhất
thế gian nầy, phải không các con?
Hai đứa bé nhìn nàng một cách
ngạc nhiên. Nàng vuốt tóc Bình và ôm bé Thảo lên hôn
tới tấp vào đôi má phinh phính của nó. Đứa bé cười
sằng sặc, nàng cũng cười theo và cảm thấy tấm thân
bé bỏng của con tựa vào lòng nàng, gây cho nàng một sự
bình an lạ lùng. Tâm hồn nàng thanh thản trở lại. Nàng
đặt con xuống và gọi to:
- Ba ơi ba. Ba xuống trông coi hai
cháu và cửa tiệm giúp con để con đi hỏi căn nhà cho
anh Tân.
Nàng lặp lại to hơn:
- Căn nhà mà anh Tân muốn mua để
sống cùng chị Thùy Liên đó ba.
Nói xong, nàng cười khúc khích
như sắp làm một điều thú vị.
Có tiếng Bác Tư từ trên lầu:
- Ừ, tao xuống ngay bây giờ. Con
đi coi và cố thương lượng giá cả cho xong đi. Có nó ở
gần, ba cũng vui lắm.
Mai giao hai đứa bé cho cha và vội
vã đến nhà bà Ba Tí. May mắn, bà đang ở nhà. Nàng vào
đề ngay. Hai người nhanh chóng đạt được thỏa thuận
về giá cả. Mai đi xem trước sau một lượt rồi ra về.
Vừa bước vào cửa nhà mình,
nàng đứng sững lại. Trong tiệm có hai người khách đang
chọn hàng. Người thứ ba đứng trước quầy, bác Tư
đang ngồi phía sau để tính tiền. Ngay ở cửa xuống
bếp, Tân ngồi trên chiếc ghế, bế bé Thảo trên đùi,
Bình đứng kế bên. Hai đứa bé đang há hốc mồm say sưa
nghe Tân kể chuyện gì đó. Nàng bước vào nhà nhìn Tân,
hỏi dồn:
- Sao giờ nầy, anh ngồi ở đây?
Anh không đi Biên hòa à?
- Có, tôi vừa trên đó về đây.
- Sao anh về sớm vậy?
- Ừ, ừ…. Mai lo bán hàng đi,
tôi sẽ nói chuyện sau.
Mai quay sang khách hàng trong khi
Tân tiếp tục kể chuyện “cô bé quàng khăn đỏ” cho
hai đứa bé nghe.
Khi cửa tiệm đã vắng khách,
Mai hỏi Tân:
- Anh không gặp anh chị Long trên
đó sao?
- Có, anh chị Long đều có nhà
nhưng anh chỉ ngồi một lát rồi về.
- Tại sao vậy?
Giọng Tân trầm xuống:
- Chuyện khá dài, nói ở đây
hơi bất tiện.
- Vào nhà trong được không?
- Được, nhưng Bạch Mai phải
trông cửa tiệm chứ.
- Em nhờ ba tiếp tục giúp em,
giờ nầy trưa rồi, không có nhiều khách đâu.
Nàng quay sang nhờ bác Tư rồi
cùng Tân xuống nhà bếp. Nàng lên tiếng trước:
- Em vừa bên nhà bà Ba Tí về.
Căn phố tuy nhỏ nhưng còn tốt lắm. Gồm một phòng
khách, một phòng ngủ, một sân lộ thiên, một nhà bếp,
một nhà vệ sinh. Hai vợ chồng với một vài đứa con ở
cũng vừa chán. Các nhà chung quanh rất dễ chịu, bà Ba Tí
bảo như thế. Giá cả thì rẻ một cách bất ngờ. Bà Ba
nói chỉ cần một món tiền không lớn lắm, đủ để về
quê ở Vĩnh long cất một cái nhà lá nho nhỏ, còn lại
chút đỉnh để dành khi hữu sự thôi. Ở dưới quê, bà
ấy còn ruộng vườn khá lắm. Chiều nay anh và vợ chồng
em qua bên đó, nếu anh vừa ý thì chồng tiền nhận nhà
luôn, không cần đặt cọc nữa. Nhà rẻ như thế, đề
phòng người khác chịu trả cao hơn, người ta trả tiền
cọc lại cho mình cộng thêm với tiền bồi thường họ
vẫn còn lời. Vì vậy, em muốn trả tiền một lượt cho
xong.
Tân sửng sốt:
- Nhưng tôi đâu có tiền; sớm
nhất là tháng sau mới nhận được tiền truy lãnh lương
sai biệt.
Bạch Mai xua tay:
- Anh khỏi lo. Vợ chồng chúng em
có một số tiền dành dụm. Ba cũng còn giữ mấy lượng
vàng, một phần trợ cấp tử trận của em Bính trước
đây. Gom lại, có thể đủ trả tiền căn nhà. Khi nào
anh lãnh được tiền thì trả lại cho chúng em. Nếu còn
thiếu thì ráng đi dạy thêm mà trả từ từ, chúng em
không tính tiền lời đâu mà sợ.
- Tôi mang ơn Bạch Mai quá nhiều.
- Anh không nên khách sáo như thế.
Có được dịp giúp anh là em vui lắm. Hơn nữa, anh về
sống gần đây thì ba được an ủi trong tuổi già.
Giọng nàng nhỏ lại đầy xúc
cảm:
- Em mong sớm lo được chỗ ở
cho anh để anh cưới chị Thùy Liên về. Em ngại anh cứ
sống cô độc, một mình lang thang trong cuộc đời. Em có
mặc cảm rằng anh cô độc, một phần do lỗi của em.
Không biết có đúng hay không nhưng từ lâu, em vẫn mang
mặc cảm đó.
Nàng đổi giọng, trở nên vui
hơn:
- Em mong được sống gần chị
Thùy Liên. Chắc chắn chị ấy là người rất tốt.
- Tại sao em biết?
- Em tin chắc như thế. Người
nào được anh yêu thương thì ắt hẳn phải là người
tốt.
“Cũng như Bạch Mai vậy!”. Tân
định nói như thế nhưng cậu kịp tự ngăn lại được.
Bạch Mai bây giờ đâu còn là người yêu của cậu nữa.
Nàng đang là người vợ hiền của thiếu tá Thế, một
con người rất đáng quí mà Tân mong muốn mãi mãi là bạn
thân của mình.
Bạch Mai cao giọng:
- Chuyện nhà cửa thế là xong,
rất thuận lợi, không có gì trắc trở nữa đâu. Bây
giờ tới chuyện đi Biên hòa sáng nay của anh. Tại sao
anh không ở lại chơi với anh chị Long đến chiều như
đã dự định? Hay là anh định hôm khác trở lại lâu
hơn.
Tân lắc đầu:
- Có lẽ anh không bao giờ trở
lại đó nữa.
Mai trố mắt ngạc nhiên:
- Tại sao vậy, em chẳng hiểu gì
cả. Anh Long là người quen thân thiết nhất của anh trên
cõi đời nầy. Em nhớ anh đã có nói với em câu đó một
lần kia mà.
- Đó là chuyện của nhiều năm
trước đây. Mai có biết anh Long là bạn thế nào của
anh không?
- Là bạn tù của anh ở khám Tân
hiệp.
Tân gật đầu:
- Khi ra tù, anh tình cờ gặp lại
anh ấy. Lúc đó anh không còn muốn trở lại hoạt động
cho cộng sản nữa, nhưng vào thời điểm đó, dứt khoát
với cộng sản không phải là chuyện dễ.
Bạch Mai chen lời:
- Em hiểu. Có lần, anh Đảnh đến
gặp anh và vẫn xem anh là một đồng chí còn trong tổ
chức. Có phải không?
Tân lại gật đầu:
- Đúng vậy. Sao chuyện của anh
mà em nhớ kỹ vậy?
Mặt Bạch Mai thoáng ửng hồng:
- Chuyện gì có liên quan đến
anh thì em giữ mãi trong lòng.
Tân nói to như muốn lẫn tránh
một điều gì đó:
- Lúc gặp anh Long khi mới ra tù,
chính là lúc anh đang rất dao động. Anh Long cũng có tâm
trạng gần giống như anh. Lúc đó, anh cương quyết từ
bỏ con đường cộng sản và chính điều đó làm cho anh
dứt khoát trở thành một công dân chính thức của miền
Nam tự do, của nước Việt Nam Cộng hòa. Anh yên tâm,
sống thanh thản trong gần năm năm cho đến khi tốt nghiệp
Đại học sư phạm, anh bị gọi nhập ngũ thì anh lại bị
cú sốc mãnh liệt.
- Vì đã trở thành giáo sư mà
không được đi dạy?
Tân lắc đầu:
- Đó chỉ là lý do phụ. Lý do
chính là thế nầy. Khi anh quyết định từ bỏ cộng sản
thì nghĩ rằng mình chỉ trở thành một công dân “trung
lập”, nghĩa là không theo bên nào mà đứng kẽ giữa
trong cuộc chiến tranh mà cộng sản mới phát động với
chiêu bài giải phóng. Lệnh gọi nhập ngũ làm cho cái
loại công dân “trung lập” của anh không còn nữa. Anh
gần như hoảng loạn và đến hỏi ý kiến của anh Long.
Anh Long có ý khuyên anh chống lệnh nhập ngũ, và bày cho
anh nhiều biện pháp trốn tránh, kể cả cách trốn vào
chiến khu, có nghĩa là trở lại làm Việt cộng, chắc
chắn như thế rồi. Lúc đầu, anh tự giải thích rằng
vì quá thương anh nên anh Long không muốn anh nhập ngũ, sợ
nguy hiểm cho tính mạng.
- Nhưng, thương anh, tại sao lại
xúi anh vô chiến khu? Ở trong đó, tánh mạng còn bị đe
dọa nhiều hơn đi nhập ngũ gấp bội phần.
- Em nói đúng; bây giờ thì anh
hiểu rồi.
- Anh hiểu thế nào?
- Từ dạo đó, có thể anh Long
đã trở lại hoạt động cho Việt cộng
- Trời đất, thật vậy sao?
- Điều đó cũng dễ xảy ra chớ
chẳng có gì lạ lùng. À, trước khi nói tiếp, anh phải
xin lỗi em đã.
Bạch Mai ngạc nhiên:
- Anh xin lỗi em điều gì?
- Tôi quen miệng và không để ý
nên tự nãy giờ đã xưng hô quá thân mật với Bạch
Mai.
Mai cười, giọng thực dịu dàng:
- Anh đừng xin lỗi. Em vẫn thích
anh xưng hô với em như thế.
- Nhưng….
- Phải rồi, bây giờ chúng mình
không còn như xưa nữa, tuy nhiên, em vẫn thích giữ cách
xưng hô như cũ. Lúc nào em cũng thích là đứa em bé nhỏ
của anh. Nhưng thôi, chuyện đó không đáng kể. Anh nói
tiếp cho em nghe tại sao anh biết anh Long trở lại hoạt
động cho Việt cộng. Anh Long nói thật với anh à?
- Không hẳn như thế, nhưng qua
cách nói chuyện thì anh hiểu. Hơn nữa, vì quá thân mật
nên đối với anh, anh Long không cần giữ gìn lời ăn
tiếng nói nên cái luận điệu của Việt cộng bộc lộ
quá rõ ràng. Anh suy đoán không sai đâu. Em không nhớ rằng
anh cũng đã từng là Việt cộng rồi à? Vì vậy, chỉ
cần nghe qua là anh nhận ra ngay. Ma quỉ thì người khó
thấy nhưng ma quỉ với ma quỉ thì rất dễ nhận ra nhau.
Bạch Mai cười:
- Anh nói làm em sợ quá. Ngày
xưa, anh là ma, em cũng là ma, đúng không nào? Vì là ma cho
nên cứ đợi đêm đến thì đi rải truyền đơn.
Nàng thôi cười và nói tiếp:
- Có lẽ vì ma nhận ra ma nên cơ
quan an ninh của mình luôn luôn tìm cách thu dụng những
người chiêu hồi.
- Đúng vậy, nhưng không có hiệu
quả nhiều. Chế độ mình bây giờ trưởng thành rồi.
Đây là một chế độ tôn trọng tự do cá nhân nên muốn
bắt ai phải có bằng chứng hẳn hòi. Việt cộng dại gì
mà mang bằng chứng trong người.
- Theo anh thì tại sao anh Long trở
lại hoạt động cho Việt cộng?
- Có thể anh Long gặp lại một
chuyện gì đó trong cuộc sống làm cho anh ấy lại bất
mãn với chế độ nấy. Cũng có thể là Việt cộng, tức
là các đồng chí cũ đã gài được anh ấy vào cái thế
không thể từ chối được. Việt cộng thì có trăm mưu
ngàn kế, không thể lường hết được. Anh đã biết có
nhiều người buộc phải hoạt động cho Việt cộng dù
thâm tâm họ không muốn.
- Thôi được rồi, em hiểu rồi.
Nhưng tại sao anh quyết định không lui tới với anh Long
nữa. Có phải anh sợ bị liên lụy hay không?
- Người ta thường nghĩ như thế,
nhưng với anh thì đó không phải là lý do. Lúc đệ nhất
Cộng hòa mới thành lập, sau khi người Pháp trao trả độc
lập, thời thế còn nhiễu nhương, chính quyền còn ấu
trỉ nên cơ quan an ninh bắt bớ có phần bừa bãi, không
cần bằng chứng, nhiều người bị oan. Còn bây giờ, anh
đã nói rồi, nền Cộng hòa đã có căn bản pháp lý rõ
ràng, nên ai làm nấy chịu, ngay như vợ chồng, anh em ruột
thịt còn không sợ bị liên lụy nữa cơ mà.
- Thế thì vì lý do chính yếu
nào làm cho anh cắt đứt liên hệ với anh Long?
- Không phải một mà nhiều lý
do.
- Lý do thứ nhất?
Tân không trả lời ngay mà ngồi
yên, mặt buồn xo. Một lúc sau, cậu thở dài:
- Bây giờ anh đã đứng hẳn về
phía miền Nam để chống lại sự xâm lăng của miền Bắc
rồi. Tuy vậy, anh không có một mảy may toan tính tố cáo
hay làm hại những người quen biết cũ của anh, nhưng anh
không muốn gần gũi họ giây phút nào nữa.
- Người ta có thể là bạn với
nhau dù chính kiến có khác nhau; anh không chấp nhận điều
đó à?
- Ở đây không phải chỉ là vấn
đề khác nhau về chính kiến mà là một vấn đề vô
cùng trọng đại, vấn đề đối đầu với nhau bằng cả
sinh mạng của con người.
- Đó là lý do thứ nhất phải
không?
- Phải.
- Còn lý do thứ hai?
- Anh lấy làm lạ là người có
hiểu biết rất đáng nể như anh Long mà cũng trở lại
với Việt cộng. Theo anh, đó là một sự sa ngã tai hại
dù là tự nguyện hay bị bắt buộc. Thấy anh Long sa ngã,
anh cũng ngại cho bản thân mình. Trở lại hoạt động
địch hậu, chắc chắn anh Long có công tác chính yếu là
vận động quần chúng. Trước sau gì thì anh cũng là đối
tượng để anh Long vận động. Nghĩ tới điều đó là
anh muốn ra khỏi nhà anh Long ngay tức khắc và không bao
giờ trở lại nữa. Tuyệt giao với anh chị Long là điều
làm anh đau lòng. Nhớ những ngày mới ra tù, thân anh thực
thảm thương, tâm hồn anh thực tơi tả, ông bà Thái là
ân nhân còn anh Long vừa là ân nhân, vừa là nguồn an ủi
vô cùng quí giá. Những người đó đã giúp anh vượt qua
hoàn cảnh để được như ngày nay.
Tân ngừng nói, ngồi yên, nét
mặt thẫn thờ. Cậu nghe giọng nói của Mai đầy xúc
động:
- Anh buồn lắm phải không? Anh
thực đáng thương. Cuộc chiến tranh nầy không chỉ tàn
phá xóm làng mà còn tàn phá lòng người nữa. Thôi, anh
đừng buồn nữa. Anh đã chọn đúng con đường đi của
mình. Nhờ như vậy mà anh đang có một địa vị trong xã
hội mà biết bao người khác thèm muốn.
- Cám ơn em đã an ủi anh. Mà quả
thực em nói đúng. Kể từ khi anh bước vào quân ngũ đến
nay, anh cảm thấy mình đứng ở một vị trí xứng đáng
của công dân một chế độ lành mạnh, tranh đấu cho tự
do. Xã hội chúng ta vẫn còn có một số điều đáng chê
trách do ảnh hưởng tai hại của chiến tranh, nhưng đây
là một xã hội đầy tính nhân bản. Nhất định con cháu
chúng ta sẽ được sống trong một chế độ tốt đẹp
một khi chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, điều đau đớn
là cuộc chiến nầy đang dẫn cả một dân tộc hiền
lành vào một đường hầm tối đen mà chưa thấy một
tia sáng nhỏ nhoi nào ở cuối đường hầm.
Tân dừng một chút rồi nói
tiếp:
- Sáng nay, trên đường về, anh
buồn ghê gớm. Anh Long đã trở lại với cộng sản, rất
nhiều người khác còn tin theo cộng sản, thế thì cuộc
chiến tranh nầy đến bao giờ mới chấm dứt? Phải chi
anh Long dứt khoát với cộng sản để anh còn lui tới
thăm viếng.
- Lúc anh từ giã, anh chị Long
không giữ anh lại chơi à?
- Chị Long dẫn con đi chợ, còn
anh Long có mời anh ở lại nhưng lời mời có vẻ gượng
gạo và chiếu lệ. Khi nghe anh nói trong thời gian ở quân
ngũ có nhận được anh dũng bội tinh và chiến thương
bội tinh thì anh Long không giấu được vẻ khó chịu.
Ngồi nói chuyện với anh mà anh ấy có vẻ sốt ruột,
nhưng không nói ra. Có lẽ sáng nay anh ấy có hẹn họp
với cán bộ bí mật cũng nên. Vì vậy, anh dứt khoát
chia tay. Anh lên xe tốc hành về đây gấp để gặp em.
Anh cần nguồn an ủi và anh vừa tìm đúng nguồn an ủi
đó.
Đôi mắt Bạch Mai ngời lên niềm
hãnh diện và yêu thương:
- Em rất vui lòng được nghe anh
nói như thế. Nhưng em chưa phải là nguồn an ủi đích
thực của anh đâu. Nguồn an ủi đó đang ở dưới Cần
thơ. Anh cố gắng thu xếp để sớm đưa nguồn an ủi đó
về thì cuộc đời anh chẳng còn buồn khổ nữa. Thôi
bây giờ, anh đi tắm và ra trước coi hàng giùm em để ba
đi nghỉ. Nhờ ông cụ từ sáng đến giờ rồi. Còn em
thì lo bữa cơm trưa.
- Buổi trưa anh Thế có về
không?
- Không, anh ấy ăn cơm ở tổng
tham mưu, chiều mới về.
Tắm xong, Tân ra nhà trước trông
hàng. Có hai bà vào mua vài món lặt vặt. Cậu trả lời
những câu hỏi của khách thực nhã nhặn, làm cho khách
tỏ ra hài lòng. Một bà hỏi cậu:
- Có lẽ ông mới về thăm nhà.
Ông có phải là anh ruột cô Bạch Mai không?
Tân mỉm cười gật đầu. Bà
khách quay sang nói với bà bên cạnh:
- Anh em nhà nầy trông giống nhau
lắm. Ai trông cũng lịch sự, trai thì đẹp trai, gái thì
đẹp gái.
Họ nói xong, nhận hàng bước
ra. Tân nhìn theo, thấy lòng rộn vui. Cậu quay lại thì
thấy Mai từ dưới nhà bếp đi lên, mặt hồng hào vì
sức nóng của lò lửa. Cậu kể lại cho Mai nghe lời nói
của bà khách hàng. Hai người nhìn nhau rồi phá lên cười
vui vẻ.
Bữa cơm trưa diễn ra thực ấm
cúng, Tân ăn rất ngon miệng. Cậu khen:
- Bạch Mai nấu ăn ngon lắm, anh
Thế thực có phước.
- Má em dạy em nấu đó.
Bác Tư gật đầu:
- Ừ, lúc sinh tiền, mẹ con Mai
giỏi nội trợ lắm. Con Mai chỉ mới học được tài nấu
ăn thôi, chưa học được những thứ khác thì bả đã
mất rồi.
Bạch Mai hỏi cha:
- Những thứ khác là thứ gì ba?
Ông cụ gật gù:
- Nhiều thứ lắm, tao không nhớ
hết. Gần ba mươi năm sống với tao, bả đã làm biết
bao nhiêu điều hay.
Thực tình, ông cụ không thể kể
ra được tức thì những điều hay đó, nhưng ông cụ vẫn
đinh ninh như thế. Chẳng qua đó là sự vọng tưởng của
người già không quên được người bạn đường đã ra
đi trước mình.
Buổi chiều, thiếu tá Thế vừa
về đến nhà chưa kịp tắm rửa thì Mai đã đốc thúc
đi xem nhà.
Bà Ba Tí đã đợi sẵn, dẫn cả
ba người đi xem từ trước lui sau. Tân tỏ ra rất hài
lòng nhưng khi Mai hỏi thì cậu cứ ậm ừ, không nói
tiếng nào. Bạch Mai ăn nói rất hoạt bát, nàng đã quen
với việc mua bán quá rồi. Hai người đàn ông bước
theo sau nàng như hai cái bóng. Giá cả được hai người
đàn bà nhắc lại một lần nữa. Mai hẹn với chủ nhà
một hoặc hai hôm nữa, ra chính quyền làm giấy mua bán,
chồng tiền tại đó và sau đó giao nhận nhà ngay.
Ba người trở về. Vừa bước
vào cửa, Mai quay lại nhíu mày nhìn Tân:
- Anh không thích căn nhà đó lắm
phải không?
Tân sửng sốt:
- Tại sao Bạch Mai hỏi tôi như
thế?
- Vì em chỉ thấy anh ậm ừ một
cách lơ đãng, chứ chẳng tỏ vẻ vui thích gì cả.
Tân thở ra một hơi dài:
- Bạch Mai, tôi không thể nào
tưởng tượng căn nhà đó sắp sửa thành tài sản của
riêng tôi. Vì vậy, lúc nãy đi xem nhà mà tôi không thể
nào tập trung được ý nghĩ để định xem sau nầy mình
sử dụng căn nhà đó thế nào, chỗ nầy dùng làm việc
gì, chỗ kia dùng để làm gì, tiện lợi hay bất tiện.
Tóm lại, đầu óc tôi không thể đón nhận nổi ý niệm
rằng mình sắp sở hữu một căn nhà! Tôi không thể tin
rằng mình có được một tài sản to và quý giá như thế
nên không thể tiếp thu niềm hân hoan mà lẽ ra mình phải
có.
Bạch Mai nhìn cậu với đôi mắt
thương hại:
- Em biết cuộc đời anh rất khổ
nhưng em không hình dung được rằng nỗi khổ triền miên
từ thuở bé đã làm cho anh trở thành một con người
đáng thương thế nầy.
Thiếu tá Thế chen lời:
- Đó là tâm tình của một kẻ
vô sản thuần túy mà có lẽ ông tổ cộng sản là Karl
Marx cũng phải ngã nón chào.
Câu nói khôi hài của Thế làm
cho mọi người cười vui một cách thoải mái.
Đêm hôm đó, mới chui vào mùng
được vài phút là Tân đã ngủ ngon lành. Gần sáng, cậu
thức giấc, nhớ tới việc hôm nay đến nha trung học nộp
đơn xin thuyên chuyển, cậu không thể ngủ tiếp được.
Căn phố mua sắp xong rồi. Nếu người ta không cho cậu
thuyên chuyển về Sài gòn thì mọi toan tính đều hỏng
hết. Nằm thao thức một lúc, cậu nghe tiếng động bên
giường của bác Tư. Trong ánh sáng lờ mờ, cậu thấy
ông cụ ngồi dậy, thong thả ra khỏi giường và bước
xuống cầu thang. Đèn bếp bật sáng, có tiếng nước
trong vòi chảy vào ấm rồi tiếng bật lửa, tiếng khè
khè của ngọn lửa trên bếp ga. Vài phút sau, thấy vợ
chồng Thế thức dậy nên cậu cũng bước xuống cầu
thang.
Nước sôi đã được chế vào
bình trà cùng những chiếc lọc cà phê. Bốn người ngồi
quanh chiếc bàn tròn rì rầm nói chuyện, không khí trong
gian bếp nhỏ thực đầm ấm. Bạch Mai là người đầu
tiên đứng dậy để lo bữa ăn sáng cho gia đình.
Ăn xong. Tân thay áo quần và ra
khỏi nhà cùng lúc với Thế. Cậu ôm chặt cái cặp đựng
hồ sơ, vẫy một chiếc taxi trống vừa trờ tới để
đến nha trung học.
Giám đốc trung học là một ông
giáo già phúc hậu, giọng nói nhỏ nhẹ, hiền từ. Ông
đứng dậy siết tay Tân thật lâu và thực ân cần sau
khi nghe ông hiệu trưởng giới thiệu cậu một cách đầy
đủ, không quên hai cái huân chương anh dũng và chiến
thương bội tinh. Ông giám đốc vui vẻ nhận đơn và nói:
- Được rồi, sau kỳ thi tú tài
nầy thì hội đồng xét duyệt thuyên chuyển mới làm
việc, nhưng anh cứ yên tâm vì anh có ưu tiên và tiếng
nói của tôi trong hội đồng thường là tiếng nói quyết
định. Vả lại, không ai nỡ từ chối nguyện vọng của
một người đã chịu đổ máu ngoài chiến trường. Anh
sẽ được về Sài gòn nhưng dạy ở trường nào thì tôi
chưa nói trước được. Giáo sư bị động viên khá
nhiều, tất cả các trường trung học trên toàn quốc đều
thiếu thầy dạy, kể cả các trường ở Đô thành. Trong
đơn, anh có xin đích danh trường nào không?
- Dạ không, trường nào ở Sài
gòn cũng được.
- Thế thì dễ cho chúng tôi làm
việc. Chúng tôi sẽ chọn cho anh một truờng nào đó, anh
cứ yên tâm, lo thu xếp chỗ ăn chỗ ở đi. Trong vòng một
tháng nữa, quyết định của hội đồng thuyên chuyển sẽ
được gởi về các trường. Lúc đó anh trở về trường
gốc là trung học Long an để nhận sự vụ lệnh, chứng
chỉ ngưng lương đem về nạp ở nhiệm sở mới. Thôi
tạm biệt hai anh nhé, ngoài kia có khách đang chờ gặp
tôi.
Tân từ giã ra khỏi nha trung học
với nỗi lòng phơi phới. Cậu gọi xe về nhà ngay tức
thì. Nghe cậu báo tin, Bác Tư và Bạch Mai hết sức vui
mừng. Ông cụ vuốt râu và nói với vẻ khoái trá:
- Họ đối xử như thế với
người đã từng chịu hiểm nguy ngoài chiến trường thì
thực là đáng khen. Chế độ nầy quả thực là dễ
thương. Bác già từng nầy tuổi rồi, đã biết qua nhiều
chế độ và bác hài lòng khi sống trong chế độ nầy.
Bạch Mai nhắc nhở:
- Anh viết thư báo tin cho chị
Thùy Liên ngay đi.
- Khi nãy, tôi định về nhà thì
viết thư ngay, nhưng bây giờ thì tôi nghĩ lại, không nên
viết vội mà phải đợi Bạch Mai lo cái nhà cho xong đã.
Mấy hôm nay, gặp rất nhiều tin mừng nhưng chỉ mới
khởi đầu mà thôi. Phải có cái gì đó được hoàn tất
một cách cụ thể để báo tin thì mới thực là hay. Việc
thuyên chuyển thì ít nhất một tháng nữa mới có kết
quả. Thôi, chờ cho xong chuyện cái nhà rồi báo tin cũng
được.
- Em hẹn với bà Ba một hoặc
hai hôm để có thì giờ gom tiền và bán mấy lượng vàng
của ba. Có đủ tiền là em báo cho bà Ba biết ngay. Anh
yên tâm, em sẽ lo đủ, đúng thời hạn đã hứa. Đến
tòa hành chánh quận Ba làm thủ tục thì chẳng có gì khó
khăn. Anh Thế quen biết nhiều người ở đó, hơn nữa,
người mua vừa là sĩ quan giải ngũ, vừa là giáo sư thì
quá thuận lợi. Thôi, anh đi nghỉ đi. Em dự định quét
dọn cái phòng cho anh mà quá bận rộn chưa làm được.
Anh nghỉ tạm cùng phòng với ba một vài hôm nữa đi.
- Ở nha trung học, tôi về đây
ngay để báo tin mừng. Bây giờ còn quá sớm, tôi đi lang
thang thăm lại những con đường của Sài gòn cho hết
ngày hôm nay.
- Được rồi, hôm nay, anh cứ đi
đâu cũng được nhưng ngày mai phải ở nhà để ra gặp
chính quyền xúc tiến thủ tục mua nhà. Anh đừng quên
việc đó.
- Quên sao được. Ngày mai, nếu
xong rồi thì ngày mốt, tôi sẽ đi Bảo lộc để thăm
ông bà Thái và có thể ở lại đó vài hôm. Tôi có nói
chuyện về ông bà Thái cho Bạch Mai nghe chưa?
- Có rồi, ông bà đã ký tên bảo
lãnh cho anh ra khỏi tù và nuôi anh nhiều tháng để đi
học trở lại.
- Đúng rồi. Ông bà lên lập
nghiệp ở Bảo lộc. Mảnh vườn trồng trà của ông bà
có lẽ bây giờ tốt lắm rồi. Chắc chắn đời sống
ông bà rất thong thả với huê lợi của khu vườn.
- Em có kể chuyện nầy với anh
Thế, anh ấy mê lắm và ước ao chiến tranh mau chấm dứt
để chúng em cũng sẽ lên lập vuờn trên đó. Em biết
Bảo lộc có khí hậu rất tốt, mát mẻ và không quá
lạnh như Đà lạt. Anh lên đó ở chơi nhiều ngày cho
khỏe để bù lại phần nào những năm tháng nhọc nhằn
vừa qua. Còn bây giờ, anh cứ đi dạo ở Sài gòn để ôn
lại thời thơ ấu tội nghiệp của anh đi. Chuyện tiền
bạc để em lo. Trưa nay, em sẽ nhờ ba trông coi nhà cửa
và bé Thảo để em đi ngân hàng rút tiền và bán mấy
lượng vàng của ba cho đủ số tiền mua nhà.
- Bạch Mai, cuộc sống sắp tới
của anh được sáng sủa là nhờ hai bàn tay và tấm lòng
của em đó.
Mai mỉm cười quay trở lại với
việc sắp xếp hàng hoá trong cửa tiệm. Tân đi bộ ra
đường Phan đình Phùng rồi theo đường Lê văn Duyệt về
hướng trung tâm thành phố. Ngang qua rạp hát Nam Quang, cậu
dừng chân và bỗng nhớ lại một hình ảnh ghê rợn từ
thuở thực xa xưa. Một quả lựu đạn đã nổ tung trong
rạp hát, cả một khối người hốt hoảng chen nhau, đè
nhau ở cửa thông ra ngoài. Một thây người nằm vắt vẻo
trên lưng dựa ở một chiếc ghế. Có lẽ, sau tiếng nổ,
nạn nhân còn kịp phóng người lên rồi gục xuống để
vĩnh viễn từ giã cuộc đời. Cậu chỉ thoáng thấy
người đó thôi rồi vội vàng nhảy đến cửa thoát
hiểm, lọt ra ngoài theo con hẻm nhỏ nầy. Tân còn nhớ
rõ, lúc đó mình chạy một khoảng khá xa về phía Hòa
hưng rồi dừng lại và đứng ngẩn ngơ nhớ lại cách đó
hai hôm hình như mình đã trao cho ai đó một quả lựu đạn
cùng một giỏ đầy truyền đơn của Việt Minh.
Tân thở dài, vội vã bước
nhanh trên con đường rộn ràng xe cộ và người qua lại.
Cậu vào một tiệm sách, rảo qua một lượt tất cả các
quầy, lựa mua vài quyển giáo khoa cùng tiểu thuyết rồi
trở ra đi giữa dòng người đông đúc. Một lát sau, cậu
đến Thảo cầm viên, tìm đến chiếc ghế đá mà cách
đây đúng bốn năm cậu ngồi nói chuyện với Bính rồi
quyết định lên đường nhập ngũ. Cậu ngồi dựa ngửa,
hai chân co lên, thiếp đi trong giấc ngủ gián đoạn vì
tiếng hú của con vượn thỉnh thoảng cất lên một hồi
nghe thảm thiết.
Mặt trời xế bóng, Tân ra về.
Sáng hôm sau, cậu cùng vợ chồng
Bạch Mai và bà Ba Tí ra làm giấy mua bán và trao tiền
trước mặt chính quyền. Công việc diễn ra trôi chảy và
nhanh chóng. Bà Ba Tí hẹn hôm sau sẽ giao nhà để về quê
sinh sống.
Về đến nhà, Bạch Mai nói với
Tân:
- Ngày mai, anh cứ đi Bảo lộc
và ở chơi vài bữa đi. Tháng sau bắt đầu đi dạy
trường tư rồi đó, anh không còn thì giờ đi thăm ông
bà ân nhân đâu. Em sẽ thay anh đi nhận nhà và thuê người
quét dọn. Khi nào anh về, cần thứ gì thì sẽ mua sắm
sau.
Tân đứng tần ngần một lát
rồi nói:
- Bạch Mai, tôi thiếu nợ Mai quá
nhiều làm sao trả nổi.
- Sao lại không nổi. Anh và chị
Liên rán tằn tiện, đừng quá hoang phí thì trong vòng một
hai năm là xong nợ ngay, có gì đâu mà lo.
- Nợ tiền bạc thì tôi trả
được hết còn nợ tinh thần thì biết đến kiếp nào
cho xong.
- Anh đừng nói như thế nữa, em
không bằng lòng đâu. Em mong được làm bạn lâu dài với
Thùy Liên. Nghĩ đến điều đó, em thấy vui trong bụng
lắm, vui còn hơn cả khi buôn may, bán đắt nữa, không
biết tại sao như thế.
- Khi làm xong điều thiện cho kẻ
khác thì người ta được hưởng nguồn vui vô giá, không
có gì sánh nổi.
Bạch Mai mỉm cười sung sướng:
- Có lẽ tâm trạng em hiện giờ
đúng như anh nói vậy.
Sáng hôm sau, Tân lên đường khi
trời chưa sáng. Một lát sau, thiếu tá Thế chở thằng
Bình ra khỏi nhà, bé Thảo vẫn còn ngủ say, bác Tư uống
nước và dùng điểm tâm xong thì trở lên phòng riêng.
Buổi sáng khách đông, Mai tất
bật với công việc bán hàng. Khoảng chín giờ sáng, bà
Ba Tí đến cửa gọi to:
- Cô Mai, thầy Tân đâu rồi, sao
chưa thấy tới để nhận nhà.
- Anh ấy đi Bảo lộc, vài hôm
nữa mới về.
- Trời đất ơi. Tôi lỡ kêu xe
chở đồ đạc ra bến xe đò Vĩnh long rồi. Tôi đâu có
đợi vài hôm nữa được.
Mai trao gói hàng cho khách rồi
nói với bà Ba:
- Dì Ba đừng lo. Cháu nhận nhà
giúp anh Tân.
- Vậy thì cô đến nhận ngay đi.
Đằng đó, người ta chất đồ đạc lên xe sắp xong rồi.
Bạch Mai nói như năn nỉ:
- Cháu bận quá lại không có ai
giúp để bán hàng. Thôi thì, dọn đồ đạc xong, dì khóa
cửa lại, ghé qua đây cho cháu chìa khóa. Giao nhà như thế
cũng được.
- Có mấy món đồ điện, tôi để
lại cho cậu Tân dùng, vì ở nhà quê tôi không có điện,
đem về đó cũng vô ích.
- Dì Ba tính bao nhiêu tiền để
cháu trả giúp cho anh Tân.
Bà Ba Tí khoát tay:
- Không, tôi không lấy tiền đâu.
Mấy món đó, tôi không dùng được ở quê, biếu cho cậu
Tân mà cậu ấy chịu nhận là tôi mừng rồi. Quân nhân
mới giải ngũ về chưa được đi làm, mình có khả năng
giúp được thứ gì thì cứ giúp. Có phải không cô Mai?
- Dạ phải, cháu thay mặt anh Tân
cám ơn dì. Dì về quê, thỉnh thoảng lên đây chơi nghe.
- Có chớ. Sống với hàng xóm
đây mấy chục năm rồi, đi thì cũng nhớ lắm. Tôi sẽ
lên đây thăm bà con, nhất là vợ chồng cô và anh Tư.
Tôi cũng sẽ xin cậu Tân cho tôi vào nhìn lại căn nhà
cũ. Hơn hai mươi năm, tôi với ổng chỉ có hai vợ chồng
tối lửa tắt đèn có nhau. Bây giờ tôi về quê có một
mình, không nhớ, không thương sao được.
Dì Ba vừa khóc thút thít vừa
đưa tay áo lên lau nước mắt. Tính dì là như thế đó,
hiền lành, tốt bụng và mau nước mắt. Mai cảm động,
đến gần vỗ về:
- Thôi, dì Ba đừng buồn nữa,
số phận mà ông trời đặt để thì ai mà cãi được.
Dì về dưới đó có bà con thì cũng đỡ cô độc trong
tuổi già. Cháu chúc dì đi đường bình an, về dưới đó
vui vẻ, khỏe mạnh.
- Cám ơn cô Mai, tôi về dưới,
không bao giờ quên cô đâu. Cô vừa đẹp người, vừa
đẹp nết.
Mai tiễn bà ra cửa rồi quay vào,
lại tất bật với công việc.
Buổi trưa, cơm nước xong xuôi,
nàng gởi con và cửa hàng cho cha rồi sang mở cửa căn
phố mới mua. Bên trong trống trơn, trông thực đìu hiu.
Một số đồ đạc còn để lại, quạt máy, bàn ủi cùng
vài thứ lặt vặt khác được xếp gọn gàng vào một
góc nhà. Từ nhà trên đến nhà bếp, mọi nơi đều được
quét dọn cẩn thận, dưới nền nhà không còn một cọng
rác, trên trần nhà không còn một sợi tơ nhện giăng.
Mai thầm khen:
- Dì Ba ít học mà có cách hành
xử hơn biết bao nhiêu người có học.
Nàng xuống bếp, nhìn quanh, lẩm
nhẩm:
- Mình sẽ tặng cho Thùy Liên một
bộ son nồi, treo vào chỗ nầy. Bên cửa hàng của mình
còn mấy bộ thực đẹp.
Lẩm nhẩm xong, Mai cảm thấy
lòng vui rộn rã. Nàng bước lên, đứng giữa gian nhà
dùng làm buồng ngủ. Vách tường đã cũ, nhiều vết đinh
đóng lỗ chỗ, nước vôi sần sùi, bong ra từng mãng, lốm
đốm nhiều ô với nhiều màu sắc lẫn lộn. Mai lại lẩm
bẩm:
- Ngày mai, mình sẽ thuê người
đến quét nước vôi và sơn phết lại toàn bộ căn nhà.
Phòng ngủ nầy sẽ có màu xanh nhạt cho mát mắt. Mình sẽ
mua tặng một chiếc giường nệm đặt vào chỗ nầy. Đôi
vợ chồng trẻ sẽ nằm lên đó. Đêm tân hôn….!
Gương mặt trái xoan của Mai đỏ
hồng lên vì e thẹn. Nàng vội bước ra ngoài khóa cửa
lại và về nhà.
Sau giấc ngủ trưa ngắn ngủi,
Mai lại nhờ cha trông hàng để đi tìm người đến sửa
sang căn phố cho Tân. Nàng muốn hôm nào ở Bảo lộc về,
Tân sẽ rất ngạc nhiên khi thấy căn phố xinh đẹp và
mới toanh như vừa cất xong. Tuy nhiên, sau một giờ thăm
hỏi mà chẳng tìm được ai, nàng buồn bực trở về
nhà.
Ngày đi qua nhanh chóng, Mai đóng
cửa tiệm và gia đình quây quần quanh bàn ăn trong không
khí tràn đầy hạnh phúc.
Giữa bữa ăn, có tiếng gõ cửa
phía trước. Mai buông đũa lắng tai nghe. Thiếu tá Thế
nói:
- Ai mà đến giờ nầy?
Bác Tư trả lời:
- Có lẽ hàng xóm cần mua gấp
một món gì đó. Mai, con ra mở cửa xem.
Thế cãi lại:
- Không phải đâu, mấy đứa trẻ
nghịch phá đó. Em tiếp tục ăn cơm đi.
Lại có tiếng gõ tiếp theo. Mai
đứng dậy bước đến xoay chìa khóa, vừa mở cửa, vừa
hỏi:
- Ai đó?
- Tôi đây, Bạch Mai.
- Trời đất, anh Tân! Tại sao
anh còn ở đây, anh không đi Bảo lộc à?
- Tôi vừa trên đó về đây tức
thì.
- Thôi, anh vào đi, tắm rửa, ăn
cơm rồi nói chuyện sau.
Tân bước ra gian bếp, mọi người
đều buông đũa ngạc nhiên. Cậu tắm rửa nhanh chóng và
ngồi vào bàn. Mai lên tiếng trước:
- Sao anh không ở lại trên đó
vài ngày?
- Tôi không gặp ông bà Thái.
Thiếu tá Thế hỏi:
- Sao vậy? Ông bà Thái đi ở nơi
khác rồi à?
Tân gật đầu. Thế hỏi tiếp:
- Sao vậy? Ông bà chán nương rẫy
rồi sao?
Tân lắc đâu:
- Không phải chán đâu.
Mai quay sang vỗ nhẹ vào đùi của
chồng:
- Anh đừng nói nữa, để anh Tân
vừa ăn vừa kể đầu đuôi câu chuyện thì mới hiểu
hết được
Tân gật đầu:
- Vâng, tôi nói từ đầu. Sáng
nay tôi may mắn gặp chiếc xe tốc hành chạy ngay một
mạch không ngừng nên mới hơn mười giờ đã tới Bảo
lộc. Có nhiều thay đổi nhưng tôi vẫn nhớ đường đến
khu vườn ông bà Thái. Khu vườn thực xinh tươi, cổng
rào mới, nhà thì khang trang đẹp đẽ. Tôi gọi cửa và
ngạc nhiên thấy một người đàn bà lạ hoắc đi ra. Tôi
hỏi ông bà Thái, chị ta lắc đầu bảo ông bà không còn
ở đây nữa. Thấy tôi đứng tần ngần buồn bã, chị
ta hỏi tôi có phải là bà con với ông bà Thái không. Tôi
gật đầu. Chị mở cửa mời tôi vào và kể tỉ mỉ câu
chuyện cho tôi nghe. Cách nay đúng nửa năm, một đêm Việt
cộng về thu thuế vùng nầy. Đông lắm, ông nào cũng
mang súng và lựu đạn đầy mình. Nghe kêu cửa, nhà nào
cũng ra ngay vì tưởng lính quốc gia đi xét nhà. Đến khi
biết là Việt cộng thì ai cũng run. Họ nói rằng có
nhiệm vụ đi giải phóng miền Nam khỏi sự đô hộ và
bóc lột của đế quốc Mỹ và yêu cầu đồng bào đóng
thuế bằng tiền bạc để nuôi bộ đội giải phóng. Nhà
nào cũng bấm bụng móc tiền ra đóng cho họ. Rạng ngày,
khi biết họ đã đi rồi, ông bắt đầu chửi rủa rất
nặng lời, nói ra những điều cực kỳ thô bỉ trong đời
sống riêng tư của các lãnh tụ miền Bắc, làm cả xóm
ai cũng lo sợ cho sinh mạng của ông. Tai vách, mạch rừng,
họ về tới đó để thu thuế thì chắc chắn phải có
điềm chỉ viên rồi. Nếu tối nay hoặc sau nầy, họ trở
lại thì nguy cho ông vô cùng mà còn liên lụy cho hàng xóm
nữa. Họ phải thanh toán ông để dằn mặt người khác
Ai cũng đang lo sợ thì bất ngờ, ngay chiều hôm đó, ông
bà chở một ít đồ đạc ra ngủ nhờ một người bà
con ngoài phố, còn trong nầy thì treo ngay tấm bảng bán
nhà, bán vườn. Ông cho giá khá rẻ nên nhà kế bên mua
liền. Vài ngày sau, làm thủ tục sang tên và nhận tiền
xong, ông bà bỏ đi mất biệt, có lẽ sợ Việt cộng
theo dõi trả thù nên không để lại địa chỉ cho ai
biết. Có người bảo ông về Sài gòn, có người nói ông
đi Đà lạt, Ban mê thuột, thậm chí có người nói ông
qua Mỹ để tiếp tục lập vườn trà như ở Bảo lộc
nầy.
Tân dừng lại thở dài rồi kể
tiếp:
- Lúc đó, tôi thương ông bà
quá. Nghĩ đến hai người già nua phải từ bỏ cái mảnh
đất mà cả hai đã tưới biết bao mồ hôi lên đó rồi
bây giờ lụm cụm đi tìm đất sống, tôi buồn suýt phát
khóc. Tôi xin phép chị chủ nhà đi một vòng quanh vườn
rồi nuốt nước mắt, lên xe trở về Sài gòn ngay.
Bạch Mai nghe, mặt lộ vẻ xúc
động. Bỗng nàng phì cười, làm cho mọi người ngạc
nhiên quay lại. Nàng nhìn Tân, cố lấy lại nét nghiêm
trang:
- Xin lỗi anh Tân. Em thực sự
cảm động vì câu chuyện anh kể về ông bà Thái. Rồi
đột nhiên, một ý nghĩ vụt đến, làm em không nhịn
cười được. Anh tha lỗi cho em.
Tân đáp lời một cách thân mật:
- Mai có lỗi gì đâu. Nhưng Mai
có ý gì mà cười vui vậy?
Mai không trả lời ngay mà hỏi
lại:
- Có lần, anh đã nói với em
rằng ngoài gia đình em ra, hiện tại anh chỉ có hai người
quen và thân thiết, phải không?
- Phải, chỉ có anh Long và ông
Thái thôi.
- Thế mà chỉ trong có hai ngày
liên tiếp, anh đánh mất cả hai người thân thiết đó
vì hai lý do hoàn toàn trái ngược nhau. Một người thì
chạy theo Việt cộng còn người kia thì chạy trốn Việt
cộng.
Ý nghĩ ngộ nghĩnh của Mai làm
mọi người phì cười. Tân thôi cười và nói tiếp:
- Trên đường về, tôi suy nghĩ
mãi về cuộc chiến tranh trên đất nước mình. Khi cầm
tờ giấy giải ngũ trong tay, tôi có ý nghĩ rằng mình
thực sự từ giã vũ khí, thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa
của chiến tranh và không còn chứng kiến sự xung đột
gay gắt giữa quốc gia và cộng sản nữa. Bây giờ thì
rõ ràng ảnh hưởng của cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn không chỉ diễn ra trên chiến trường mà ở khắp
nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau. Tôi không thể nào
thoát ra ngoài cuộc chiến ý thức hệ nầy được.
Thiếu tá Thế gật đầu:
- Anh đang nhận diện đúng đắn
cuộc chiến tranh nầy rồi đó. Đây không phải là cuộc
chiến thuần túy bằng súng đạn, mà là cuộc chiến toàn
diện với vô số khía cạnh: tư tưởng, đạo đức, kinh
tế, vân vân, không thể nói hết được. Sau nầy, các sử
gia ắt phải điên đầu khi lý giải cuộc chiến nầy.
Thế mỉm cười rồi nói tiếp:
- Tuy nhiên, với mấy ông cộng
sản thì vấn đề rất giản dị. Ở tổng tham mưu, tôi
có dịp đọc những tài liệu tuyên truyền của cộng sản
mà biệt kích của mình thu lượm được ở miền Bắc và
trong mật khu của họ ở miền Nam. Thực là buồn cười.
Họ chẳng cần lý giải, chẳng cần đối chiếu thực tế
chỉ nhắm mắt vơ hết những từ tốt đẹp cho họ và
đùn đẩy tất cả xấu xa và sai trái cho Việt nam Cộng
hòa. Có những chuyện rõ ràng là cái bậy của họ mà họ
cứ trơ tráo đem gán cho mình. Thí dụ rõ ràng nhất là
cuộc chiến tranh xâm lược mà họ đang xúc tiến. Làm
nên một tội ác ghê gớm như thế mà miệng cứ rêu rao
là họ yêu chuộng hòa bình còn người quốc gia chúng ta
là hiếu chiến, là khát máu. Điều tồi tệ hết mức là
bên dưới những tài liệu tuyên truyền láo khoét thường
có ghi tên tác giả tự xưng là lý thuyết gia, là trí
thức của cộng sản. Ăn nói như thế mà xưng là trí
thức thì quả điều nhục nhã cho giới trí thức của
nhân loại.
Thế dừng lại vài giây để dằn
bớt cơn tức giận rồi thân mật vỗ vai Tân:
- Anh được giải ngũ thì đúng
là từ giã vũ khí theo nghĩa đen nhưng không phải là từ
giã chiến tranh. Anh về dạy học thì cũng vẫn tham gia
vào cuộc chiến. Nhờ anh dạy, giới trẻ sẽ khôn ngoan
để tự chúng sẽ nhận ra sự càn rỡ của những giáo
điều cộng sản.
Bạch Mai đứng dậy:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi,
mời các lý thuyết gia chuẩn bị đi ngủ để cho mụ đàn
bà nầy dọn dẹp.
Thế cười khà khà:
- Ôi! mụ đàn bà xinh đẹp và
dễ thương của tôi!
Bạch Mai quay lại:
- Ô hay, cái ông thiếu tá nầy
dám nịnh đầm một cách lộ liễu trước mặt người
khác sao?
Thế làm bộ càu nhàu:
- Đầm của tôi thì tôi nịnh.
Nếu em không bằng lòng thì ngày mai anh sẽ đi nịnh đầm
của người khác!
Bạch Mai nguýt chồng một cái
thực dài rồi mang chén bát đi rửa.
Sau một ngày đi đường, Tân
khoan khoái nằm xuống giường. Tuy nhiên, suốt đêm, cậu
ngủ rất ít, cứ nằm thao thức nghĩ đến căn nhà, kể
từ hôm nay trở thành vật sở hữu của cậu. Cậu dự
định về ở đó càng sớm càng tốt, không phải vì nôn
nóng được sống chung với Thùy Liên mà vì lý do khác.
Cậu với Thùy Liên đã tuyên bố
yêu nhau nhưng chưa hề bàn đến hôn nhân. Ngay cả chuyện
đến gặp những người thân trong gia đình nàng, cậu
cũng chưa thực hiện được. Cậu tin rằng cậu và Thùy
Liên sẽ thành vợ thành chồng nhưng đó không phải là
chuyện trước mắt. Cậu trở lại đời sống dân sự,
chỉ mới ba ngày, nghề nghiệp chưa bắt đầu, trong lưng
chẳng có bao nhiêu tiền mà còn ôm một đống nợ to
tướng để được sở hữu căn nhà. Cậu cần phải có
nhiều thì giờ để xếp đặt và ổn định mọi việc
thì mới có đủ điều kiện để cho “hai quả tim vàng”
vào chung dưới một mái nhà được.
Thế thì tại sao, cậu lại nôn
nóng về sống trong căn nhà của mình?
Cậu còn nhớ cách đây mấy hôm,
cậu xuống xe đò ở bến Chợ lớn và vẫn chưa định
về nhà nào, cho đến khi bác tài xế taxi hỏi dồn thì
cậu mới chỉ đại về địa chỉ nầy. Từ cái quyết
định bất ngờ và vội vã đó, cậu đã nhận được
nhiều điều may mắn làm cho tương lai cậu mở rộng như
bầu trời quang đãng. Cậu đã gặp lại Bạch Mai và lập
tức nàng trở thành ân nhân của cậu.
Người ta thường bảo “gái một
con, trông mòn con mắt”. Bạch Mai là gái hai con nhưng
chắc chắn vẫn còn có thể làm mòn con mắt thiên hạ!
Quả thực, Bạch Mai còn rất đẹp, không phải nét đẹp
ẻo lả thơ ngây của thời con gái mà là nét đẹp của
người trưởng thành hoàn toàn nẩy nở từ thể xác lẫn
tâm hồn. Nàng đang sống hạnh phúc với chồng, với con.
Hạnh phúc nầy phải được mọi người chung quanh tôn
trọng và thiếu tá Thế xứng đáng nhận lãnh hạnh phúc
đó.
Tuy nhiên, càng sống gần, cậu
càng thấy Bạch Mai xinh đẹp, yêu kiều. Sự thân mật,
sự săn sóc và sự lo lắng của Bạch Mai đã có lúc làm
cậu phải xao xuyến. Đáng sợ nhất là có lần, cậu
bước lên sân thượng, sực nhớ cái buổi sáng diệu kỳ
hôm đó, dưới bầu trời đầy sao, cậu đã siết tâm
thân mềm mại vào ngực mình và đặt lên đôi môi thơm
ngát của nàng nụ hôn đầu tiên, nụ hôn vĩnh cửu.
Cậu thở dài khi nhận ra rằng
mối tình đầu dù đã bị chôn chặt nhưng không bao giờ
tắt hẳn trong lòng mình.
Cậu sực nhớ câu nói mà mình
đã thốt ra: “Một kẻ lãng tử vừa lạc vào thiên
đàng”. Đây quả là thiên đàng không ngờ tới của kẻ
lãng tử bơ vơ. Điều đó có lẽ không sai lắm. Nhưng kẻ
lãng tử kia cần rời khỏi thiên đàng càng sớm càng hay
để tránh nguy cơ có một phút mềm lòng làm cho toàn bộ
thiên đàng sụp đổ.
Buổi sáng, Bạch Mai luôn luôn
bận rộn vì có nhiều khách hàng. Nàng trao chìa khóa và
bảo Tân sang nhận nhà của cậu.
Tân mở cửa bước vào với cảm
giác thực lạ lùng. Cậu đứng im nhìn gian phòng khách
trống trơn đầy ánh sáng. Cậu thong thả đếm bước hết
bề dọc rồi đến bề ngang. Cậu vào buồng trong quan sát
từng góc nhà rồi xuống bếp. Cậu quanh quẩn một lúc
rồi trở ra phòng trước. Cứ như thế, cậu đi lên đi
xuống không biết bao nhiêu lần. Sau cùng, cậu thấy mỏi
chân nên ngồi xuống chiếc ghế duy nhất kê sát bệ bếp.
Một bóng trắng thoắt hiện ra
ở cửa buồng. Tân giật mình quay lại.
Bạch Mai!
Nàng nhìn cậu và cười, nét mặt
đẹp rực rỡ dưới ánh sáng từ trên rọi xuống qua
khoảng trống để thông gió. Nàng nói một cách dịu
dàng:
- Hôm nay thì anh có đủ bình
tĩnh để quan sát tổ ấm của anh rồi phải không? Có
chỗ nào anh không bằng lòng nói cho em biết. Em đang đi
tìm người sửa sang, sơn quét lại cho sạch sẽ.
Nàng bước hẳn xuống bếp đến
chỗ vòi nước.
Em sẽ cho thợ tô lại cái sàn
nước, xây thêm một hàng gạch lên để nước không văng
vào ướt bếp. Cái kệ bếp nầy cũng cần sửa lại. Em
sẽ sắm lò nấu cho anh. Anh thích nấu bằng than hay bằng
khí đốt.
Nàng ngưng nói, ngẩng lên và
thấy Tân đứng im nhìn nàng đăm đăm. Nàng hồi hộp,
giọng nhỏ lại thoát ra theo hơi thở:
- Anh Tân, em hỏi sao anh không trả
lời?
- Mai em!
- Anh Tân!
Tân chợt thấy một nét khờ dại
hiện ra trong đôi mắt mở to của nàng trong đó lấp lánh
một niềm đam mê, làm cho người đối diện phải mềm
lòng. Tân cảm thấy hơi thở mình dồn dập. Cậu bước
tới một bước định mở rộng vòng tay nhưng kịp dừng
lại. Cậu vội quay lui, bước nhanh qua buồng ngủ rồi
đứng ngay giữa phòng khách. Ánh nắng chói chang từ bên
ngoài tràn vào mang theo tiếng người cười nói lao xao.
Cậu như vừa bừng tỉnh một giấc mơ. Cậu quay mặt vào
trong gọi to:
- Bạch Mai ơi.
- Dạ.
Nàng nhanh nhẹn bước lên, mặt
ửng hồng nhưng trong cái nhìn vui tươi không còn nét khờ
dại và đam mê vừa qua.
- Bạch Mai.
- Dạ.
- Ngay chiều nay anh dọn về ở
bên nầy.
Nàng ngạc nhiên:
- Tại sao vậy? Nhà chưa sửa
sang, chưa có đồ đạc gì cả. Anh ở tạm bên em vài hôm
nữa đi.
- Không, anh phải qua đây ngay. Em
không hiểu lý do à?
Mai cúi mặt, im lặng một chút
rồi thở dài:
- Em hiểu, anh sớm qua sống ở
đây là phải. Trong thương trường, em là một người
biết tính toán hơn thiệt, nhưng trong tình cảm, em là một
người đàn bà yếu đuối. Em biết rõ điều đó. Thỉnh
thoảng, em cũng có ao ước viễn vông. Tuy nhiên, nhất
thiết em phải giữ gìn cho toàn vẹn thiên chức làm vợ
và làm mẹ của em. Anh cũng muốn em giữ được thiên
chức đó phải không?
Tân gật đầu:
- Dĩ nhiên là anh muốn em giữ
được điều đó và anh còn có bổn phận giúp đỡ em
nữa. Bạch Mai!
- Dạ.
- Anh muốn nói điều nầy với
em. Em cũng hiểu trong bao nhiêu năm, tình yêu của anh đối
với em to lớn đến dường nào. Anh sợ tình yêu đó có
thể trở lại bùng cháy lúc nào không biết. Vì vậy,
chúng ta nên tránh gặp nhau trong khung cảnh riêng tư như
thế nầy.
Mai mím môi như muốn ngăn nước
mắt. Nàng nói với giọng buồn rầu:
- Em hiểu. Em sẽ không qua đây
một mình cho đến khi chị Thùy Liên về sống với anh.
- Bạch Mai!
- Dạ.
- Anh có một điều thắc mắc
trong lòng?
- Điều gì vậy, có liên quan đến
em không?
- Có. Anh Thế là một người đàn
ông đáng quí….
Mai ngắt lời:
- Có phải anh muốn hỏi em sống
với anh ấy và có yêu anh ấy hay không?
Tân gật đầu:
- Em thực là một người đàn bà
thông minh.
- Chính em cũng đã tự hỏi nhiều
lần như thế và đến bây giờ em có thể khẳng định
rằng em yêu anh ấy, thực tình em yêu anh ấy, một tình
yêu trên nền tảng của một sự tương kính rất hài
hòa. Anh Tân, mấy hôm nay, em có một ý nghĩ khá lạ.
- Ý nghĩ gì vậy?
- Trong mỗi người chúng ta có
thể hiện diện cùng lúc hai tình yêu. Một tình yêu để
sống mà làm tròn nghĩa vụ, và một tình yêu để giấu
kín mà tôn thờ.
- Bạch Mai, điều đó đâu có gì
là tội lỗi.
Bạch Mai có vẻ mừng rỡ:
- Anh Tân, anh nói như thế là
thực lòng phải không? Vâng, em mãn nguyện, không còn phân
vân gì nữa.
Nàng cười rất tươi, ánh mắt
sắc sảo của nàng nhìn thực ngay thẳng. Nàng nói tiếp:
- Anh định chiều nay qua đây ở
thực à? Nhà cửa chưa sửa sang gì cả.
- Không sao, anh sẽ đi mua vật
liệu về sơn phết và sửa chữa những nơi cần thiết.
- Mỗi ngày hai bữa, anh sang nhà
ăn cơm với gia đình em.
Tân im lặng suy nghĩ một chút
rồi đáp:
- Mỗi ngày, anh chỉ qua dùng bữa
tối với cả nhà đông đủ và nói chuyện với anh Thế
cho vui. Buổi trưa anh ăn qua loa ở đâu đó. Vả lại, khi
bắt đầu dạy học thì anh chẳng có thì giờ về nhà
bữa trưa đâu.
Bạch Mai gật đầu:
- Anh muốn như thế cũng được.
Riêng trưa nay thì anh phải về dùng bữa với ba em nhé.
- Đúng rồi, anh cần phải xin
phép bác để về nhà mới chứ.
- Em về trước nấu cơm, anh nhớ
qua.
- Được, anh qua ngay bây giờ.
Sau bữa cơm trưa, cậu bắt đầu
dọn qua nhà mới. Nói dọn nhà cho to chuyện chứ thực ra
cậu chỉ xách cái bao hành trang đi bộ một khoảng ngắn
là xong. Khi cậu ra đến cửa thì nghe tiếng Bạch Mai gọi
lại:
- Anh Tân, em quên mất là bên đó
chưa có giường chiếu gì cả.
- Không sao, anh có cái võng nhà
binh trải xuống nền gạch được rồi.
- Không được đâu, anh nằm
lạnh, có thể bị bệnh.
Tân cười:
- Em quên rằng anh đã từng lăn
lóc ngoài chiến trường rồi sao?
- Ngoài đó khác, trong nầy khác.
Em nhớ lúc còn hoạt động cho Việt cộng, các anh có dặn
em là nên tránh…., tránh cái từ gì đó mà em quên rồi.
- Gian khổ chủ nghĩa?
- Dạ, phải rồi, tránh gian khổ
chủ nghĩa. Khi không cần thiết thì đừng bày ra cái
chuyện gian khổ làm gì. Thôi được, anh qua trước mở
cửa đi, em sẽ soạn cho một số đồ dùng cần thiết
cùng giường bố mùng mền đưa sang cho anh.
Nàng đi mấy bước đến gần
Tân và nói nho nhỏ để cho người khác không nghe được:
- Em soạn đồ xong thì sẽ thuê
xích lô và chỉ nhà cho họ chở sang bên đó, anh đón
lấy. Em không qua đâu, theo lời dặn của anh ban sáng.
Tân cảm động nhìn nàng:
- Bạch Mai, em ngoan lắm.
Nói xong, Tân ra đường và cắm
cúi bước về nhà mình. Cậu mở khóa vào nhà, quăng bao
hành trang xuống nền gạch bông sạch sẽ. Cậu ngồi
xuống mở bao, lôi ra tấm vải màu xanh, trải rộng ra rồi
nằm xuống một cách thoải mái.
Cậu nhắm mắt lại và lập tức
khung cảnh sáng nay dưới bếp hiện ra, khuôn mặt xinh
đẹp, đôi má mịn màng, cặp mắt mở to đầy nét khờ
dại lẫn đam mê. Cậu thở ra một hơi dài, nghe lòng tràn
ngập yêu thương.
Có tiếng động bên ngoài, Tân
nhìn ra thấy một chiếc xích lô vừa đậu lại. Cậu
vùng dậy chạy ra phụ với bác phu xe mang vào chiếc
giường bố mà cậu nằm mấy đêm rồi, một giỏ cần
xé thực to và đầy ắp. Cậu soạn các thứ trong giỏ ra
rồi đứng ngẩn ngơ nhìn đủ thứ dụng cụ đủ dùng
cho một tiểu gia đình. Cậu xếp các thứ lên kệ bếp,
trải chiếc ghế bố ra ở buồng ngủ, cởi áo và quần
dài, leo lên nằm một chốc rồi ngủ thiếp đi.
Khi cậu thức dậy thì đồng hồ
đeo tay chỉ đúng ba giờ xế trưa. Cậu xuống bếp rửa
mặt và nhìn thấy ở xó bếp có một chiếc bàn nho nhỏ.
Cậu lôi bàn ra, lau sạch sẽ. Kéo ghế đến gần để
ngồi vào. Cậu khoan khoái vì bề cao của bàn và ghế vừa
tầm để viết. Cậu lấy giấy bút từ trong túi hành
trang ra và nắn nót viết lên đầu trang giấy: “Thùy
Liên yêu quí của anh”.
Cậu lầm thầm đọc lại dòng
chữ đó một cách âu yếm như người yêu đang có mặt
thực sự. Nguồn cảm hứng dâng lên lai láng, cậu cúi
xuống cắm cúi viết, dòng nối tiếp dòng, trang nối tiếp
trang. Cậu kể những nơi đã qua, những người đã gặp,
những may mắn đã thu nhặt được trong những ngày vừa
qua. Đến khi mô tả xong một cách tỉ mỉ căn phố mà
cậu mua được với số tiền mà Bạch Mai cho mượn, cậu
ngẩng lên nhìn ra ngoài thấy nắng vàng chỉ còn sót lại
trên những đọt cây cao. Cậu nói thầm:
- Sắp đến giờ cơm rồi. Có lẽ
thiếu tá Thế đã về và đang tắm rửa.
Cậu cúi xuống viết tiếp và
kết thúc lá thư khá dài.
Tân xếp những tờ giấy viết
xong, cho vào phong bì, vừa vặn đúng lúc thiếu tá Thế
khoát tay Mai bước vào. Thế nắm chặt hai vai của Tân,
giọng vui vẻ:
- Mừng anh có một ngôi nhà nhỏ
và xinh.
Nói xong, anh nhìn quanh căn phòng
khách trống trơn. Bạch Mai âu yếm níu lấy cánh tay của
chồng:
- Vâng, căn phố nầy xinh xắn và
lịch sự lắm nhưng tiếc là hơi hẹp.
Nàng cao giọng:
- Nhưng không sao. Anh Tân và chị
Thùy Liên cùng ra sức làm việc và tằn tiện ít lâu thì
cũng đủ sức cơi lầu lên.
Tân cười:
- Chỉ có hai người thôi thì cơi
lầu làm gì?
Bạch Mai quay hẳn người lại:
- Sao lại hai người. Chị Thùy
Liên về đây với anh rồi vài năm sau có năm bảy đứa
con là phải cơi một lúc nhiều lầu mới đủ.
Thế cười to:
- Cô chỉ giỏi tài xúi người
khác. Sao cô không làm như thế trước đi.
Bạch Mai đỏ mặt quay lại đấm
vào lưng chồng:
- Nói bậy, với anh thì bao nhiêu
đó đủ rồi.
Thế quay sang Tân, vừa cười vừa
nói theo điệu phân trần:
- Đó anh xem, cứ nói chuyện đẻ
thêm con là cô ấy dẫy nẩy lên. Mới có hai đứa mà đã
sợ sắc đẹp tàn phai rồi. Thực có vợ đẹp cũng khổ
vì bị hạn chế.
Bạch Mai tiếp tục đấm thùm
thụp vào lưng chồng:
- Lại nói bậy nữa rồi, không
biết xấu hổ. Ai hạn chế anh? Anh nói bậy làm cho anh
Tân hiểu lầm rồi e ngại chị Thùy Liên vì chị Liên
mới đích thị là vợ đẹp.
Tân cười vui vẻ:
- Sao Bạch Mai biết Thùy Liên
đẹp. Tôi chưa hề mô tả Thùy Liên với Bạch Mai mà.
- Khỏi mô tả. Em biết tầm mắt
anh hướng về người nào thì người đó ắt phải thuộc
về loại “chim sa, cá lặn”.
- Không, Bạch Mai lầm rồi, chính
anh Thế mới có khả năng hướng tầm mắt như thế.
Thiếu tá Thế cười rất phấn
khởi:
- Anh Tân nói đúng, tôi mà hướng
tầm mắt vào ai thì người đó hết chỗ chê. Xem đây.
Anh đột ngột cúi xuống nhìn
mặt vợ rồi bất ngờ hôn đánh chụt một cái vào má.
Bạch Mai đẩy chồng ra:
- Anh kỳ lắm, trước mặt người
khác mà không nghiêm túc tí nào.
Thế cười:
- Thôi được rồi, trước mặt
người khác thì phải nghiêm túc. Tối nay không có ai thì
tôi chả phải nghiêm túc đâu nhé.
Mai đỏ mặt, vùng vằng:
- Đàn ông các anh cứ gặp nhau
là nói bậy, nói bạ. Em không muốn nghe nữa đâu.
Nàng nói xong, bước vội ra cửa
bỏ về một mình. Hai người đàn ông còn lại, đứng
nhìn nhau cười. Tân vỗ nhẹ vào cánh tay của Thế:
- Tôi muốn nói với anh câu nầy,
một câu xét ra đã quá trễ.
- Câu gì? Trễ cũng không sao, anh
cứ nói đi.
- Tôi muốn chúc mừng hạnh phúc
của anh với Bạch Mai. Lời chúc mừng “trễ” gởi đến
vợ chồng anh.
Thế đáp lại:
- Cám ơn anh. Tôi cũng chúc mừng
cho hạnh phúc của anh với Thùy Liên. Lời chúc mừng
“sớm”, gởi đến vợ chồng anh.
Hai người bạn cười ha hả. Thế
nói:
- Thôi chúng mình về nhà dùng
cơm. Tôi đi trước, anh khóa cửa đi sau nhé.
Thế nói xong, ra khỏi nhà. Cậu
đứng nhìn theo, lòng cảm thấy rộn vui vì sự đầm ấm
của hai vợ chồng bạn. Cậu nghĩ đến Thùy Liên và thấy
lòng ngây ngất vì nỗi mơ ước cho tương lai.
Tân khóa cửa và thong thả bước
về hướng nhà Bạch Mai. Trên đường đi, cậu thấy tiệm
bán vật liệu xây dựng còn mở cửa nên ghé vào. Cậu
hỏi giá một vài dụng cụ và vật liệu mà cậu định
sáng mai mua để tự tay sửa sang nhà cửa của mình.
Cậu ra khỏi tiệm và thẳng về
nhà Bạch Mai. Cửa nhà đã đóng, chỉ chừa một khe hở.
Tân nghiêng mình lách vào. Cậu nghe dưới bếp có tiếng
cười nói vui vẻ nên đi thẳng xuống.
Bạch Mai đang đứng trong bếp,
đôi đũa trong tay. Thế ngồi trên ghế cao, hai chân đong
đưa một cách thoải mái. Tân đoán hai đứa bé đang chơi
trên phòng ông ngoại. Trên đó có chiếc máy truyền hình.
Bạch Mai nói to:
- Anh Tân về tới rồi kìa. Anh
Tân, anh mời dùm cái ông thiếu tá nầy ra phòng trước
để nói chuyện đi. Không biết hôm nay ông ấy gặp cái
gì trong sở làm mà về nhà cứ theo chọc ghẹo em hoài.
Ông ấy nói chuyện bậy bạ quá làm em vừa bực mình vừa
tức cười, suýt làm cháy cá đang chiên trên bếp. Đúng
là kẻ phá hoại.
Thế cãi lại:
- Anh Tân, anh đừng nghe lời tố
cáo xằng bậy của Bạch Mai. Anh ngồi xuống đây nghe
chúng tôi nói chuyện với nhau để học cách làm vợ làm
chồng. Vợ chồng mà không nói chuyện bậy bạ thì không
thể nào tìm được hạnh phúc. Thánh nhân đã dạy như
thế.
Bạch Mai vội quay lui, hai tay
chống lên hông, nét mặt ửng hồng, sừng sộ, trông thực
đáng yêu:
- Thánh nhân nào mà xúi người
ta nói bậy tục tĩu. Quỉ sứ trong tổng tham mưu dạy anh
thì có.
Thế cười hì hì, tiếp tục
trêu chọc:
- Em đừng nói như vậy. Tổng
tham mưu dẫy đầy tướng tá trong đó, quỉ sứ không dám
vào đâu.
- Thế thì mấy ông tướng, ông
tá trong đó có nói bậy như anh không?
- Ít thôi, chỉ vừa đủ để
anh tôn làm sư phụ.
- Trời đất!
Có tiếng dép đi lẹp xẹp ở
đầu cầu thang. Bác Tư dẫn hai cháu đi xuống. Mai nhìn
chồng:
- Ba xuống đó. Anh có ngon thì
tiếp tục ăn nói bậy bạ đi.
Bác Tư đã xuống lưng chừng cầu
thang. Bác nhìn xuống hỏi:
- Các con bàn chuyện gì mà cười
nói vui vẻ vậy?
Thế làm mặt nghiêm trả lời:
- Tụi con đang bàn chuyện hoàn
toàn nghiêm túc ba ạ.
Bạch Mai lườm chồng rồi quay
sang cha:
- Phải rồi, anh Thế nói chuyện
rất nghiêm túc. Cả đời anh chưa hề biết nói một câu
nào bậy bạ cả. Anh ấy hiền lành và đứng đắn hơn
cả quỉ sa tăng nữa ba ạ.
Thế và Tân ôm bụng, gập người
lại mà cuời.
*
* *
Tân đứng thẳng người
đưa hai tay lui sau, nắm lại đấm mấy cái vào lưng. Tuy
mỏi rừ nhưng cậu thấy khoan khoái khi nhìn ngắm kết
quả của mấy ngày lao động cật lực. Mấy bức vách
trông nõn nà dưới lớp nước vôi xanh phơn phớt, những
cánh cửa gỗ sạch sẽ với màu sơn xanh đậm. Cả căn
nhà trông mới hẳn ra. Hai ngày làm việc một mình đầy
hứng thú, luôn với ý nghĩ Thùy Liên sẽ thích chỗ nầy
chỗ nọ, nơi nầy nơi kia.
Cậu dọn dẹp mọi thứ cho gọn
gàng, tắm rửa sạch sẽ rồi mặc áo quần sang nhà Bạch
Mai. Bữa cơm tối đã chuẩn bị xong, mọi người quây
quần chung quanh. Thiếu tá Thế nói với Tân:
- Khi chiều tôi ra sở sớm, ghé
tìm anh Quảng, bạn tôi, tại trường của anh ấy.
Tân mừng rỡ:
- Anh có gặp bạn anh không?
- Có, công việc rất thuận lợi.
Sau khi tôi trình bày hoàn cảnh của anh, anh Quảng tỏ ra
sốt sắng nhưng bảo rằng rất đáng tiếc vì trường
vừa khai giảng xong. Có lẽ thấy vẻ mặt tôi buồn nên
anh Quảng cho biết trường đang thu nhận thêm học sinh để
thành lập vài lớp nữa và số giáo sư cũng đã dự trù
gần xong. Tôi cố trình bày hoàn cảnh rất đáng giúp đỡ
của anh và chỉ sau khi tôi nói rõ anh đã từng chiến đấu
và bị thương ngoài chiến trường thì anh Quảng đổi ý,
muốn gặp anh càng sớm càng hay để bàn chuyện hợp tác
lâu dài. Ngay sáng mai, anh nên đến gặp anh ấy đi.
- Vâng, cám ơn anh, sáng mai tôi
sẽ đi.
Sau bữa cơm, Tân đùa giỡn với
hai đứa bé một lúc rồi về nhà.
Sáng hôm sau, cậu dậy sớm,
“diện” bộ áo quần tốt nhất và đến trường theo
địa chỉ mà thiếu tá Thế đã cho.
Cậu hồi hộp bước vào văn
phòng và được ông hiệu trưởng tiếp đón một cách
ân cần. Sau khi cậu tự giới thiệu xong, ông hiệu trưởng
nói:
- Tôi nghe anh thiếu tá Thế giới
thiệu anh đã tốt nghiêp đại học sư phạm và đã thi
hành xong quân dịch. Trước khi đi lính, anh dạy ở trường
nào?
Tân lắc đầu:
- Vừa mới ra sư phạm là tôi
được gọi nhập ngũ ngay, nên chưa đi dạy ở đâu cả.
Ông hiệu trưởng có vẻ hơi
ngạc nhiên. Sau một phút im lặng, ông nói với giọng khá
dè dặt
- Anh chưa hề đứng lớp thực
à? Thế thì hơi khó. Ở trường tư, giáo sư cần có kinh
nghiệm.
Tân cảm thấy tự ái mình bị
xúc phạm:
- Nhưng tôi đã được đào tạo
chính qui trong trường sư phạm, tôi đã được thực tập
nhiều ở các trường trung học và được đánh giá tốt.
Ông hiệu trưởng nhỏ nhẹ:
- Xin lỗi anh, nếu tôi đã làm
cho anh phật lòng. Tuy nhiên tôi cũng cần trình bày với
anh vài điều cần thiết trong việc dạy trường tư để
khi bắt đầu công việc anh không gặp khó khăn. Thành
thực mà nói, tôi không hề nghi ngờ khả năng dạy dỗ
của các giáo sư tốt nghiệp đại học sư phạm. Khả
năng của các anh đã quá đầy đủ để dạy trường
công nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ để dạy trường tư.
Tân càng thấy khó chịu hơn:
- Thế thì trường công và trường
tư có mục đích giáo dục khác nhau à?
Giọng ông hiệu trưởng vẫn ôn
tồn:
- Không, tôi không bảo thế. Mục
tiêu giáo dục, chương trình học vẫn là một. Đường
hướng phát triển tư duy và kiến thức nơi các em cũng
là một. Được đào tạo ở trường công hay trường tư,
sau nầy các em cũng trở thành người công dân tuyệt đối
bình đẳng trong xã hội.
- Thế thì tại sao giáo sư dạy
ở hai trường phải có khả năng khác nhau?
- Điểm khác nhau là thế nầy.
Trường công thì hoàn toàn miễn phí nên khi đến trường,
các em có tâm trạng của những kẻ nhận được ân huệ
của xã hội và sẵn sàng thu nhận một cách vô điều
kiện tất cả những điều dạy dỗ của thầy cô. Trong
khi đó học sinh trường tư thì phải đóng tiền hàng
tháng để nhà trường thuê các thầy cô đến dạy. Vì
vậy, các em đến trường và nhìn thầy cô với cặp mắt
không hoàn toàn giống với học sinh trường công.
Tân gần như mất hết kiên nhẫn:
- Như vậy, chúng tôi đến dạy
trường tư như những kẻ làm thuê mà bổn phận đầu
tiên là phải làm vừa lòng các cậu ấm cô chiêu?
Ông hiệu trưởng khoát tay:
- Không phải thế. Anh hãy bình
tĩnh nghe tôi trình bày. Trường công hay trường tư đều
phải thực hiện đầy đủ mục tiêu giáo dục mà quốc
hội và bộ giáo dục đề ra và đều đòi hỏi thành
phần giảng dạy phải có đủ kiến thức và khả năng
truyền đạt. Tuy nhiên, vì sự khác nhau về tâm lý của
hai nhóm học sinh mà tôi vừa trình bày, khả năng truyền
đạt đòi hỏi nơi giáo sư cũng khác nhau đôi chút. Đến
trường công, người thầy chỉ cần là một nhà truyền
giáo nghĩa là có đủ lời hay ý đẹp là đủ. Đến
trường tư, người thầy vừa là nhà truyền giáo, vừa
phải là một nghệ sĩ biết cách làm cho người khác chịu
thu nhận lời hay ý đẹp của mình. Theo tôi, khả năng sư
phạm của một giáo sư trường tư phải cao hơn một giáo
sư trường công nếu muốn đạt cùng hiệu quả nơi học
sinh.
Tân vẫn ngồi yên, nét mặt khá
lạnh lùng. Ông hiệu trưởng nói tiếp:
- Tôi biết anh khó chấp nhận
điều đó một cách thoải mái vì trường sư phạm không
hề đề cập đến và hơn nữa, anh là một quân nhân,
với bản tính cương trực và ngay thẳng, khó hình dung
được những điều lắc léo trong các nghề nghiệp dân
sự.
Ông hiệu trưởng ngưng lại, rót
nước mời Tân rồi nói tiếp:
- Anh nên suy nghĩ những điều
tôi nói. Hơn một tháng nay, tôi phải liên tục từ chối
nhiều người đến xin dạy. Nhưng tôi muốn anh hợp tác
với chúng tôi. Lý do thứ nhất là anh được thiếu tá
Thế giới thiệu. Thế là người bạn cố tri mà tôi rất
kính mến. Anh Thế mong muốn anh có giờ dạy trường tư
để bắt đầu khai thông cuộc sống khi trở về đời
dân sự. Ý muốn của anh ấy thì cũng là ý muốn của
tôi vì tôi vẫn muốn tỏ lòng biết ơn các chiến sĩ. Lý
do thứ hai, anh là một sĩ quan xuất ngũ, làm công tác
giáo dục rất thuận lợi.
Tân ngạc nhiên:
- Người cầm phấn và người
cầm súng thì có liên can gì với nhau?
- Có chứ. Anh không nhớ rằng
chúng ta đang ở vào thời chiến sao? Trong xã hội nầy,
có giới nào được nể trọng bằng sĩ quan. Anh bước
vào lớp với tư cách là một cựu sĩ quan, đã từng lăn
lóc ngoài chiến trường thì rất thuận lợi đối với
tâm lý của các em. Ngoài ra, anh đã thi hành xong quân dịch
thì nhà trường không phải lo mất giáo sư một cách đột
ngột vì bị gọi nhập ngũ như những người khác. Bây
giờ, có lẽ anh hiểu rõ vấn đề rồi. Xin anh cho biết
ý kiến.
Tân ngập ngừng:
- Xin ông hiệu trưởng cho tôi
suy nghĩ một ngày.
Ông hiệu trưởng tươi cười:
- Vâng, anh hãy suy nghĩ về những
điều tôi nói đi. Nếu đồng ý hợp tác thì một hay hai
hôm nữa, anh trở lại đây, mang theo bản sao bằng tốt
nghiệp Sư phạm và chứng chỉ giải ngũ. Tôi cũng xin
thưa cho anh rõ là nếu anh đồng ý hợp tác thì hãy gắn
bó với trường. Tôi sẽ dần dần thu xếp cho anh một số
giờ sao cho thù lao của anh ở đây tối thiểu cũng bằng
lương trường công của anh. Bây giờ, xin tạm biệt, mong
gặp lại.
Tân ra về, lòng cảm thấy không
được hào hứng như lúc ra đi. Cậu đi bộ loanh quanh
nhiều đường phố, ghé vào một quán cơm trưa rồi chui
vào rạp xi nê thường trực Lê Lợi, vừa coi phim vừa
ngủ những giấc ngắn và gián đoạn cho đến chiều. Cậu
đi bộ xuống bến tàu rồi trở về nhà thì trời tối
hẳn, đường phố lần lượt lên đèn. Trong nhà, cơm đã
dọn sẵn, mọi người chờ đợi cậu về.
Vừa thấy cậu bước vào, Bạch
Mai reo lên:
- Anh Tân về rồi kìa. Anh Tân,
có thư của chị Thùy Liên.
Chưa kịp hết câu, nàng đã chạy
vào buồng và lấy ra một phong thư trong tay:
- Nè, thơ dày cộm như một tập
hồ sơ.
Thiếu tá Thế vừa cười vừa
nói:
- Thư của cô Liên gởi cho anh
Tân dĩ nhiên phải dày rồi. Em biết tại sao không?
- Tại sao?
- Vì có chứa một ngàn cái hôn
trong đó, không dày sao được.
Bạch Mai lườm chồng:
- Chuyện đó thì thiếu tá rành
hơn cả chuyện nhà binh của thiếu tá nữa. Đây, thư của
người đẹp đây. Nhưng khoan, tí nữa, ăn cơm xong, anh
Tân mới được bóc ra. Bây giờ, anh hãy cho biết sáng
nay anh có gặp ông hiệu trưởng không? Nhận được bao
nhiêu giờ dạy?
Tân im lặng một chút rồi thong
thả trả lời:
- Tôi có gặp rồi. Ông ấy tỏ
ra rất nhiệt tình vì tôi đã được anh Thế giới thiệu
đến. Tuy nhiên, chuyện dạy dỗ thì chưa xong.
Bạch Mai tỏ vẻ lo lắng:
- Tại sao vậy? Trường không còn
giờ cho anh dạy à.
- Không phải vậy, chính tôi
không muốn nhận.
Thế ngẩng lên nhìn với đôi
mắt ngạc nhiên:
- Sao vậy anh Tân?
Tân lưỡng lự:
- Hơi khó giải thích. Đại khái
là thế nầy. Đối với học sinh trường tư, ông thầy
không có vị thế đích thực của ông thầy mà gần như
là một kẻ làm công cho những người chủ nhỏ thôi. Tôi
không thích điều đó. Thà chịu nghèo khổ với đồng
lương trường công cũng được.
Bạch Mai hốt hoảng:
- Anh Tân, anh không nên suy nghĩ
như thế. Do chiến tranh phá hoại của Việt cộng, nền
sản xuất của chúng ta bị đình đốn, đồng tiền cứ
sụt giá đều đều, riêng cái lương công chức thì khó
cầm cự được với cuộc sống. Hơn nữa, anh mới vừa
được rời quân ngũ với hai bàn tay trắng. Anh cần có
tiền để bắt đầu gầy dựng cuộc sống của anh.
Tân đáp với giọng chán nản:
- Cám ơn Bạch Mai. Tôi cũng hiểu
đời sống rất khó khăn. Tuy nhiên, điều gay go cho tôi
là kể từ khi bước chân vào trường sư phạm, tôi đã
hết sức tôn trọng cái nghề dạy học của mình và tôi
muốn ai cũng tôn trọng nó.
Bạch Mai thở dài:
- Em biết anh là người đam mê
lý tưởng. Ngày xưa anh theo Việt cộng cũng vì sự đam
mê đó. Những năm chinh chiến càng làm cho sự đam mê đó
cứng nhắc hơn.
Tân mỉm cười:
- Ông hiệu trưởng cũng có nhận
xét gần như thế.
Bạch Mai nói tiếp:
- Những người đam mê lý tưởng
thì phải chịu khổ suốt đời. Em không muốn anh phải
cam chịu số phận đó. Hơn nữa, anh là người có tài.
Em chắc chắn anh sẽ là một giáo sư giỏi. Đất nước
mình đang chiến tranh, chi phí quốc phòng quá lớn nên
ngân sách không đủ để trang trải phí tổn cho chuyện
học của tất cả con em mình. Vì vậy một số khá lớn
trẻ em phải học trường tư. Nếu tất cả giáo sư có
tài có đức như anh từ chối trường tư thì quả thực
là một điều rất đáng phiền trách và đáng thương cho
những em học sinh đó.
Thiếu tá Thế vỗ tay:
- Hoan hô, anh không ngờ cô vợ
bán tạp hóa của anh lại lý luận về chuyện xã hội
hay như một lý thuyết gia vậy.
Bạch Mai mỉm cười và rất hứng
thú vì lời khen của chồng. Nàng nói tiếp:
- Có lẽ anh ghét dạy trường tư
vì ở đó giáo sư phải lấy lòng học sinh thì mới được
hiệu trưởng tin dùng. Có phải vậy không?
Tân gật đầu:
- Gần đúng như thế. Tôi sợ có
lúc phải làm trò hề để cho học sinh vui lòng. Nếu như
thế thì là một trò giả dối thực thô bỉ!
- Không phải vậy đâu. Muốn trụ
được trong xã hội nầy thì nghề nào cũng cần sự khôn
khéo. Khôn khéo đâu phải là điều giả dối đáng phỉ
nhổ. Như nghề buôn bán của em đây chẳng hạn. Cần
khôn khéo nhưng không dối gạt ai, nghĩa là vẫn giữ được
đạo đức của mình. Hàng ngày em phải tiếp những người
khách đáng ghét. Họ cầm món hàng rồi chê bai một cách
cực kỳ phi lý nhưng em vẫn phải lịch sự và tươi cười
với họ, nhờ đó em thành công trong thương trường. Anh
có cho rằng tươi cười và lịch sự với những khách
hàng đáng ghét đó là giả dối, vô đạo đức không?
Một lần nữa thiếu tá Thế vỗ
tay đôm đốp:
- Ha ha, lý luận như thế thì
nhất định ông giáo sư phải thua cô bán hàng rồi. À,
nói chuyện bán hàng làm tôi nhớ lại câu chuyện chiều
hôm qua ở tổng tham mưu.
Bạch Mai quay sang nhìn chồng:
- Ở tổng tham mưu cũng có chuyện
bán hàng à? Hay là trong đó cũng có tiệm tạp hóa với
một cô bán hàng xinh xắn?
- Thôi đi, người đẹp đừng có
bày đặt ghen tương vớ vẩn. Câu chuyện ở tổng tham
mưu thế nầy. Sư đoàn Một vừa mới bắt sống được
một sĩ quan miền Bắc. Mới vượt qua sông Bến hải để
xâm nhập vào Nam là cu cậu bị thộp cổ liền. Tổng
tham mưu yêu cầu quân đoàn Một đưa vào để tình báo
trung ương khai thác tin tức. Anh chàng nầy là một chính
trị viên.
Mai hỏi:
- Chính trị viên là cái gì?
- Chính trị viên còn gọi là
chính ủy. Đó là bí thư đảng bộ của đơn vị; đó là
cha, là ông nội của cả đơn vị, kể cả đơn vị
trưởng.
Mai le lưỡi:
- To nhỉ, chắc thuộc thành phần
bần cố nông?
- Đúng vậy, anh ta là bần cố
nông chính cống, đảng viên kỳ cựu và đã bị đảng
ta khoét bỏ cả hai tai và hai mắt.
Bạch Mai xì một tiếng:
- Thôi đi, anh nói gì mà ghê vậy?
Tân cười và giải thích:
- Anh Thế nói theo nghĩa bóng đó.
Anh bần cố nông đó bị đảng che dấu mọi sự thực.
Thế cũng cười theo và tiếp tục
câu chuyện:
- Anh ta cứ đinh ninh rằng trong
Nam nầy bị Mỹ bóc lột một cách tàn tệ, nghèo đói
cho đến đỗi không có cơm mà ăn cho no bụng, không có
áo mà mặc cho đủ ấm, nhiều gia đình hai vợ chồng
phải dùng chung một cái quần.
Bạch Mai bụm miệng cuời:
- Có lẽ cái quần đó phải rộng
lắm.
Thế cười to:
- Không phải hai người cùng lúc
chui vào một cái quần đâu. Nếu được như vậy thì anh
cũng tình nguyện sống như thế suốt đời.
Mai đỏ mặt:
- Anh cứ tìm dịp để nói bậy
cho sướng miệng. Thôi anh kể tiếp đi.
- Dùng chung một cái quần, có
nghĩa là chồng muốn đi ra ngoài thì vợ phải trốn trong
buồng và ngược lại. Miền Nam nghèo đến như thế đó.
Nghe tên sĩ quan Bắc Việt khai như vậy, đại tá Thạch ở
phòng tình báo hỏi nó có tin không thì nó gật đầu. Lúc
đó, đại tá mới nảy ra sáng kiến chở hắn đi một
vòng cho biết đời sống của xã hội miền Nam. Từ khi
bị bắt đến giờ nó luôn luôn bị giam kín. Đại tá
sai lính đi tìm cho nó một bộ áo quần dân sự. Đại tá
và một số sĩ quan cũng mặc thường phục rồi cùng đi
với nó. Cả đoàn đến chợ Bến thành thì xuống xe. Nó
cứ trố mắt ra nhìn. Đại tá cho nó đi dọc theo đường
Lê Lợi, qua Nguyễn Huệ và Tự do, ghé vào một vài tiệm
để xem người ta mua bán. Nó vừa đi vừa thở hào hển
và trố mắt nhìn trông đến tội nghiệp. Sau cùng, đại
tá dẫn nó vào một tiệm ăn ở Chợ Cũ đãi nó một bữa
thịnh soạn. Trông thấy cái cách nó ăn, nghĩ mà xót xa
cho cả mười mấy triệu đồng bào của mình ở miền
Bắc. Khi trở về tổng tham mưu, nó thú thực không thể
nào ngờ miền Nam là như thế được. Nó tưởng rằng
chỉ có Mát cơ va của Liên xô mới được vậy. Nó bảo
chưa đến Mát cơ va lần nào nhưng chỉ tưởng tượng
theo sự mô tả của đảng mà thôi. Nó thắc mắc không
hiểu hàng hóa nhiều như thế thì bán cho ai. Khi được
nghe giải thích rằng ai cũng có thể mua và mua bao nhiêu
cũng được, nó lắc đầu không thể nào tin nổi. Ở
miền Bắc của nó, có tiền, muốn mua một cái vỏ xe đạp
cũng gay go lắm. Tội nhất là nó nói cảm tưởng về cái
tiệm ăn mà nó được dẫn vào. Nó nói tại sao trong Nam,
người ta lễ phép với khách hàng đến thế. Ở miền
Bắc Xả hội chủ nghĩa của nó thì cửa hàng nào cũng
là của nhà nước, gọi là quốc doanh, và đâu đâu cũng
có kẻ khẩu hiệu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách
đi”, nhưng khi tới cửa hàng khách bị đối xử chẳng
hơn gì ăn mày. Mấy nhân viên bán cửa hàng quốc doanh
thì xấc láo; chúng là đảng viên hay con cháu đảng viên
mới chui vào được cửa hàng quốc doanh để tìm cách
đục khoét. Nó thú thực là lúc còn ở ngoài Bắc, nó
tin theo lời nói của đảng và tưởng rằng miền Nam
nghèo khổ hơn miền Bắc nhiều lắm nên nó động lòng
thương, quyết vào giải phóng miền Nam để đồng bào
ruột thịt trong nầy cũng được như đồng bào miền
Bắc!
Nói đến đây, Thế dừng lại
thở dài. Bạch Mai nói:
- Anh kể chuyện nghe cảm động
lắm, nhưng chuyện đó có liên can gì đến chuyện dạy
học của anh Tân đâu.
- Vui miệng thì anh kể như thế.
Vả lại chuyện đó cũng có liên can chút ít đến giáo
dục. Cái trình độ văn hoá của bất cứ thành phần nào
trong xã hội cũng đều là kết quả của nền giáo dục.
Cứ so sánh riêng thái độ những người bán hàng của
hai miền cũng rõ. Ở miền Nam, người bán hàng biết tôn
trọng con người, khác hẳn với miền Bắc. Đó chính là
một biểu hiện của nền văn hóa xã hội để có thế
kết luận rằng nền giáo dục miền Nam tốt hơn miền
Bắc không biết chừng nào mà kể. Thế mà nền giáo dục
miền Nam phải gồm cả trường công và trường tư. Cả
hai khối đó đều cần sự hợp tác của những người
tốt như anh Tân.
Bạch Mai gật đầu hài lòng:
- Anh Tân nên theo ý kiến của vợ
chồng chúng em nghe anh.
Tân mỉm cười cui vẻ:
- Vâng, anh Thế và Bạch Mai có
lòng tốt với tôi đến thế thì tôi không thể nào làm
khác ý kiến của hai bạn được.
Bữa cơm chấm dứt từ lâu rồi,
Tân kiếu từ ra về với phong thư dày cộm trong tay. Cậu
vào nhà, tắm rửa sạch sẽ và bóc thư ra đọc:
Anh yêu,
Anh về Sài gòn rồi thì ngay ngày
hôm sau, em đã bắt đầu mong thư anh. Em mong ngày một
ngày hai, em mong buổi sáng buổi chiều. Ngày lại qua ngày,
em không phải buồn nữa mà bắt đầu giận anh. Mỗi ngày
qua là em giận anh thêm một chút. Chúa nhật vừa rồi,
quân y viện phân công em xuống trực ở phòng sĩ quan cấp
úy, em tìm cách đổi cho người khác để khỏi bước vào
cái phòng mà anh đã từng dưỡng bệnh, khỏi phải trông
thấy cái giường mà anh đã nằm trên đó cho em săn sóc.
Em giận anh ghê gớm như thế đó. Em nhất định nếu
nhận được thư anh thì em không thèm đọc mà nhờ bưu
điện trả lại cho người gởi. Em vừa quyết định như
thế lại vừa lo sợ không bao giờ nhận được lá thư
để mà trả lại cho người yêu.
Cuối cùng, bác quân bưu cũng đến
nhét vào tay em một phong thư. Nhìn tên anh ở phía trên bì
thư, em vội cám ơn bác bưu tá rồi chui ngay vào phòng
thay áo quần. Em sợ không kềm được nỗi hờn dỗi mà
bật khóc trước mặt mọi người thì sẽ ra sao? Em cầm
phong thư trong tay và sực nghĩ ra rằng có lẽ anh không hề
biết em chờ mong tin tức của anh. Cho đến nay, cuộc đời
anh là một chuỗi dài những ngày tháng cô đơn, đi không
ai đưa, về không ai đón, vắng mặt chẳng ai mong. Như
vậy anh làm sao hiểu được tâm trạng của người mong
tin anh. Anh chẳng có lỗi gì cả và thực đáng thương,
em nỡ nào giận anh, oán trách anh. Em đưa lá thư của anh
áp vào mặt và hai giọt nước mắt của em in lên đó. Em
khóc, không phải vì giận nữa, mà vì thương anh. Em lau
khô nước mắt rồi lẻn xuống quán, bóc thư ra, đọc
một mạch từ đầu đến cuối.
Càng đọc em càng vui mừng. Hôm
anh chia tay em để về Sài gòn, em biết mọi người sẽ
tử tế với anh vì anh là người về từ tiền tuyến,
nhưng em không ngờ người ta tốt với anh đến cái mức
mà anh mô tả trong thư. Tấm lòng người hậu phương thực
đẹp. Cả miền Nam của chúng mình đều thực đẹp phải
không anh? Cảm động nhất là tấm lòng của chị Bạch
Mai đối với anh. Bây giờ em mới hiểu rõ tại sao lúc
ấy, trong phòng hồi sinh, vừa mới tỉnh dậy, anh đã
thều thào gọi tên của chị ấy nhiều lần.
Anh Tân, tại sao anh dặn em đừng
hiểu lầm mà có ý ghen với chị Bạch Mai sau khi anh kể
lòng tốt của chị đối với anh? Không đâu, anh đừng
lo, em hiểu anh; với chị Bạch Mai em chỉ có lòng kính
phục chứ không thể chen vào sự ghen tuông nhỏ mọn
được.
Thế là sau cùng, nhờ lòng tốt
của chị Bạch Mai mà anh có được cái nhà, đích thực
là cái nhà của riêng hai đứa chúng mình sau nầy. Anh bảo
bao nhiêu năm rồi làm thân “gitan” lang thang nơi nầy
đến nơi nọ nên khi cầm bút ký vào bản xác nhận quyền
sở hữu, anh cứ tưởng là chuyện đùa. Rồi đến khi
đứng trong căn nhà của anh, anh không thể nào nhét vào
đầu cái cảm tưởng rằng đó thực sự là căn nhà của
anh. Em nhắc lại đoạn thư trên đây mà anh đã viết vì
em hết sức xúc động bởi tâm trạng đáng thương đó
của anh và ngày hôm sau em cũng đã kể nguyên tâm trạng
nầy cho chị Hai của em nghe. Em thương yêu anh vô ngần.
Em phải ngưng đọc một lát để cố ngăn nước mắt vì
em đang ngồi trong quán giải khát và có nhiều thương
binh đang chăm chú nhìn em.
Sau cùng thì em cũng đã đọc hết
lá thư của anh. Đọc đến câu cuối em quá ngượng khi
anh bảo hôn em đến một ngàn cái. Anh yêu, đừng hôn em
nhiều quá, em sợ bỏ chạy mất nghe anh.
Bây giờ thì em bắt đầu kể
chuyện dưới nầy cho anh nghe nhé. Buổi chiều, chúng mình
gặp nhau trên bến Ninh kiều, anh và em đã thú nhận yêu
nhau, em đã trao bàn tay bé nhỏ của em để anh nắm trong
bàn tay sạm nắng của anh, em đạp xe về nhà mà có cảm
tưởng như đi trên mây. Suốt đêm đó, em không ngủ được
vì cứ nghĩ đến bàn tay anh nắm chặt tay em, nghĩ đến
những ngày sắp tới của tình yêu chúng mình. Sáng dậy,
em lo sợ mắt bị quầng thâm vì mất ngủ nên vội nhìn
vào gương soi và yên tâm thấy mặt em vẫn sáng sủa như
mọi ngày.
Buổi chiều, đi làm về, em qua
nhà chị Hai ngay.
À, em quên chưa giới thiệu với
anh những người thân trong gia đình em. Em phải ngưng kể
chuyện để làm công việc đó trước đã.
Ba của em năm nay sáu mươi mốt
tuổi. Ông là công chức của ty công chánh, mới về hưu
năm ngoái. Má em nhỏ hơn ba em năm tuổi, suốt đời làm
nội trợ. Nhà có bốn chị em. Chị Hai lớn hơn em đến
bảy tuổi, có chồng và hai con. Chị Hai là công chức ty
thuế vụ còn anh Hai là trung sĩ Hải quân làm việc ở bộ
chỉ huy giang thuyền tại Cần thơ. Nhà anh chị cũng ở
Bình thủy, chỉ cách nhà ba má em độ nửa cây số thôi.
Má kể rằng, khi sinh được hai đứa con gái là chị Hai
và em thì má muốn ngưng vì thời buổi chiến tranh nuôi
dạy con rất khó khăn, nhưng ba không chịu nhất định
đòi cho có con trai. Ba dọa nếu má không chịu thì ba đi
kiếm nơi khác. Má sợ nên phải chiều ý ba, không ngờ
chiều hơi thái quá, sinh hai cậu con trai liền năm một,
bây giờ mới học đến lớp đệ tứ và đệ ngũ mà
thôi. Khổ chưa? Vì vậy về hưu rồi, ba vẫn phải tiếp
tục bươn chải làm việc. Cũng may, ba là kỹ sư công
chánh, có tay nghề khá nên hùn hạp với một người bạn
mở xưởng thầu xây dựng, do đó đời sống vật chất
của gia đình cũng dễ chịu.
Bây giờ, em trở lại chuyện em
đến nhà chị Hai nhé.
Anh yêu, có lẽ anh đã biết lý
do em đến nhà chị Hai rồi phải không? Em đến tìm chị
để “thú tội” rằng đã yêu anh, và đã để cho anh
nắm tay ngoài bến Ninh kiều. Em đã trưởng thành, có
nghề nghiệp đàng hoàng, nhưng ở trong gia đình, em vẫn
cảm thấy rằng mình còn rất bé bỏng. Từ nhỏ, ba
thương em nhất nhà nhưng lại có vẻ nghiêm khắc nên em
không bao giờ tâm sự với ba. Má thì không nghiêm khắc,
thích chiều chuộng em nhưng mấy năm rồi, má tỏ ra
thương anh Tạo lắm và cho đến bây giờ vẫn qua lại
thân mật với ba má anh Tạo. Vì vậy, em ngại “thú tội”
với má. Em tìm đến chị Hai nhưng cũng rất hồi hộp
vì chị Hai cũng thương anh Tạo và cũng thân mật với
gia đình anh ấy.
Chị Hai vừa về đến nhà chưa
kịp thay quần áo thì đã thấy em đẩy xe vào cổng. Chị
chạy ra nắm tay em lôi vào nhà. Chị nhìn em từ đầu đến
chân rồi hỏi:
- Em từ sở ra, chưa về nhà phải
không? Đến đây chơi hay có việc gì?
Em im lặng chưa tìm được câu
nhập đề thích hợp thì chị nhìn thẳng vào mắt em và
tiếp tục hỏi, nghe có vẻ sốt ruột:
- Có chuyện gì vậy Liên? Chuyện
quan trọng phải không?
Có lẽ mặt em hơi biến đổi
khác ngày thường, làm chị lo lắng. Em đành vào thẳng
vấn đề. Em nói với chị rằng em có người yêu và em
vừa tâm sự với người yêu chiều hôm qua ở bến Ninh
kiều. Chị Hai chụp hai vai em bóp mạnh và trố mắt nhìn
em làm em hoảng quá, nghĩ rằng, sau lời “thú tội” đó
của em, chị sẽ la rầy em hay có thể bợp tai em nữa.
Mặc, em đứng yên, nhắm mắt lại, chuẩn bị chịu đựng.
Không ngờ chị Hai buông hai vai của em ra, ôm choàng lấy
em, siết chặt em vào ngực. Rồi chị hôn tới tấp vào
tóc, vào mặt em. Chị đưa miệng sát vào tai em, thủ thỉ:
- Liên, Liên, chị mừng lắm. Chị
chưa biết cái thằng người yêu của em ra sao nhưng chị
cứ mừng trước đã. Sau khi thằng Tạo tử trận, chị
thấy em buồn rầu, từ chối sự làm quen của tất cả
con trai trong xóm, chị lo lắm. Chị sợ em không còn thương
ai được nữa và trở thành gái già mất. Bây giờ chị
hết lo nửa phần rồi. Nửa phần còn lại là lo về cái
gia thế, cái tư cách của thằng người yêu hiện tại
của em.
Chị Hai buông em ra và nói tiếp:
- Đâu em nói rõ cho chị nghe nó
là đứa thế nào, nhà ở đâu, học hành, nghề nghiệp
ra sao.
Em nói cho chị biết anh là giáo
sư trung học, là sĩ quan vừa mới giải ngũ và đang ở
Sài gòn để lo thu xếp công việc và cuộc sống. Chị
Hai tỏ vẻ mừng rỡ, vả nhẹ vào má em và nói:
- Tốt lắm. Học hành, nghề
nghiệp, vị trí xã hội như thế là được rồi. Nhưng
còn phải xét bản chất và sự thành thực nữa. Em nhắn
nó xuống đây gấp để gặp chị. Chị cần phải hỏi
thẳng nó có quyết tâm tiến tới hôn nhân với em không.
Nếu có thì chị sẽ dẫn nó đến trình diện ba má. Nếu
nó có vẻ lần khân thì chị sẽ thuê du đãng cạo đầu
nó rồi chở nó ra thả bên kia bờ sông Bến hải để
cho cộng sản trừng trị nó.
Anh Tân, em xin lỗi anh vì đã lặp
lại nguyên văn những lời nói lỗ mãng của chị Hai. Chị
Hai là người rất nhân hậu nhưng tính chị nhiều khi hơi
giống đàn ông ở chỗ thích ăn nói to tiếng và chọc
cười thiên hạ. Em lặp lời chị vì muốn anh hiểu cách
ăn nói của chị để khi gặp chị thì anh không phải
ngạc nhiên hoặc phật lòng. Vả lại, sau nầy em về sống
với anh thì chị Hai là người thân của anh. Người thân
thì hiểu rõ tính tình của nhau là điều cần thiết phải
không anh?
Chị Hai thấy em im lặng thì suy
nghĩ một chút rồi nói tiếp:
- Nhưng thôi, để cho nó lo công
việc của nó, thủng thẳng xuống cũng được. Nó vừa
là sĩ quan, lại vừa là giáo sư thì không nên nghi ngờ
tư cách của nó. Hơn nữa, chị tin rằng em đã chấm ai
thì người đó phải trên trung bình khá xa.
Em ôm hôn chị Hai vì lời khen
của chị dành cho anh và cho em. Chị Hai nói tiếp:
- Được rồi, lát nữa, lo cơm
nước cho ông chồng của chị và hai đứa nhỏ xong, chị
sẽ qua nói cho ba má biết, rồi chị cũng sẽ qua nói với
ba má cậu Tạo luôn.
Em lo lắng hỏi chị:
- Có nên nói cho ba má anh Tạo
biết không?
Chị quả quyết:
- Có chứ sao lại không? Nói để
ông bà hết băn khoăn. Thằng Tạo chết gần hai năm rồi,
đi đầu thai kiếp khác từ lâu thì nỡ nào bắt em phải
trung thành với nó. Em lớn rồi, phải có gia đình, có
con cái để kịp nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng nên người.
Nói xong, chị bảo em về trước,
một giờ nữa chị sẽ qua tới.
Em đạp xe về, cố giữ vẻ thản
nhiên, tắm rửa, ăn cơm xong ngồi đợi chị Hai. Đúng
một giờ sau, chị ấy đến. Buổi tối, chị Hai cũng
thường qua thăm nên ba má em không ngạc nhiên gì cả. Chị
Hai đuổi hai đứa em trai ra sân rồi mời ba má và cả em
nữa vào nhà để nói chuyện.
Chị trình bày rất mạch lạc
chuyện tình yêu của anh và em với những chi tiết mà em
vừa nói với chị ấy lúc ban chiều. Em ngồi cúi mặt
không dám ngẩng lên. Má nghe xong, quay sang vuốt tóc em. Ba
thì ngồi im, nét mặt nghiêm trang làm em hơi sợ. Sau một
phút, ba thủng thẳng nói:
- Con Liên lớn rồi thì nó có
thể chọn nơi để gởi gắm tấm thân của nó. Ba cũng
tin rằng nó không chọn lầm người.
Ông ngừng lại một chút, nhìn
lên bàn thờ rồi nói với vẻ đầy kính cẩn;
- Có một chuyện rất lạ lùng
và khó tin.
Ông lại ngừng nói, móc thuốc
ra hút. Ông rít liền hai hơi, nhả khói trắng bay đầy
nhà rồi mới nói tiếp:
- Hồi hôm, ba nằm chiêm bao thấy
bà nội các con về nói với ba: “Thằng rể của mày là
giáo sư”.
Nghe ba nói, cả nhà đều sững
sờ và rợn người. Em không hiểu đó quả là sự linh
thiêng hay là giác quan thứ sáu của ba đã mách bảo cho
ông biết điều quan trọng vừa đến với đứa con gái
mà ông nhất mực thương yêu.
Ngày hôm sau, chị Hai nhắc lại
chuyện nầy với em và bảo rằng đó là điều rất tốt.
Chị nói:
- Hôn nhân là điều hệ trọng
và có tính thiêng liêng của đời người. Vì vậy trong
hôn lễ, quan trọng nhất là lễ gia tiên để xin ông bà
chứng giám cho cuộc sống lứa đôi. Giấc mộng của ba
là điều rất tốt cho sự sống chung bền vững của em
và chồng em sau nầy.
Cũng ngày hôm đó, chị Hai đến
thăm ba má anh Tạo. Sau đó chị gọi em ra cuối sân và
nói với em:
- Chị đã trình bày chuyện của
em với ông bà. Bà thì khóc còn ông thì ngồi lặng thinh.
Bà bảo rằng bà khóc vì nhớ cậu Tạo và vì mừng cho
em. Từ ít lâu nay, bà mong có đám nào lại xin cưới em
mà không thấy nên bà rất băn khoăn. Nay thì bà mong muốn
hai em tiến tới cho sớm để bà có dịp dự đám cưới
của em.
Chị còn nói tiếp:
- Bà nói rằng ông bà chỉ có
hai đứa con trai đều tử trận, người cháu ruột thì ở
đâu tận Cà mau, trong vùng của Việt cộng, lâu lắm rồi
không liên lạc. Ông bà tính xin vô viện dưỡng lão để
nhờ người của các cơ quan từ thiện săn sóc, vui với
những bạn già trong đó và khi chết cũng được chôn cất
tử tế. Cái vườn của ông bà đang ở rộng được năm
công. Ông bà sẽ bán đi phân nửa để lấy tiền đóng
góp cho viện dưỡng lão và dành chút ít xài vặt trong
thời gian sống trong đó. Còn hai công rưỡi, ông bà muốn
cho em để làm của hồi môn khi về sống với chồng.
Em nghe chị nói xong thì cắn môi
để khỏi bật khóc. Nhìn lại thì thấy mắt chị Hai rơm
rớm.
Than ôi, cuộc chiến tranh nầy
của cộng sản đã tạo ra biết bao nhiêu là đau thương
cho những người dân hiền lành, đôn hậu của miền Nam
nầy!
Anh Tân yêu quí của em,
Em viết lá thư nầy trong hai đêm
liên tiếp, đêm nào cũng quá hai giờ sáng. Khi nãy, lúc
mười hai giờ, má thức dậy, thấy ở phòng em đèn còn
sáng nên bước qua. Má nhẹ nhàng đến sau lưng đưa tay
vuốt tóc làm em giật mình quay lại. Má hỏi khe khẽ:
- Con viết gì mà khuya vậy? Viết
thơ cho cậu Tân phải không?
Em e thẹn gật đầu. Má nói
tiếp:
- Con không nên thức khuya quá hại
sức khỏe. À, con nhớ mời cậu ấy về đây chơi để
má nhìn mặt càng sớm càng tốt.
Má nói xong thì bước ra khỏi
phòng, vài phút sau trở vào, đưa cho em một ly sữa nóng.
Em uống ly sữa ngọt ngào nhưng không ngọt bằng tình
thương của má đối với em. Ở đây, em nhìn chung quanh,
chỗ nào, lúc nào cũng thấy tình thương bao phủ kín. Anh
mồ côi từ thuở nhỏ, thiếu tình thương. Sau nầy, em về
với anh, em chia sẻ mọi tình thương mà em có cho anh.
Đó, anh thấy chưa, tình yêu của
chúng ta đang diễn tiến tốt đẹp như thế, bảo sao em
chẳng mong thư anh cho được. Ba má, chị Hai mong sớm gặp
anh, điều đó càng làm em nóng ruột đến độ hờn giận
anh. Nhưng thôi, bây giờ, em không giận anh nữa đâu, anh
yêu của em!
Thư đã khá dài rồi, em xin dừng
bút. Ngày mai trên đường đến quân viện, em sẽ ghé bến
xe đò nhờ đưa về Sài gòn bỏ vào thùng thơ trên đó
để anh sớm nhận được. Nếu gởi đi từ đây, con rùa
bưu điện ngậm lá thơ nầy bò cho hết 170 cây số để
đến tay anh thì mất quá nhiều thì giờ, sợ anh yêu của
em mong đợi, tội nghiệp anh.
Em, Thùy Liên
yêu quí của anh.
Tân cầm chặt những tờ giấy
vừa đọc xong, nhắm mắt lại. Trong lòng cậu dậy lên
một niềm khao khát mãnh liệt, khao khát gặp mặt nàng,
khao khát siết chặt tấm thân ngà ngọc của nàng vào
lòng.
Cậu bước đến cửa nhìn ra
ngoài. Con hẻm nhỏ đã vắng người. Xa xa có tiếng xe
chạy rì rầm và êm êm trên đường Vườn chuối và
đường Phan đình Phùng. Nỗi ước ao được sống chung
với Thùy Liên rộn rã trong lòng. Cậu tự nhủ:
- Ngày mai, nhất định đến nhận
giờ ở trường tư để sớm có tiền tổ chức hôn lễ
với nàng. Thu xếp công việc với nhà trường xong, mình
sẽ đi ngay xuống Cần thơ để gặp nàng và gia đình
nàng.
Ý nghĩ nầy làm cho lòng cậu
phơi phới. Cậu đóng cửa tắt đèn, ngã lưng trên giường
bố. Cậu hi vọng đêm nay mình sẽ có một giấc mơ tuyệt
đẹp.
*
* *