Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

Chương 5: Trở về (1)



Một cuộc chiến tranh dài
Tập II
Chương 5: Trở về
(1)

Cù lao Phố là một hòn đảo rất nên thơ nằm trong dòng nước Đồng nai. Đất cù lao rất tốt nên cây cối bốn mùa xanh tươi. Từ rất xa xưa đã có những người đầu tiên ở tận miền Bắc Việt Nam và đất nước Trung hoa đến đây lập nghiệp nhưng cho đến nay, dân cư sống trong cù lao vẫn chưa đông, nhà cửa còn thưa thớt nằm cách rời nhau trong những khu vườn xinh xắn.
Quốc lộ số Một và con đường sắt xuyên Việt băng qua sông Đồng nai ngay trên cù lao Phố, bằng hai chiếc cầu sắt, một ở phía Tây hướng về Sài gòn và một ở phía Đông, dẫn ngay vào thành phố Biên hòa. Hai chiếc cầu vừa được sửa sang, sơn phết lại nên trông mới hẳn ra dù chúng đã được làm rất lâu, từ khi người Pháp còn đô hộ xứ nầy. Trong nhiều năm, những đoàn tàu ngưng chạy do sự đánh phá của Việt Minh. Sau khi hòa bình trở lại, đường sắt được phục hồi. Những đoàn tàu lại rầm rập qua cầu, những hồi còi hú dài trong đêm tô thêm nét duyên dáng cho cảnh thanh bình đang trở lại trên quê hương hiền hòa.
Đêm đầu tiên Tân về đây sống, tiếng còi tàu đã làm cho cậu xúc động vô ngần vì nó làm sống lại trong lòng biết bao kỷ niệm êm đềm ở ngôi làng bé nhỏ xưa kia. Tân trằn trọc gần thâu đêm với những hình ảnh của quá khứ nối tiếp nhau, từ quê hương miền Trung khói lửa, nơi đã sống những năm đầu đời, qua Mỹ tho an lành rồi đến thành phố Sài gòn thân yêu. Cách xa thành phố nầy suốt gần ba năm rồi, nhớ đến nó, lúc nào cậu cũng thấy lòng bồi hồi xúc động.
Nhất định ngày mai cậu phải về Sài gòn, đi trên những con đường ngày xưa, thăm lại những chốn cũ, nhìn lại những ngôi trường của thời thơ ấu. Ý nghĩ ngày mai trở lại Sài gòn làm cho cậu nôn nao nên chỉ chợp mắt được kể từ tiếng gà gáy đầu tiên đến khi bình minh ló dạng.
Khi Tân thức giấc thì ông bà Thái đã dậy không biết tự lúc nào. Ông đang tập thể dục ngoài sân, bà nấu ăn trong bếp.
Trong bữa ăn sáng, cậu tỏ ý muốn về thăm lại Sài gòn, hai ông bà bằng lòng ngay. Bà dúi vào tay cậu một món tiền và căn dặn:
- Cháu nên đi chơi nội trong ngày thôi, chiều lên xe trở về đây. Tối nay hai bác muốn bàn bạc với cháu chuyện quan trọng cho những ngày sắp tới của cháu.
Tân lo lắng:
- Chuyện quan trọng là chuyện gì vậy bác?
Bà Thái cười một cách hiền lành:
- Chuyện học của cháu đó mà. Bây giờ, chính phủ trọng dụng những người có học và có bằng cấp trong tay. Nghe bác trai nói cháu tha thiết muốn đi học trở lại. Đó là điều rất tốt. Cháu đã mất nhiều năm rồi. Bây giờ phải bắt đầu trở lại ngay đừng để mất thêm thì giờ nữa.
Tân ấp úng:
- Nhưng….
Bà Thái ngắt lời:
- Cháu lo lắng về chuyện ăn ở, chuyện phí tổn học hành phải không? Cháu khỏi lo, hai bác sẽ lo cho cháu trong một thời gian. Thôi cháu đi chơi đi. Chiều tối về sẽ bàn bạc thêm.
Đúng một giờ sau, Tân có mặt tại Sài gòn. Bến xe vẫn còn nằm trên đường Pétrus-Ký, quang cảnh không có gì thay đổi. Bên nầy vẫn là hai dãy nhà lầu đồ sộ của nhân viên sở Hỏa xa, bên kia là hãng thuốc lá với tiếng máy chạy rì rầm. Cậu đi bộ dọc theo con đường rợp bóng mát đến trường Trung học Pétrus Trương vĩnh Ký. Cậu dừng lại, đứng ngoài nhìn vào, cảm động khi nhớ đến những năm của tuổi trẻ hồn nhiên, ngày ngày cắp sách đến ngồi trong lớp học của ngôi trường nầy. Bên kia đường không còn mảnh đất trống mà bọn trẻ dùng đá banh. Người ta đã rào kín lại, bên trong nhiều dãy nhà đã mọc lên.
Cậu rời nhà trường, hướng về phía Bàn cờ, đi nhanh đến nhà chị Chi và dừng lại, ngẩn ngơ. Căn nhà nho nhỏ với cái gác thấp lè tè không còn nữa. Nơi đó bây giờ là một ngôi nhà xây với một tầng lầu, trông thực khang trang và sang trọng. Cậu bùi ngùi quay đi, ra đường Phan thanh Giản và đi dọc theo lề đường cho đến đường Vườn chuối. Cậu dừng lại, bâng khuâng. Trên con đường nầy, có một ngôi nhà nho nhỏ của Bạch Mai, người con gái xinh đẹp mà cậu thường nghĩ đến trong bao năm tháng trong tù. Nhưng Mai không còn là cô nữ sinh xinh xắn nữa mà bây giờ đã là một thiếu phụ với một con rồi. Những gì êm đềm ngày xưa đã mất cả, không còn gì nữa. Cậu quay mặt lại và thẳng hướng về trung tâm thành phố.
Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng làm cho mặt cậu lấm tấm mồ hôi. Cậu sải bước ngang qua chợ Bến thành, theo hướng Hàm nghi thẳng ra bến tàu. Cậu đi dọc theo bờ sông đến Hải quân công xuởng. Cậu sực nhớ đến anh Thí người bạn tù đáng thương, đã từng là công nhân tại đây, bị bắt một cách oan uổng do ai đó đã nhét tờ truyền đơn vào giỏ xách cơm của anh. Anh đã bị kích động ngoài ý muốn và đã vượt nguc, không biết sống chết ra sao. Nếu không có chuyện vượt ngục tai hại đó thì giờ nầy anh đã sum họp với vợ con. Cậu thở dài và cảm thấy xót xa trong lòng.
Dọc theo bờ tường có nhiều gánh cơm bán cho công nhân. Tân ngồi xuống và ăn trưa tại đó. Xong rồi, cậu lững thững đi vào sở thú ngồi lên một băng đá mát mẻ, ngửa mặt và ngủ một giấc ngon lành sau một đêm trằn trọc và một buổi sáng đi bộ qua nhiều đường phố.
Một đốm sáng xuyên qua kẽ hở của tàn lá rơi ngay trên mặt làm cậu tỉnh giấc. Cậu đứng dậy vươn vai, bước ra cổng. Cậu trở lại trung tâm thành phố, ghé vào một tiệm sách mua vài quyển trong chương trình thi tú tài rồi vội vã trở lại bến xe Biên hòa. Cậu về đến nhà thì trời đã sẫm tối.
Ngày hôm sau, cậu được ông Thái dùng xe gắn máy chở đến một trường tư thục trong thành phố Biên hòa để ghi tên học rồi ghé mua cho cậu một xe đạp cũ nhưng vẫn còn khá tốt.
Lớp học của cậu gồm phần nhiều những học sinh đã lớn tuổi vì chiến tranh làm cho việc học bị dở dang. Do đó, cậu đỡ cảm thấy lạc loài.
Cậu học rất chăm chỉ. Buổi sáng đến trường, buổi chiều ở nhà học bài và giúp đỡ bà Thái trong công việc nhà. Cuộc sống có vẻ êm ả thực sự sau bao nhiêu năm sóng gió. Tuy nhiên, cậu không hoàn toàn an tâm với cuộc sống nầy. Mỗi khi bước vào lớp học, cậu lại nhớ quay quắt ngôi trường xưa cũ ở Sài gòn. Cậu luôn mong ước được sớm trở về thành phố thân yêu đó. Ông bà Thái thương yêu cậu thực tình, chăm sóc cậu như một đứa con ruột thịt. Điều đó càng làm cho cậu ái ngại khi sống bám vào hai người già đáng thương nầy. Gia đình chẳng dư dả nhiều. Mọi chuyện đều trông chờ vào đồng lương công chức của ông. Cậu mong tìm được việc làm để tự lập lấy thân mình.
Mấy tháng sau, cậu đi thi và đậu tú tài phần thứ nhất ngay trong khóa đầu tiên. Hai ông bà mừng rỡ mở tiệc ăn mừng. Kể từ ngày hôm đó, ý muốn sống tự lập thôi thúc cậu mỗi ngày một mạnh mẽ thêm.
Một buổi chiều, cậu đạp xe lang thang về thành phố Biên hòa và dừng lại ở một công viên bên sông, ngồi trên bờ xi măng của một bồn hoa, trầm ngâm nhìn ghe thuyền qua lại trên mặt nước. Mặt trời chìm xuống dưới những đọt cây cao làm cho không khí buổi chiều dịu lại.
Cậu đang dõi mắt nhìn theo một cánh chim cô đơn trên nền trời cao thì giật mình vì một bàn tay chạm nhẹ vào vai mình. Cậu quay lui và đứng bật dậy, sửng sốt. Một thanh niên đứng trước mặt, nhìn cậu mỉm cười. Đó chính là anh Long, người bạn tù cùng phòng và có chỗ nằm đối diện với cậu. Lúc còn ở trong tù, cậu không thân với anh lắm nhưng rất mến anh. Anh khoảng ba mươi tuổi, có dáng vẻ trí thức, tính tình điềm đạm. Anh cũng như cậu, thuộc nhóm không tham gia lớp học tố cộng đầu tiên trong trại. Cậu nắm tay anh, mừng rỡ:
- Anh Long, anh về từ khi nào vậy?
- Sau em chừng một tháng.
- Anh…., anh có theo khóa học hay không?
Anh Long cười:
- Có chứ. Phải theo thì mới được về. Trong trại bây giờ chẳng còn ai chống đối nữa. Sau khi em về độ vài ngày là lớp mới bắt đầu, mọi người đều ghi tên đi học.
- Anh Minh thì sao?
- Cũng phải đi học như những người khác vậy chứ làm sao hơn được.
Anh Long vỗ vai cậu và nói tiếp:
- Em khỏe chứ? Ra tù, đi học lại phải không?
Tân ngạc nhiên:
- Sao anh biết?
- Biết chứ. Anh có gặp em một lần lúc em vào trường nhưng hôm đó vội quá không gọi em được. Bây giờ, em về nhà anh chơi nhé, nhà anh ở gần đây.
Tân gật đầu và vui vẻ theo sau anh. Long đạp xe trên một đoạn, quanh vào một con hẻm và dừng lại trước một căn phố nho nhỏ. Anh móc túi lấy chìa khóa mở cửa. Trong nhà bày biện sơ sài. Tân để ý thấy một kê sách khá to choáng gần hết bức vách ngăn buồng trong, các ngăn đều đầy sách.
Anh Long đi xuống bếp và trở lên với hai ly nước trong tay. Thấy Tân đang chăm chú nhìn kệ sách, anh nói một cách vui vẻ:
- Sách của anh cả đó, có nhiều loại. Hôm nào em đến chơi, cần cuốn nào cứ mang về đọc, nhưng nhớ đọc xong phải trả lại, anh quí chúng lắm.
Tân ngập ngừng:
- Anh là giáo sư phải không?
Long cười to:
- Không, anh là thư ký kế toán của một hãng buôn xuất nhập cảng có văn phòng ở gần chợ Biên hòa. Anh ưa thích đọc sách. Cứ gì phải là giáo sư mới có nhiều sách.
Tân nhìn khắp gian nhà:
- Chị và các cháu đâu?
Long cuời:
- Anh chưa có vợ. Bao nhiêu năm nay lo theo cách mạng, thời giờ đâu mà lập gia đình.
- Anh ở đây một mình à?
- Anh ở với ba má anh. Hai ông bà vừa mới về Tân uyên. Ba má anh có nhà cửa vuờn tược trong đó. Từ khi chiến tranh trở nên ác liệt, chỗ ở mất an ninh, hai ông bà ra thành phố mua căn nhà nầy.
- Anh không có anh chị em à?
- Có một bà chị và một cô em gái đều đã có chồng con, mở tiệm tạp hóa và buôn bán ở chợ Tân uyên.
- Ở chợ thì tương đối an ninh, sao hai bác không sống trong đó với hai chị mà lại ra đây?
- Vì hai ông bà chiều theo ý muốn của anh. Trong mấy năm chiến tranh, ở đây an ninh hơn trong đó. Vả lại, anh muốn về thành phố lớn để đi học thêm. Sau khi hòa bình trở lại, ba má anh định giao căn phố nầy cho anh và trở về vườn. Chưa kịp đi thì anh bị bắt. Hai ông bà đành phải ở lại đây để thăm nuôi anh. Ra tù, anh trở lại đi làm nên hai ông bà giao nhà cho anh, mới về quê được mấy hôm rồi. Còn em thì sao? Anh nhớ em bị bắt tại Sài gòn, sao bây giờ sống tại đây? Anh cũng nhớ là em không có gia đình bà con nào cả phải không? Trong phòng, em là người duy nhất không được thăm nuôi.
Tân kể một cách sơ lược cho anh Long nghe đoạn đường mà cậu đã trải qua trong những tháng vừa rồi. Cậu cũng khoe với anh, ra tù, cậu đi học trở lại và vừa mới đậu được tú tài phần thứ nhất. Anh tỏ ý mừng rỡ:
- Giỏi. Mới ra tù, đi học trong vài tháng mà thi đậu là khá lắm. Em còn trẻ nên tiếp tục học vài năm nữa. Trong một xã hội ổn định, ai có học lực khá thì sẽ có một địa vị xứng đáng. Nhưng em không có gia đình hay bà con thì làm sao đi học được?
- Em đang sống nhờ nhà ông bà Thái. Anh có nhớ ông y sĩ của nhà tù không?
- Nhớ, ông ta ở phòng y tế và em làm thư ký cho ông ta. Anh nghe nói ông ấy hiểu biết khá rộng, lý lẽ chống cộng khá vững vàng, cán bộ của mình đấu lý không hơn được ông ấy. Có đúng vậy không? Em làm việc chung chắc hiểu ông ta.
Tân gật đầu:
- Ông Thái khá am tường về chủ nghĩa cộng sản. Sau năm 1945, ông đã từng theo cách mạng trong vài năm mới trở về Hà nội học trường thuốc và ra y sĩ.
Anh Long ngạc nhiên:
- Ông ấy mà cũng đã từng theo cách mạng à? Sao ngày nay chống cộng hăng thế.
- Ông Thái đã kể cho em nghe cuộc đời của ông. Ông đậu tú tài Tây rất sớm. Dạo đó cái bằng cấp tú tài thì quí vô cùng, mỗi năm chỉ có vài người đậu thôi. Vì vậy, đậu xong, nếu muốn là có thể làm quan cho chính phủ bảo hộ ngay. Tuy nhiên, ông thuộc gia đình yêu nước nên không chịu ra làm quan. Ông cụ thân sinh của ông Thái là một nhà nho đậu tú tài với nhà Nguyễn, và đã một lần tiếp xúc với một nhà cách mạng vào thời đó. Năm 1945, ông Thái lao vào con đường cách mạng với chức vụ gì đó trong ủy ban kháng chiến hành chánh huyện. Khi Pháp chiếm lại Hà nội, ông vào chiến khu tiếp tục cuộc kháng chiến. Tình cờ, ông khám phá ra rằng đồng chí chủ tịch huyện là một tên tội phạm trước đây bị Pháp lùng bắt.
Anh Long cướp lời:
- Thì có sao đâu. Người bị Pháp lùng bắt thì trở thành nhà cách mạng là chuyện thường.
- Nhưng đồng chí nầy bị lùng bắt vì tội cướp của và giết người.
- Cũng không sao. Trước làm bậy, nhưng về sau giác ngộ cách mạng thì cũng được sử dụng như thường.
- Ông Thái bảo rằng ông hiểu điều đó nhưng điều mà ông không chịu nỗi chính là sự man trá của đồng chí đó. Anh ta khoe với mọi người cái quá khứ rất trong sạch của mình rồi lên giọng đạo đức, dạy người nầy, mắng chửi người kia. Ông Thái là người có học lại chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh của cha nên không thể nào chịu nổi. Hơn nữa với cái nhìn sáng suốt của người có học, ông Thái nhận ra Việt Minh có chủ trương ám hại những nhà yêu nước không phải là cộng sản nên quyết định từ bỏ kháng chiến, trốn về Hà nội rồi năm 1954 di cư vào Nam.
- Hình như ông ấy giúp đỡ em được trả tự do mà không phải chào cờ và học chính trị phải không?
- Dạ phải. Ông ấy nhờ người quen ở bộ nội vụ đưa em ra khỏi tù rồi đưa em về nhà cho đi học. Hiện em đang được ông bà nuôi dưỡng.
- Anh mừng cho em gặp được ân nhân đáng quí.
- Đúng, hai ông bà là ân nhân thực đáng quí của em, nhưng em không muốn nhận ân huệ của ông bà lâu hơn nữa. Chịu ơn như thế là quá nhiều rồi. Em muốn từ giã ra đi.
- Tại sao vậy?
Anh hỏi xong, nhìn Tân một cách tò mò và chờ đợi câu giải thích của cậu. Thấy cậu im lặng, anh dọ hỏi tiếp:
- Lúc còn ở trong tù, anh biết ông ta nổi tiếng là người chống cộng. Có phải vì lý do đó mà em không thích gần gũi không?
Tân lắc đầu:
- Quả thực ông ấy ghét cộng sản lắm; nhưng bây giờ vấn đề đó không còn liên can đến em nữa. Em đâu còn là người cộng sản và đâu có quan tâm đến việc theo hay chống cộng nữa. Nhưng thôi chuyện đó còn dài, trời tối rồi, em phải về.
- Em sẽ trở lại chơi với anh nhé.
- Dạ, em sẽ trở lại. Ở đây, ngoài ông bà Thái, em không còn quen biết với ai nên ngoài những giờ học ra, em thấy cô đơn, em cần có người để tâm sự.
Tân đứng lên, anh đứng lên theo, cầm tay cậu, thân mật:
- Em cứ đến đây bất cứ lúc nào, ngoài những giờ anh đi làm việc. Hôm nay là thứ bảy, sáng mai chúa nhật, em đến chơi nhé.
- Dạ.
- Em hãy đến sớm. Anh đợi em cùng đi ăn sáng.
Tân về đến nhà thì trời bắt đầu tối. Mâm cơm đã dọn ra. Ba người cùng ngồi vào ăn một cách vui vẻ.
Sáng hôm sau, cậu xin phép ông bà đi ra phố và thẳng đến nhà anh Long. Hai người đi ăn sáng và trở về nhà ngay. Dường như anh Long rất muốn có người để trò chuyện. Vừa về đến nhà, anh hỏi:
- Học xong tú tài, em tính làm gì?
- Em chưa tính được. Còn những một năm nữa mới xong trung học. Em phải lo cái năm nầy trước đã.
- Lo chuyện sinh sống phải không? Ừ, hôm qua em có bảo rằng không thể ở lâu dài nhà ông Thái được. Tại sao vậy?
- Vì vấn đề tôn giáo.
Long ngạc nhiên:
- Tại sao lại có vấn đề nầy? Anh hiểu hai ông bà là người Bắc di cư thì có lẽ là theo đạo Thiên Chúa. Đa số những người di cư đều có đạo nên chạy trốn cộng sản vô thần. Nhưng với em thì tôn giáo có gì gọi là quan trọng? Em theo đạo Phật phải không?
Tân lắc đầu:
- Em chẳng có đạo nào cả. Nhưng em nhớ ngày xưa mẹ em theo đạo Phật. Em còn nhớ rất rõ bàn thờ Phật đặt kế bàn thờ ông bà.
- Người Việt Nam có lòng khoan dung về tôn giáo. Đạo ai nấy giữ, những người trong một gia đình vẫn có thể có đạo khác nhau và sống chung với nhau. Huống chi, em không có đạo thì càng dễ sống chung với người khác.
- Nhưng ông bà tha thiết mong em vào đạo Thiên chúa.
- Anh không ngạc nhiên chút nào về điều nầy. Những con chiên của đạo Thiên Chúa thường muốn truyền bá rộng rãi đạo của mình.
- Ở đây, vấn đề còn sâu sắc hơn chuyện truyền đạo nữa.
Anh Long nhíu mày:
- Chuyện gì có vẻ quan trọng vậy?
- Hai ông bà không có con trong khi em mồ côi cha mẹ nên ông bà muốn nhận em làm con nuôi chính thức và về sau nầy sau khi qua đời thì để lại tài sản cho em.
- Anh hiểu được nỗi lòng của ông bà, nỗi buồn khổ của những cặp vợ chồng già không có con. Chính ông bác của anh cũng trong tâm trạng đó. Hai ông bà ăn ở với nhau gần bốn chục năm rồi mà không con. Càng về già, hai người càng đau khổ và chạy đi khắp nơi để xin một đứa trẻ về làm con nuôi. Thế thì em cứ chịu làm con của hai ông bà đi. Hai người già cần có con để thương yêu, em cần nơi nương tựa về vật chất lẫn tinh thần. Hai bên đều cần nhau, tại sao từ chối?
Tân chầm chậm lắc đầu:
- Muốn như thế thì em phải vào đạo. Đó là điều kiện tiên quyết. Em thực sự quí trọng ông bà ân nhân của em nhưng theo đạo Thiên Chúa thì em không muốn.
- Tại sao vậy? Em nói em chưa có đạo nào kia mà, bây giờ nhận cho mình một tôn giáo thì rất hay. Vả lại, theo ý kiến anh, đạo Thiên Chúa cũng tốt lắm chứ.
- Phải, theo em thì đạo nào cũng tốt và cũng đáng kính trọng và em nghĩ rằng muốn theo bất cứ đạo nào thì trước hết phải có đức tin.
- Cần gì đức tin. Theo đạo mà có lợi thì cứ theo, dại gì mà từ chối.
Tân lắc đầu, giọng cương quyết:
- Không thể được. Bẩm tánh em ghét sự giả dối, nhất là sự giả dối của chính mình. Khi em vào đạo thì chắc chắn em sẽ phải nói với người khác, đặc biệt là với ông linh mục rửa tội cho em, rằng em có đức tin nơi Thiên Chúa, trong khi thực sự em chưa có như thế. Em không thể tha thứ cho sự giả dối để mưu cầu điều lợi cho mình. Ông bà Thái đã ban cho em nhiều ân huệ. Em sẽ tìm cách trả ơn sau nầy, nhưng không thể trả ơn bằng sự giả dối để làm vui lòng ông bà được.
- Bây giờ thì anh hiểu em rồi. Sự thành thật là điều đáng quí nhưng nó có thể làm cho em thiệt thòi và đau khổ trong cái thế gian dẫy đầy giả dối nầy. Chắc chắn, với tính chân thật, em sẽ gặp nhiều điều buồn phiền về sau.
- Hiện tại, em đã gây buồn phiền cho ân nhân của em. Em không muốn sống nhờ cậy ân nhân của em nữa.
Anh Long chăm chú nhìn cậu:
- Em tính đi đâu?
- Em chưa có nơi nào cả.
Long ngồi suy nghĩ một chút rồi nói:
- Em chưa có nghề nghiệp gì thì khó ra sống một mình ngoài đời được. Vả lại, em nên cố gắng đi học vài năm nữa cho thành tài thì tốt hơn. Vậy thì em đến đây ở với anh mà đi học, rồi thủng thẳng, anh tìm việc cho mà làm.
Tân lắc đầu:
- Cám ơn lòng tốt của anh nhưng em nghĩ rằng phải đi cho xa khỏi nơi đây. Ra khỏi nhà ân nhân của em rồi mà sống lẩn quẩn đâu đây thì rất bất tiện.
- Thế, em tính đi đâu? Về Sài gòn được không? Nếu em muốn về Sài gòn thì may ra anh có thể tìm cách giúp em. Anh có vài bạn bè và bà con ở đó.
Tân mừng rỡ:
- Em thích Sài gòn lắm. Đó là thành phố thân yêu của em. Hơn nữa, cách đây vài năm, em đã từng sống tự lập ở đó. Được trở lại đô thành là điều rất vui thích của em; nhưng….
- Nhưng thế nào?
- Em ngại gặp lại những người cũ, những người trước đây cùng chung cơ sở, cùng hoạt động với em.
Long ngước lên nhìn Tân với cặp mắt tròn xoe:
- Em nói sao? Em sợ gặp lại người cũ à?
Anh thở dài và nói tiếp:
- Phải rồi, gặp lại người cũ là điều đáng sợ. Có thể đúng là như thế, nếu em không còn muốn hoạt động nữa.
Tân tò mò:
- Sau khi ra tù, anh có gặp lại các đồng chí cũ của anh không?
Long im lặng không trả lời. Tân ngập ngừng:
- Xin lỗi anh. Em hỏi anh như thế thật là quá tò mò. Tuy nhiên, em biết rằng trước sau gì mình cũng phải đối đầu với vấn đề nầy nên em muốn xin ý kiến của anh. Ngoài anh ra, em còn biết tâm sự với ai?
- Không sao, em đừng ngại. Anh em mình cùng chung hoàn cảnh nên có thể thành thực giải bày tâm sự với nhau. Vài ngày sau khi được trả tự do, tình cờ anh gặp một đồng chí ở ngoài phố. Anh mừng rỡ, tính chạy đến thì đồng chí đó thấy anh, vội vàng lủi mất vào đám đông, nhưng anh cũng kịp nhận ra cặp mắt sợ hãi của anh ta. Tự nhiên, anh đứng chết lặng trên đường phố. Anh vụt nhớ trước đây có người đã kể cho anh nghe rằng, nhiều người ra tù vào chiến khu thì lập tức bị bắt điều tra. Nhiều nơi, người ta đối xử với người ra tù như một tên phản quốc, bị địch mua chuộc rồi mới thả ra để cài vào chiến khu làm gián điệp. Cho đến khi được xác minh là hoàn toàn vô tội, họ phải chịu trăm cay ngàn đắng, sống trong nỗi tủi cực và nhục nhã cho đến đỗi có người không chịu nổi phải tự tử. Lúc đó, anh cũng có tâm trạng nhục nhã như thế. Hoạt động trong lòng địch thì cảnh giác là cần thiết nhưng làm sao chịu đựng nổi sự nghi ngờ khi mình đã cống hiến cả tuổi trẻ, cả cuộc sống của mình cho cách mạng.
- Sau đó, anh có gặp lại họ không?
- Có gặp lại một hai lần nữa. Cũng vẫn thái độ lẫn tránh đó.
- Vậy là cơ sở cũ của anh vẫn còn hay ít nhất những đồng chí cũ của anh vẫn còn tự do trong thành phố nầy, điều đó không đủ chứng minh rằng anh vẫn còn trung thành với cách mạng hay sao?
- Nghi ngờ là bản chất của người cộng sản. Nhiều khi họ nghi ngờ đến cái độ phi lý. Nhưng rồi cuối cùng họ cũng nhận ra sự thực.
- Và họ không tránh né anh nữa.
- Chính họ đến tìm anh và đề nghị anh trở lại với tổ chức.
- Anh có nhận không?
- Anh không nhận mà cũng không từ chối hẳn.
- Thế nghĩa là gì?
- Lúc còn trong tù, anh có ý định khi được tự do sẽ tìm cơ sở cũ để tiếp tục hoạt động. Về đây rồi, anh dò tìm không được vì các đồng chí cũ đã chuyển công tác và thay đổi chỗ ở cả rồi. Cho đến khi tình cờ gặp đồng chí cũ ngoài phố thì họ lẫn tránh như anh đã nói với em. Trong thời gian bị giam cầm, mình luôn nhớ đến đồng chí. Mình về, nếu họ không đi đón rước thì ít ra cũng tỏ sự mừng rỡ khi gặp mặt. Ngược lại họ tránh mình như tránh một tên phản bội. Lòng tự ái bị tổn thương nặng nề, anh rất buồn phiền. Anh bị bắt là do lỗi của các đồng chí. Lúc đó, các đồng chí triệu tập anh đến họp thì thình lình địa điểm họp bị lộ và bị bao vây. Các đồng chí kịp bỏ trốn mà không tìm cách thông báo cho anh. Anh đến và bị tóm ngay tức thì. Anh đã chịu đựng biết bao cuộc tra tấn để cho họ được an toàn. Suốt ba năm anh ở tù, họ chẳng hề liên lạc hay nhắn gởi một câu an ủi nào cho anh để giúp anh củng cố tinh thần. Tuy nhiên, anh vẫn kiên trì, giữ vững lập trường và cuối cùng quyết định ra tù, tìm cách liên lạc trở lại để tiếp tục công tác. Em cũng biết rằng muốn ra khỏi tù thì chỉ có hai con đường. Thứ nhất là vượt ngục. Con đường nầy quá nguy hiểm và nếu thành công thì mất đi tính hợp pháp để có thể trở lại hoạt động địch hậu. Con đường thứ hai là chịu chào cờ và dự lớp học tố cộng. Chắc chắn họ biết điều nầy vì đã có nhiều đồng chí lãnh đạo ra tù bằng cách đó. Ngày bước ra khỏi nhà tù, anh rất phấn khởi nhưng sau khi thấy các đồng chí cố tình xa lánh thì anh rất buồn phiền và cảm thấy bị đối xử hết sức bạc bẽo.
Long dừng lại và cười khì rồi nói tiếp:
- Nếu họ biết tâm trạng nầy của mình thì họ sẽ phê bình là tiểu tư sản. Cái gì mà có tình cảm xen vào là họ cho là tiểu tư sản và bài bác ngay. Sống mà không có tình cảm thì còn ý nghĩa gì nữa.
Nghe anh nói, Tân sực nhớ thời gian cậu vào Đồng tháp mười và được tỉnh đoàn cho về làm ruộng để gột rửa giai cấp tiểu tư sản, cậu cười theo và cướp lời:
- Có một thứ tình cảm có thể chấp nhận được. Đó là tình cảm của giai cấp vô sản.
- Phét! Tình cảm là thứ chung nhất của loài người, làm gì có tình cảm của giai cấp nầy hay giai cấp kia. Có người nhiều tình cảm có người ít hơn. Nhiều hay ít là tùy theo mỗi người chứ không tùy thuộc giai cấp. Bản chất của tình cảm có thể thay đổi theo tuổi tác chứ không phải do giai cấp. Còn thơ ấu thì tình cảm hồn nhiên, lớn lên, tình cảm trở nên lãng mạn và đầy tính lý tưởng. Lúc đã trưởng thành và về già, tình cảm nghiêng về thực dụng. Sự diễn tiến của tình cảm đại khái là như thế, giai cấp chẳng có vai trò gì cả. Người cộng sản phịa ra nhiều thứ để đánh đổ tình cảm của con người, nhằm thúc đẩy người khác dấn thân hoàn toàn cho họ. Anh theo cách mạng là để giành độc lập và thống nhất đất nước chứ anh không ưa lý thuyết có tính ngụy biện của người cộng sản. Ý kiến anh là như thế đó. Em suy nghĩ thế nào?
Tân lắc đầu:
- Em không hiểu rõ vấn đề đó. Nó thuộc về lĩnh vực triết học, có phải không?
Long gật đầu:
- Gần như thế. Anh rất thích triết lý và thích tranh luận trong lĩnh vực nầy.
Anh đưa tay chỉ kệ sách và nói tiếp với vẻ tự mãn:
- Đó là niềm đam mê của anh. Anh đã đậu tú tài triết học, mong muốn đi học văn khoa, nhưng phải đi làm để nuôi ba má anh, nhưng chưa kịp nuôi thì bị bắt cầm tù.
- Anh cho rằng lý thuyết của cộng sản có tính ngụy biện, có nghĩa là anh không tán đồng với lý thuyết đó. Thế tại sao anh vẫn bằng lòng theo đuổi sự hợp tác với những người cộng sản?
- Lúc đầu là do bầu máu nóng của thời trai trẻ, sau đó cứ dấn thân vào như một cái nghiệp của số phận. Có lúc anh tưởng đã có thể dứt bỏ cái nghiệp đó rồi.
- Lúc nào vậy?
- Chỉ mới đây thôi, sau khi ra tù ít lâu, anh kể em nghe rồi. Lúc mới ra khỏi tù, anh mong muốn gặp lại các đồng chí cũ thì họ tránh xa làm cho lòng tự ái và nỗi buồn phiền gặm mòn dần dần ý chí chiến đấu của anh. Sau nhiều ngày sống trong buồn phiền, anh đang bắt đầu lấy lại được sự thăng bằng, nghĩa là bắt đầu yên tâm làm việc kiếm sống để nuôi mình, nuôi cha mẹ già và đang nghĩ đến việc ghi tên học Đại học Văn khoa và không còn nghĩ đến cách mạng nữa. Tuy nhiên, không bao lâu sau, họ lại đến tìm anh. Gặp lại các đồng chí cũ, lập tức sự yên tâm biến mất.
- Anh gặp lại các anh ấy trong trường hợp nào?
- Một đồng chí đến tìm anh tại nhà nầy vào choạng vạng tối, lúc đường phố mới lên đèn.
- Phải rồi. Đó là lúc thuận lợi nhất. Mắt chưa quen với bóng tối nên không nhận rõ mặt người khác và mọi người đang lo bữa ăn tối, ít để ý chung quanh.
Long cười:
- Em đúng là cán bộ nằm vùng. Để anh kể tiếp. Lúc đó cửa nhà anh đang mở, còn cổng thì chỉ khép hờ. Đồng chí đó đẩy cổng bước vào một cách thực tự nhiên. Anh đang ngồi trên bàn kết toán sổ sách vì là ngày cuối tháng, phải mang hồ sơ về nhà làm mới kịp. Đồng chí đó im lặng mỉm cười, cố lấy vẻ tự nhiên, bước vào gọi tên anh. Anh đứng bật dậy, sửng sốt.
- Anh hoảng sợ?
- Không. Lần nầy thì chú đoán sai rồi. Chẳng những không hoảng sợ mà còn thấy hân hoan một cách lạ kỳ. Tâm lý con người có nhiều điều thực phi lý. Anh đã bắt đầu yên tâm với cuộc sống tầm thường như anh đã nói với em. Bỗng nhiên, khi giáp mặt với đồng chí cũ, cuộc sống sôi động đầy nguy hiểm của thời trai trẻ bùng lên dữ dội như một ngọn lửa. Cái lý tưởng cách mạng đã bao nhiêu năm gắn liền với tuổi trẻ của anh và đã theo anh trong suốt thời gian bị giam cầm, tưởng đã tàn lụi trong những tháng vừa qua, thực ra vẫn còn nguyên vẹn trong lòng anh. Rồi em cũng có tâm trạng đó thôi.
Tân lắc đầu, với vẻ mặt không vui:
- Với em thì không. Em đã cố tình giết chết lý tưởng ngay trước khi bị bắt.
Long quay ngoắt lại nhìn sững cậu:
- Em nói sao? Em… em đã đầu hàng?
Tân cười:
- Không. Anh đừng hiểu lầm em như thế. Em không hề đầu hàng hay phản bội gì cả. Nhưng em đã suy nghĩ kỹ, không thể tiếp tục đi theo lý tưởng, đi theo con đường mà lúc nhỏ em đã mê say như anh vậy. Em vẫn nhìn con đường đó với tất cả sự kính phục nhưng em phải rời bỏ nó và đã bằng lòng trả giá cho sự rời bỏ nầy bằng chính sinh mạng hay bằng nhưng năm tù đày. Nhưng thôi, chuyện của em còn dài, em sẽ giải thích cho anh nghe sau. Hôm nay, anh tiếp tục chuyện của anh đi.
- Vâng, anh tin em là người tốt dù em bảo rằng không muốn hoạt động nữa. Em cũng nên xét lại quyết định nầy. Lúc còn trong trại giam, anh thường nghe anh Minh khen em có tư tưởng và lập trường vững. Anh Minh làm sao rõ được những ý nghĩ trong lòng em. Nhưng thôi, chuyện của em thì em tự giải quyết lấy cho mình. Còn bây giờ, anh xem em như là người bạn đáng tin cậy để mà tâm sự. Anh đang chịu đựng một cuộc khủng hoảng về tâm lý nên cần có người ngồi nghe anh nói. Có nói ra được thì mới lấy lại được thăng bằng mà giải quyết cuộc sống của mình cho ổn thỏa.
- Dạ, anh cứ yên tâm. Nói cho em nghe, nhất thiết không có hại gì cho anh cả và qua câu chuyện của anh, em có thể suy nghĩ tốt hơn cho tương lai của mình.
Anh Long cười vui vẻ và hài lòng. Anh nói tiếp:
- Anh trở lại câu chuyện đang kể. Lúc đồng chí cũ của anh bước vào, ba má anh đang nằm nghỉ ở buồng trong. Đồng chí ấy bảo có chuyện riêng nên đề nghị anh ra một quán giải khát ngoài bờ sông. Anh đồng ý; hai anh lựa một quán thực vắng, chẳng có ai khác. Sau hơn một giờ trò chuyện, anh và đồng chí đó chia tay. Đêm đó, anh mất ngủ suốt đêm.
- Hai người có tranh luận với nhau không?
- Chẳng tranh luận gì cả. Anh chỉ ngồi nghe thôi. Đại khái đồng chí đó hỏi thăm sức khoẻ và việc làm ăn sinh sống hiện nay của anh. Sau đó, đồng chí nói dài dòng những điểm khó khăn và thuận lợi của cuộc đấu tranh chính trị hiện nay. Ôi chao, thực là nhàm tai nhưng anh cũng làm như chăm chú nghe. Cuối cùng, đồng chí ấy bảo anh trở lại công tác và sẽ được giới thiệu vào sinh hoạt ở một cơ sở mới vì cơ sở cũ không còn nữa.
- Rồi anh trả lời thế nào?
- Anh không trả lời gì cả và đề nghị cho anh suy nghĩ một thời gian, rồi chia tay ra về. Đúng một tuần lễ sau, đồng chí đó trở lại. Anh vẫn chưa quyết định được. Đồng chí ấy tỏ vẻ sốt ruột, bảo rằng đã liên lạc với cơ sở mới để nhận anh về công tác.
- Tại sao anh không quyết định ngay là chịu hay không chịu để đỡ mất thì giờ cho người ta?
- Chính đó là cái điều làm anh ray rứt đến cùng cực. Nó thường xuyên cắn xé lòng anh. Nó làm cho anh tiều tụy thấy rõ đến nỗi làm cho cha mẹ anh lo lắng. Nó cũng ảnh hưởng đến công việc kế toán của anh làm cho giám đốc cũng phải ngạc nhiên về sự sai sót và bê trễ của anh trong sổ sách và dọa sẽ sa thải anh nếu điều nầy vẫn tiếp tục. Anh bị khủng hoảng thực sự. Công việc kế toán rất cần thiết cho sự sống của anh và của ba má anh.
- Em hiểu rồi. Anh khổ sở vì không thể ngã hẳn về phía từ chối hay chấp nhận. Từ chối có nghĩa là từ bỏ cái lý tưởng mà mình đã thề phụng sự suốt đời. Đó là nỗi đau trong lòng. Em cũng trải qua như thế rồi.
Anh Long quay sang nhìn Tân:
- Cám ơn em. Lời nói đầy sự thông cảm đó thực sự là điều an ủi cho anh. Em cũng đã trải qua điều đó nhưng chắc chắn không nặng nề như anh.
- Vâng đúng vậy, vì em chưa phải là người cộng sản; còn anh, em đoán anh đã là người cộng sản rồi, có phải vậy không?
Anh Long gật đầu. Tân nói tiếp:
- Người cộng sản tự nguyện xiềng mình vào một cái xiềng kỳ lạ. Nó vô hình mà cực kỳ vững chắc, nếu may mắn cởi ra được thì tâm hồn cũng bị tơi tả. Rất nhiều người không đủ sức cởi ra nên cam chịu suốt đời. Họ tự an ủi mình bằng cách từ bỏ sự suy nghĩ để chỉ nhìn vào cái hào nhoáng bên ngoài của nó. Em chỉ mới tiếp xúc với cái xiềng đó thôi nên em rứt ra được, còn anh thì có lẽ đã bị cột chặt lắm rồi. Em xin lỗi anh nếu điều em vừa nói ra đó xúc phạm đến danh dự của anh.
Anh Long sửng sốt:
- Em còn nhỏ mà sao có thể lý luận sâu xa như thế?
Tân thành thực:
- Đó không phải là lý luận của em mà là của người khác có nhiều kinh nghiệm sống hơn em rất xa.
Long gật đầu:
- Đúng, anh đã nhìn thấy vấn đề như thế nhưng chưa bao giờ dám nói ra thành lời. Hôm nay, em nói giúp cho anh rồi đó. Phải, anh đã bị xiềng mất rồi. Anh đã được kết nạp vào đảng, chỉ còn một tháng nữa thì hết thời gian dự bị để trở thành đảng viên chính thức thì bị bắt. Em thấy chưa, cái xiềng vinh quang đã tròng vào cổ anh rồi.
- Đã thế thì anh chấp nhận trở lại với cách mạng đi cho khỏi đau khổ.
- Không được. Anh đã hai mươi tám tuổi, cái tuổi đã quá chín chắn.
- Có phải anh đắn đo vì sợ lại bị bắt, mất việc làm đang nuôi sống anh và hai bác?
- Còn hơn thế nữa. Đây là ý nghĩ sâu xa nhất mà anh chỉ có thể nói với em và anh mong em giữ kín cho anh
- Anh yên âm. Anh hãy tin nơi em.
- Từ khi anh ra khỏi tù, thấy cảnh sống thanh bình, anh dần dần xét lại mục đích của anh em mình theo cách mạng. Em có nhớ mục đích ban đầu của chúng mình và của cả một khối dân tộc không?
- Vâng, em nhớ. Mục đích là lật đổ nền đô hộ của thực dân Pháp, giành độc lập tự chủ.
Long cười:
- Đúng vậy. Cậu học sinh nầy còn thuộc bài khá lắm. Đó là chính nghĩa không còn nghi ngờ gì nữa. Cuộc cách mạng đó đã thành công, người Pháp không còn trên đất nước nầy nữa; ở cả hai miền, chính quyền đều thuộc về người Việt Nam.
Tân cãi lại:
- Nhưng miền Bắc mới thực sự độc lập còn miền Nam bị Mỹ đô hộ. Mỹ thay chân Pháp.
Long đưa tay chận lời:
- Sao em biết miền Bắc thật sự độc lập? Anh cũng chẳng thấy miền Nam lệ thuộc Mỹ chỗ nào. Giữa anh em mình thì nên nói cái điều mình thấy một cách chính xác, đừng nói theo một luận điệu tuyên truyền nào cả. Thế giới đang chia thành hai cực rõ rệt, không ngã theo cực nầy thì phải ngã về cực kia. Miền Nam thì ngã về tư bản, miền Bắc ngã về cộng sản. Đơn giản thế thôi. Cuộc tranh đấu của cách mạng bây giờ không còn là cuộc tranh đấu giành độc lập nữa mà trở thành cuộc đấu tranh để áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên cả hai miền đất nước. Đó là một phần của nổ lực bành trướng của khối xã hội chủ nghĩa theo đường lối cộng sản chủ nghĩa. Em nhớ lại xem, đó đâu phải là cái lý do để anh em mình mang cả tuổi trẻ, mang cả mạng sống của mình để lao vào. Anh đã suy nghĩ điều đó trong nhiều đêm. Thú thực với em là anh bằng lòng cuộc sống hiện tại. Anh ưa thích công việc mình đang làm, vì công việc đó hợp với khả năng của anh và nuôi sống được thân anh cùng cha mẹ anh. Anh cũng đã từng ra khỏi thành phố về miền quê. Thực sự, dân mình đang vui hưởng thái bình. Họ sản xuất trên ruộng, trên vườn, mồ hôi họ đổ ra và họ được hưởng chén cơm, manh áo, mái nhà. Thế thì tiếp tục mang sinh mạng của mình ra hi sinh để hòng được cái gì nữa đây?
- Được chủ nghĩa xã hội.
- Cái chủ nghĩa xã hội đó, anh chỉ nghe nói nó tốt đẹp một cách mơ hồ chứ chưa rõ thực chất nó thế nào. Mình có nên tiếp tục hi sinh cuộc sống của mình cho điều mơ hồ đó hay không?
Tân cướp lời:
- Nếu anh đã nhận xét như thế thì từ chối phắt đề nghị của đồng chí của anh đi chứ còn phân vân gì nữa.
Long lắc đầu:
- Con tim không luôn luôn đồng hành với khối óc. Cái đầu anh nghĩ như thế nhưng trong lòng anh vẫn còn nguyên vẹn tình cảm đối với cách mạng, nhất là đối những người vẫn còn kiên trì hoạt động cho cách mạng. Vì vậy, trước mặt họ, anh không thể nói thẳng ý nghĩ của mình. Anh sợ họ buồn phiền, anh sợ họ nổi giận, anh sợ họ mắng anh là hèn nhát, là bỏ cuộc, là đầu hàng địch nên anh đành phải nín lặng. Sự nín lặng càng làm cho tâm hồn anh u uất hơn. Anh thường rơi vào trạng thái trầm cảm rất đáng sợ cho đến nỗi có lúc anh đã nghĩ đến chuyện tự tử, uống thuốc độc, treo cổ lên cành cây, nhảy xuống giữa dòng sông Đồng nai cho xong chuyện.
Long ngừng nói, thở dài. Tiếng thở dài làm cho Tân rùng mình, nghe rờn rợn trong xương sống. Cậu hỏi với giọng ngập ngừng:
- Những người đó còn tiếp tục đến với anh nữa không?
- Trước sau, chỉ có một đồng chí duy nhất đến mà thôi. Đồng chí đó mới bị bắt cách nay hơn nửa tháng. Gia đình có đến cho anh hay vì tưởng anh còn liên hệ công tác. Anh hơi sợ và rất buồn. Anh có gởi một ít tiền để gia đình mua đồ thăm nuôi cho đồng chí đó. Chuyện của anh là như thế, không biết đã đến hồi kết thúc hay chưa. Còn về phần em thì em tính thế nào?
- Em đã trình bày cho anh nghe rồi. Từ khi được trả tự do, em về đây, chẳng tiếp xúc với ai. Em cũng chẳng có bà con nào cả nên có lẽ các đồng chí cũ cũng chưa biết em đã ra khỏi tù. Bây giờ, em rất muốn về Sài gòn tiếp tục sự học.
- Em có nghĩ đến chuyện gặp lại các đồng chí cũ của em không? Anh đoán thế nào họ cũng sẽ đến tìm em để lôi kéo em trở lại công tác. Cách mạng đang rất cần cán bộ nằm vùng hợp pháp và đã được trui rèn như em.
- Có, em có nghĩ đến điều đó và em sẽ từ chối thẳng thừng và dành tất cả thì giờ cho việc học chứ không tự làm khổ như anh.
- Đúng. Anh tự làm khổ mình. Anh có gặp vài người quen cũng ở tù ra như anh. Họ ngưng hoạt động luôn, nhiều người đi làm công chức. Anh thấy họ nhắc lại chuyện cũ một cách rất thản nhiên. Em còn trẻ cứ thản nhiên mà đi học, không nên quá ưu tư như anh. Về Sài gòn, em đã định được chỗ ở và cách sinh sống chưa?
Tân lắc đầu:
- Chưa, em chưa có cách nào cả. Em đang lo lắng về điều đó.
Long gật gù:
- Anh sẽ nhờ bà con và người quen tìm cách giúp đỡ em. Có lẽ cũng không khó lắm đâu.
Tân không thể kìm hãm được sự hân hoan của mình:
- Cám ơn anh. Gặp được anh quả là điều vô cùng may mắn cho em.


*
* *


Thế là Tân trở lại Sài gòn. Hôm từ giã, bà Thái khóc làm Tân cảm động rơm rớm nước mắt. Bà nhớ lại những lần cậu sửa giúp bà cái chuồng heo, đóng lại cái chuồng gà. Bà nhớ những buổi chiều, dưới bếp nhìn lên, thấy Tân cắm cúi trên bàn học, lòng bà thực ấm áp. Hôm nay, cậu đi rồi, chắc khó có ngày trở lại sống chung, gian nhà lại trống vắng, suốt ngày chỉ một mình bà đi vào rồi lại đi ra. Ông Thái cố giữ vẻ bình tĩnh, dặn dò, khuyên nhủ cậu như người cha nói với đứa con trai trước giờ du học.
Về đô thành, cậu được một người bạn của anh Long cho đến trú ngụ trong một nhà kho bỏ trống ở Chợ lớn. Người bạn nầy cũng xin được cho cậu làm việc trong một tiệm ăn nho nhỏ của người Tàu. Cậu làm buổi chiều và buổi tối, còn buổi sáng thì dành cho việc học trong những ngày sắp tới. Công việc trong tiệm khá dễ dàng: bưng thức ăn, nước uống cho khách, nhận tiền đưa đến quầy giao cho ông chủ. Mười một giờ, tiệm ăn đóng cửa, cậu lo dọn dẹp và về chỗ ngủ vào lúc nửa đêm.
Tiệm ăn có tên là Lương Ký, đó cũng là tên gọi ông chủ. Ông gốc ở tỉnh Quảng Đông bên Tàu. Tiệm là một căn phố lầu. Ở tầng dưới, phòng phía trước khá rộng có mươi bộ bàn ghế dành cho khách, phía sau là nhà bếp với hai người chuyên nấu ăn. Ông chủ cùng vợ con sống trên lầu, cầu thang thông xuống bếp, từ đó có thể ra ngoài bằng một cánh cửa mở ra con hẻm nhỏ. Tân làm công việc tiếp khách cùng một thanh niên khác.
Với món tiền lương mà ông chủ hứa lúc mới vào, Tân nhẩm tính quá đủ cho sự sống của cậu. Hai bữa ăn chính được dùng miễn phí tại tiệm, cậu chỉ phải lo cho bữa điểm sáng đạm bạc, sắm áo quần và chuẩn bị học phí cho năm học sắp tới. Theo lời những người làm công trong tiệm, sau một tháng làm việc mới được lãnh lương. Cậu hiểu rằng đó là thông lệ ở mọi nơi và cũng không phải lo lắng vì trong tháng đầu tiên nầy, cậu có sẵn một món tiền kha khá do ông bà Thái và anh Long tặng lúc ra đi.
Ngày làm việc đầu tiên, cậu bỡ ngỡ nhưng rồi làm quen nhanh chóng với môi trường mới. Ông chủ ngồi sau quầy kín đáo theo dõi sự đối xử của cậu với khách vào ăn uống và thường gật gù với vẻ hài lòng.
Vào ngày thứ ba, kể từ khi đến làm việc, cậu được ông chủ gọi đến quầy khi tiệm đã vắng khách và chuẩn bị đóng cửa để dọn dẹp. Ông trao cho cậu một món tiền và nói:
- Nè tiền lương một tháng của nị đây.
Tân ngạc nhiên:
- Thưa ông chủ, tôi mới vào làm việc được có ba ngày. Mọi người đều lãnh lương vào cuối tháng mà.
- Phải rồi, phải rồi. Ai cũng lãnh lương cuối tháng hết. Nhưng riêng nị thì tháng nầy ngộ phát đầu tháng để nị có tiền mà sống. Ở cái đất Chợ lớn nầy, không có tiền không sống được.
- Nhưng tôi có một ít tiền đủ để tiêu xài trong tháng nầy rồi.
- À à, cái thằng nhỏ nầy kỳ quá há. Ai cũng thích lãnh lương sớm. Còn nị thì phát sớm không muốn nhận. Lấy bỏ túi đi.
Ông Lương Ký nhét xấp tiền vào tay Tân rồi nói tiếp:
- Nị vào làm việc ba ngày rồi và ngộ thấy nị làm việc được. Nhưng muốn làm với ngộ lâu dài thì nị phải nghe ngộ nói điều nầy. Ngộ biết nị mồ côi cha mẹ, không có anh em bà con. Bạn ngộ nó nói như thế. Ngộ tội nghiệp cho nị. Nó cũng nói cho ngộ biết nị mới ở tù ra. Ở tù chính trị vì tội theo cộng sản phải không? Phải rồi. Còn nhỏ thì thích cộng sản vì cộng sản hứa làm cho xã hội công bình và tốt đẹp. Lúc còn trẻ, ngộ cũng thích cộng sản lắm, nhưng khi Mao xê tông chiếm hết lục địa rồi, ngộ sống với cộng sản được hơn một năm thì chịu không nổi phải bỏ hết nhà cửa, của cải trốn qua Hà nội. Mấy năm sau, cộng sản lấy Hà nội, ngộ lại bỏ hết nhà cửa, của cải một lần nữa để đem gia đình vô Chợ lớn nầy. Nếu cộng sản vô đây nữa thì chắc ngộ nhảy xuống biển mà chết chớ đâu còn sức mà chạy trốn nữa. Nị còn nhỏ, ngộ phải nói rõ hoàn cảnh của ngộ cho nị rõ. Người lớn tuổi phải nói kinh nghiệm cho người nhỏ biết để mà sống cho tốt. Ngộ khuyên nị đừng theo cộng sản nữa. Họ chỉ tốt trên bề mặt, nghĩa là về lý thuyết mà thôi. Về cái bên trong, nghĩa là cái bản chất của họ thì xấu lắm, không sống được với họ đâu. Nếu sống được thì ngộ đâu có phải bỏ quê hương xứ sở mà chạy qua tới đây.
Ông dừng lại một chút để hút thuốc rồi nói tiếp:
- Thằng bạn của ngộ nói rằng nị rất đáng thương, mồ côi không ai nuôi, đi tù về và bây giờ muốn đi học lại cho thành tài. Nó bảo ngộ giúp cho nị công việc để sinh sống. Ngộ nhận lời để nị có thể đi học lại. Ngộ có cảm tình với người có chí học hành. Lúc còn nhỏ, ngộ cũng ham học lắm nhưng phải bỏ học vì bên Tàu lúc đó hết sức lộn xộn. Kháng chiến chống Nhật xong rồi thì quốc gia với cộng sản quay sang đánh nhau còn hung bạo hơn đánh với kẻ thù bên ngoài nữa. Ngộ có cảm tình với nị nhưng nếu nị còn theo cộng sản thì ngộ không có cảm tình nữa. Ngộ sợ cộng sản nên phải bỏ quê hương qua tới đây. Ngộ muốn sống ở miền Nam Việt Nam cho tới già, tới chết. Ngộ thích chính phủ cộng hòa vì chính phủ nầy cương quyết chống lại cộng sản. Ngày nay, dính dấp với cộng sản là nguy lắm. Vì vậy, ngộ phải nói thiệt với nị một điều, nị đừng giận. Tính ngộ xưa nay là ngay thẳng, không giả dối. Nếu nị muốn tiếp tục làm việc với ngộ để có tiền đi học thì không được hoạt động cho cộng sản. Nếu không từ bỏ được cộng sản thì nị không nên tiếp tục công việc ở đây, tội nghiệp cho gia đình ngộ. Đó, ngộ nói thiệt cho nị rồi đó, nị suy nghĩ cho kỹ. Còn món tiền lương nầy, nị cứ nhận đi. Nếu nị cần thêm tiền để mua sắm sách vở, áo quần thì nói với ngộ giúp đỡ cho. À, mà nị có xe đạp để đi học chưa?
- Cám ơn ông chủ, tôi có rồi. Tôi cất trong nhà kho nơi tôi ở tạm. Bên đó qua đây gần nên tôi đi bộ.
- Ngộ biết cái chỗ ở của nị rồi, bạn ngộ có nói. Đó là nhà kho để trống của hãng xuất nhập khẩu Thái Phong. Ở đó hơi nóng nực nhưng yên tĩnh để học bài. Khi nào người ta lấy lại cái chỗ đó để chứa hàng thì nói cho ngộ biết, ngộ sẽ tìm chỗ khác cho nị ở.
- Cám ơn ông chủ.
- Được rồi, nị về nghỉ đi, mai tới làm việc.
Tân đứng dậy và quay lại thì thấy tiệm ăn đã được dọn dẹp sạch sẽ trong lúc cậu ngồi nói chuyện với ông Lương Ký. Mọi người làm công đã về. Cánh cửa còn hé mở, cậu lách mình ra ngoài.
Gió khuya thổi lành lạnh. Chợ lớn nổi tiếng là thành phố sống về đêm nhưng giờ nầy cũng bớt nhộn nhịp. Vài người về khuya, uể oải đạp xe trên đường phố. Thỉnh thoảng một chiếc ô tô phóng nhanh qua, hai bóng đèn đỏ sau xe xa dần rồi biến mất sau một khúc quanh.
Tân bước chậm rãi trên lề đường rộng rãi và sạch sẽ vì vừa mới được người phu công chánh quét xong. Cậu hít một hơi cho không khí vào đầy lồng ngực, nhìn dọc suốt hai dãy phố kéo dài như bất tận, bỗng nghe trong lòng dâng lên một niềm mến thương đối với thành phố về đêm nầy. Cậu đưa tay áp vào túi quần, vui thích vì cái vật cồm cộm đang cọ nhẹ vào đùi. Đó là món tiền lương mà cậu vừa nhận được. Cậu nghe lòng vui rộn rã. Cậu biết mình vừa bước qua một khúc quanh của cuộc sống, món tiền trong túi chứng minh rằng cậu đang tìm lại được những ngày sống tự lập. Con đường trước mặt có vẻ êm đềm, phẳng lặng chứ không đầy sóng gió và bất ổn như cuộc sống tự lập trước đây.
Cậu nhớ lại quảng thời gian còn là cán bộ nằm vùng, còn lặn ngụp trong lý tưởng đấu tranh cách mạng, cậu không dám mơ ước một cuộc sống êm đềm và phẳng lặng thế nầy. Cán bộ luôn luôn được nhắc nhở phải đề phòng tư tưởng cầu an hưởng lạc. Phải tránh xa tư tưởng tai hại nầy như tránh xa trái cấm. Giờ nầy, cậu đang cầm trái cấm đó trong tay, nhâm nhi và cảm thấy nó ngọt ngào làm sao.
Tân về đến chỗ ở, chui vào nhà kho và khóa cửa lại. Đèn đường xuyên qua những ô thông gió trên cao của hai bên vách rọi ánh sáng lờ mờ vào bên trong. Cậu không mở đèn, lần mò đến chỗ ngủ ở cuối kho, buông mình trên sạp gỗ và đánh một giấc ngon lành đến sáng.
Tiếng còi xe inh ỏi bên ngoài làm cậu thức giấc. Trời đã sáng tỏ, Tân nằm thẳng khoan khoái nhìn mạng nhện giăng đầy bên dưới mái ngói. Xấp tiền mà cậu nhét vội dưới gối khi mới nằm xuống ngủ vẫn có đó. Nó nổi lên cồm cộm dưới đầu. Cậu nhỏm dậy đếm. Đúng nguyên một tháng lương mà ông chủ đã hứa trong lần gặp mặt đầu tiên. Vài ngày trước đây, cậu dự trù nhận món tiền lương nầy vào cuối tháng và sau đó đi tìm một trường tư để ghi tên nhập học. Bây giờ có được tiền rồi, cậu có thể xúc tiến việc học ngay vì tất cả trường tư đều đã khai giảng.
Nửa giờ sau, Tân dẫn xe ra đường và phóng nhanh trên đường phố đã bắt đầu đông đúc. Cậu dừng lại trước cổng trường Pétrus-Ký và đứng ngẩn ngơ nhìn vào; bao nhiêu kỷ niệm đẹp của những năm đầu trung học ào ào trở lại trong đầu. Cậu quay lại nhìn chỗ làm sân đá banh ngày xưa, bật cười khi nhớ lại cái cặp mang tài liệu mật bị bạn cầm nhầm. Bây giờ cái sân banh của thời ấu đó không còn nữa, miếng đất trống đã bị rào lại kỹ lưỡng và trở thanh khu doanh trại của cảnh sát công an. Cậu thở dài buồn bã. Thành phố đã có nhiều thay đổi, nhắc nhở cho cậu biết rằng tuổi thơ đã qua rồi mà cậu chưa kịp thưởng thức đầy đủ hương vị ngọt ngào của nó.
Cậu nhìn trở lại bên kia đường. Đang là tháng nghỉ hè, ngôi trường cổ kính im lìm như một cụ già ngủ gà ngủ gật đợi ngày khai trường, đàn con trẻ nghịch ngợm mà dễ thương đến la hét đùa giỡn, đánh thức cụ dậy sau ba tháng hè vắng vẻ.
Sát cổng trường, trên bức tường vôi trắng có một bảng thông cáo, phía trước có vài người đứng xem. Tò mò, Tân bước qua đường đến đám người lố nhố đó, chen vào để đọc. Thông cáo cho biết trong năm học sắp tới, nhà trường nhận thêm một số học sinh vừa đậu tú tài phần thứ nhất vào học năm cuối cùng của bậc trung học.
Cậu mừng rỡ, vội vã đạp xe trở về và ngay sáng hôm sau mang đơn và hồ sơ đến để nạp. Vài ngày sau, cậu trở lại và biết đơn mình đã được nhà trường chấp thuận. Cậu vô cùng vui sướng. Chỉ còn một tháng rưỡi nữa, cậu sẽ được trở lại ngồi vào lớp học của ngôi trường thân yêu thời thơ ấu.
Tân đạp xe về trung tâm thành phố, dùng hơn phân nửa số tiền lương vừa mới lãnh để mua một chồng sách giáo khoa mang về phòng. Kể từ hôm đó, mỗi ngày cậu cắm cúi tự học hết buổi sáng cho đến trưa mới xếp sách tới tiệm Lương Ký và làm việc đến nửa đêm.
Thấm thoát đến ngày cuối tháng, khi dọn dẹp xong xuôi, mọi người đến quầy để lãnh lương. Riêng Tân không hề quan tâm, vẫn cắm cúi làm việc vì cậu đã lãnh trước từ đầu tháng. Cậu đứng dậy nhìn quanh, thấy mọi thứ đều đã sạch sẽ ngăn nắp nên sửa soạn ra về.
Bỗng có tiếng gọi to của ông Lương Ký:
- Tân.
Cậu giật mình quay lại. Ông Lương đếm xong xấp giấy bạc trong tay, ngẩng lên nói:
- Tân, nị lại đây lãnh tiền.
Tân ngạc nhiên:
- Tôi đã lãnh xong hôm đầu tháng, ông quên rồi sao?
Ông Lương cười hềnh hệch:
- Chuyện tiền bạc phải nhớ chớ, quên là sập tiệm chớ có đâu buôn bán đến ngày hôm nay. Đúng là tháng nầy nị lãnh lương rồi. Lãnh từ đầu tháng, bữa nay xài hết rồi phải không? Một tháng nữa mới lãnh lương, nị lấy gì mà sống? Đây, ngộ phát thêm cho nị một ít tiền để tiêu đến cuối tháng. Số tiền nầy là ngộ cho nị, ngộ thưởng cho nị, còn tiền lương thì cuối tháng lãnh như những người khác. Ông trao xấp tiền cho Tân và nói tiếp:
- Nị cầm tiền nầy để mua sắm, chuẩn bị đi học. Nị có nói với ngộ là còn một tháng nữa nhà trường bắt đầu khai giảng phải không? Lúc đó thì nị đi học buổi sáng, buổi chiều làm việc cho ngộ đến tám giờ tối rồi về nhà kho mà học bài. Từ tám giờ trở đi, ở đây ít khách, ngộ cho phép nị nghỉ sớm.
Tân cảm động:
- Cám ơn ông chủ. Ông chủ rất tốt đối với tôi.
- Nị không phải cám ơn. Tính ngộ thích giúp cho người nghèo. Hồi xưa cha của ngộ bên Tàu dạy ngộ như vậy. Ngộ giúp cho người nghèo là làm vui lòng linh hồn cha của ngộ. À mà nị sẽ học trường nào. Hôm trước nị nói mà ngộ nghe không rõ.
- Dạ tôi xin được vào trường Pétrus-Ký.
- Hầy, trường đó tốt lắm, ngộ biết mà. Nhiều người học trường đó trở thành người có tài. Nhưng trường có cũng nổi danh vì học sinh bị cộng sản xúi dục làm loạn. Nị vô đó học thì đừng để bị lôi kéo. Cộng sản thường để ý đến người nghèo như nị. Họ nói thương người nghèo nhưng đó là nói láo. Họ không thương mà chỉ lợi dụng người nghèo thôi. Người nghèo thì dễ bị khích động, dễ mang oán hận đối với xã hội. Người nghèo cũng dễ bị xúi dục để trở thành liều lĩnh. Chính một ông tổ cộng sản đã có nói: “Vô sản mà đấu tranh thì đấu tranh đến cùng vì họ chẳng còn gì để mất”. Người nghèo không còn gì để mất nên thích cộng sản. Người có tiền còn thứ để mất nên không ưa cộng sản.
Ông hạ thấp giọng như tự nói với mình:
- Gia đình ngộ là nạn nhân của cộng sản. Cha của ngộ không chịu trốn sang Việt Nam với ngộ. Ông ở lại bên Tàu và bị lính của Mao đấu tố chết rồi. Họ giết vì ông là người có học, có liêm sĩ, không chịu lòn cúi, hoan hô hành động tàn ác của họ. Ngày nào cộng sản còn tồn tại thì ngày đó nhân loại còn đau khổ.
Ông ngước lên nhìn Tân một cách hiền lành:
- Thôi nị về nhà nghỉ đi. Nghe ngộ nói hoài về cộng sản có chán không? Chán nhưng mà cũng có lợi vì hiểu rõ cộng sản thì nị mới tránh được nguy cơ bị nó lợi dụng. Nị còn trẻ, tương lai nị còn dài. Ngộ muốn nị chịu khó nghe ngộ nói mà suy nghĩ. Có lợi cho nị mà cũng có lợi cho ngộ nữa. Nị có biết tại sao có lợi cho ngộ không?
Thấy Tân lắc đầu, ông giải thích:
- Mỗi lần nhớ đến cha ngộ bị Trung cộng giết thì ngộ đau đớn lắm, chỉ muốn buông tay, chẳng còn ham thích làm ăn gì nữa. Nếu nói được điều nầy với ai để họ căm ghét cộng sản với ngộ thì ngộ cũng thấy nhẹ bớt trong lòng, ngộ lại vui vẻ làm ăn trở lại. Nị thấy chưa? Nị cám ơn ngộ, ngộ cũng cám ơn nị nữa chớ.
Tân bỏ tiền vào túi. Nhìn lại chỉ còn một mình cậu trong phòng mà thôi. Những người khác đã bỏ về tự lúc nào. Cậu ra ngoài rảo bước trên đường phố khuya và cười một mình. Hai lần nhận tiền, hai lần phải ngồi nghe ông Lương mắng chửi cộng sản. Ông Lương bảo rằng đây là món tiền thưởng cho cậu. Tân không biết là thưởng công việc hàng ngày hay thưởng công cậu chịu khó ngồi nghe ông tố cộng.

Thấm thoát đã đến ngày khai trường. Cậu rất xúc động trong ngày đầu tiên trở lại trường xưa. Khung cảnh không có gì thay đổi. Giữa hai dãy lầu gồm nhiều phòng học, vẫn là chiếc sân với cây kiểng cắt tỉa gọn gàng, pho tượng đồng đen Trương Vĩnh Ký vẫn đứng uy nghiêm, dãi dầu sương gió. Pho tượng nầy là hình ảnh bất diệt trong lòng biết bao thế hệ học sinh đã đến đây trau dồi trí tuệ.
Tân học hành thực chăm chỉ, ngay tháng đầu tiên cậu đã là học sinh giỏi nhất lớp.
Thời gian êm đềm trôi qua. Những cơn gió mát lạnh từ phương bắc thổi về báo hiệu một năm sắp tàn. Ông Lương ký cho biết, nhân dịp Tết cổ truyền, tiệm ăn sẽ nghỉ bán trong bốn ngày. Cậu dự định, trong tất cả những ngày nghỉ đó, cậu sẽ về ở nhà ông bà Thái, ân nhân của cậu. Mấy tháng rồi sống tại Sài gòn, cậu không có thì giờ rảnh rỗi trở lại thăm ông bà nhưng thỉnh thoảng cậu vẫn có viết thư về.
Trong một lá thư, ông bà báo cho cậu hay rằng sau Tết ông bà sẽ dời lên ở Bảo lộc, nơi đó có một người bà con đang sinh sống. Ông sẽ làm việc tại nhà thương của quận. Số tiền dành dụm và tiền bán khu vườn ở đây sẽ dùng mua một sở đất tại Bảo lộc để lâp một vườn trà. Trong vài năm, huê lợi của vườn trà cộng thêm tiền lương hưu giúp cho hai ông bà vui hưởng tuổi già.
Sáng ba mươi Tết, cậu về nhà ông bà với nhiều quà trên tay. Hai ông bà hết sức mừng rỡ khi cậu bước vào nhà. Hai người già đáng thương đó đã chờ đợi cậu nhiều ngày trước đó.
Ngay buổi chiều, Tân đến thăm anh Long. Anh vui vẻ thoải mái, tâm lý có vẻ được ổn định. Anh vẫn còn đi làm chỗ cũ, đang sửa soạn nhà cửa, qua Tết sẽ cưới vợ. Anh hỏi thăm việc sinh sống, việc học hành của Tân. Anh căn dặn Tân phải thu xếp để về dự lễ cưới của anh.
Nghe anh nói sắp cưới vợ, Tân đảo mắt nhìn quanh phòng. Quả thực trông gọn gàng, sạch sẽ hơn trước đây nhiều. Vách tường đã được quét lớp vôi xanh trông mát mắt. Sách trên kệ được xếp lại ngay ngắn. Tân để ý đến một cán viết trắng muốt rất xinh. Cậu đến kệ sách cầm lên ngắm nghía và hỏi:
- Cán viết nầy bằng ngà voi phải không anh? Quí lắm đây.
Anh Long cười:
- Chú không nhận ra à. Không phải bằng ngà voi mà bằng xương bò.
- À, em nhớ rồi, xương bò nhặt ở dưới bếp trong nhà tù Tân hiệp. Dạo đó anh em chia nhau những miếng xương, gò lưng ra mà mài suốt ngày làm nên những vật kỷ niệm xinh xinh gởi về tặng cho những người thân trong gia đình. Thỉnh thoảng lại gặp một thứ gì làm nhớ lại khoảng thời gian bị giam cầm đó, bao giờ cũng thấy buồn và xót xa cho thân phận người tù. À, anh có nhớ anh Quý nằm gần em lúc đó không?
- Có phải anh Quý vượt ngục bằng cách đào lỗ thông ở đáy giếng không?
- Đúng rồi. Anh ấy cũng dùng xương bò mài làm một món đồ chơi để gởi về cho đứa con bốn tuổi. Không ngờ đứa bé không bao giờ nhận được món đồ chơi mà cha nó đã bỏ ra hàng tuần để làm nên.
- Anh nhớ rồi. Thằng bé bị bệnh thương hàn chết. Hình như Quý đau đớn quá, đã nặng lời trách móc vợ nên sau đó cô ấy bỏ đi mất, không trở lại thăm chồng nữa, phải không?
- Dạ phải. Có lẽ vì vậy anh Quý không thể kiên nhẫn chờ đợi ngày được trả tự do nên đã vượt ngục ra ngoài, không biết có thoát được hay không?
- Trường hợp của Quý thì anh không rõ, nhưng anh biết chắc trong số những anh em đã vượt ngục tập thể vào cuối năm 1956 thì rất nhiều người bị bắt, có người bị đưa trở lại ngay cái chỗ mà mình đã từ giã ra đi.
- Tức là khám Tân hiệp?
Anh Long cười:
- Đúng vậy, nơi anh em mình đã từng bị giam cầm trong nhiều năm.
- Có bao giờ anh trở lại đó không?
Anh Long cười to:
- Em bảo trở lại làm gì? Nhưng thỉnh thoảng đi Hố nai, ngang qua đó, anh vẫn nhìn vào, thấy có ít nhiều thay đổi. Các dãy phòng giam vẫn chỗ cũ nhưng vách ván đã được thay bằng vách tường kiên cố hơn. Anh thấy bây giờ trong đó có ít người hơn lúc trước. Chính quyền mạnh nên các hoạt động của cách mạng suy sút, số người bị bắt cũng giảm đi. Ở thành phố bây giờ rất nhiều cán bộ không trụ lại được nên một số phải rút về nhà quê.
- Nhưng ở nhà quê thì cũng có chính quyền chứ, cán bộ làm sao mà sống mà hoạt động được.
- Họ sống nhờ các hầm bí mật. Ban ngày trốn trong đó, ban đêm mò ra đi kiếm lương thực và đi tuyên truyền.
Tân có vẻ băn khoăn:
- Bây giờ thì người ta tuyên truyền điều gì với dân chúng? Em biết trước đây, cách mạng hô hào đuổi thực dân Pháp, sau hiệp định Genève thì hô hào đứng lên bảo vệ hòa bình. Bây giờ Pháp chẳng còn, chiến tranh cũng chấm dứt thì người ta lấy lý do gì để hô hào dân chúng nữa.
- Hô hào chống Mỹ.
- Nhưng có ai thấy người Mỹ nào trên đường phố và ở đồng quê đâu? Không lẽ hô hào chống lại việc Mỹ viện trợ và đưa chuyên viên qua giúp tái thiết miền Nam. Ở ngoài Bắc, có lẽ Liên xô cũng đang làm công việc đó chứ.
Anh Long cười và nói với giọng hóm hỉnh:
- Nếu chuyện gì xảy ra rõ ràng trước mắt, ai cũng trông thấy được thì chẳng cần phải tuyên truyền. Cái điều không có thực mà nói làm sao cho người ta tin rằng có thực; cái điều có thực mà làm cho người ta phải nghi ngờ. Đó mới thực là đỉnh cao của tuyên truyền. Cái tài của đảng là chỗ đó.
Tân lộ vẻ bực tức:
- Em thấy rõ ràng cách mạng không bằng lòng khi thấy dân chúng miền Nam được hưởng thái bình, được tự do sản xuất nên có cuộc sống hạnh phúc và sung túc hơn thời còn chiến tranh. Cách mạng luôn luôn rêu rao mục tiêu đem no ấm và hạnh phúc đến cho dân nhưng khi thấy dân thực sự no ấm thì cách mạng lại tìm cách quấy phá. Sau nhiều năm chiến tranh, bây giờ nhân dân miền Nam đang hưởng thanh bình nhưng cách mạng đâu có hài lòng.
Anh Long ngồi im lặng, không tán đồng cũng không phản đối. Giọng Tân trở nên có chút gì đó hằn học:
- Em hiểu rồi. Cách mạng phải tìm cách chấm dứt cảnh thanh bình nầy. Thanh bình thì dân chúng và cả cán bộ nữa dễ nhiễm lấy tư tưởng cầu an hưởng lạc, xa rời mục tiêu giải phóng của cuộc cách mạng vô sản do Đệ Tam Quốc tế chủ trương. Miền Nam mà thanh bình thì chính quyền làm được nhiều điều hay cho dân chúng, và dần dần lấy lại được lòng dân. Vì vậy, dù phải trốn chui trốn nhủi suốt ngày dưới hầm bí mật và chờ tối bò lên hoạt động như con thú rừng, họ cũng vẫn cứ kiên trì phá cho được cảnh thanh bình ở miền Nam nầy.
Anh Long lắc đầu thở dài:
- Rất tiếc, con đường cách mạng đang diễn ra đúng như lời em vừa nói. Đã gọi là cách mạng vô sản thì không loại trừ biện pháp nào có lợi cho cách mạng. Mỗi người có lý tưởng riêng, khó mà phê phán nhau được. Người thì có lý tưởng mang lại ấm no và cuộc sống thanh bình cho dân chúng; kẻ thì bảo rằng phải nhắm mục đích xa hơn, hướng đến một thế giới đại đồng chẳng hạn. Thế là họ vẫn kiên trì tranh đấu.
Tân cũng thở dài, giọng không còn hằn học nữa:
- Dù sao, họ cũng là những người đáng nể. Không kể mục tiêu của họ là đúng hay sai, riêng về lòng kiên trì, chịu đựng gian khổ của họ thì cả nhân loại đều phải bái phục. Liệu họ có trốn tránh mãi được với sự truy lùng gắt gao của các cơ quan an ninh của miền Nam hay không?
- Anh nghe nói cách mạng sắp chuyển qua giai đoạn mới bằng cách thiết lập lại các mật khu. Ở vài nơi, người ta đã kêu gọi tập hợp lại các thành phần quân sự cũ và bắt đầu thành lập các tiểu đội dân quân du kích.
- Có nghĩa là chiến tranh có thể trở lại trên đất nước nầy phải không?
- Theo anh thì rất có thể.


*
* *


Sau bốn ngày nghỉ Tết, Tân trở lại Sài gòn tiếp tục cuộc sống êm đềm, buổi sáng đi học, buổi chiều về làm việc ở tiệm ăn Lương Ký, với lương tiền đủ sống mà còn dư chút ít để dành dụm.
Năm học kết thúc, một tuần lễ nữa là Tân qua kỳ thi cuối cùng của bậc trung học. Cậu chỉ còn làm việc chiều và tối nay nữa thôi rồi được phép của ông Lương Ký nghỉ cho đến khi thi xong. Hôm nay là ngày chúa nhật nên tiệm rất đông khách, Tân phải làm việc liên tục. Chưa kịp bưng thức ăn cho bàn nầy thì ở bàn kia khách gọi tính tiền, vừa lau xong bàn trong thì ở bàn ngoài khách đã vẫy gọi.
Cậu đi len lỏi qua những bàn đầy khách, bỗng sửng sốt dừng lại. Ở ngoài cùng có hai người khách vừa vào, ngồi xuống hai chiếc ghế còn để trống. Cậu buộc miệng kêu lên khe khẽ:
- Trời đất, anh Đảnh.
Đúng vậy, một trong hai người khách chính là Đảnh, đồng chí cũ của cậu. Đảnh cũng sửng sốt khi nhận ra cậu nhưng anh vội quay sang nói chuyện với người đi chung. Tân biết ý vội bưng đĩa thức ăn đến một bàn ở sát vách. Cậu tiếp tục loay hoay với công việc nhưng vẫn nhìn chừng bàn ngoài cùng. Hai người chỉ uống nước, trả tiền xong, bước ra cửa. Độ mười lăm phút sau, Đảnh trở lại một mình. Anh đứng bên ngoài đưa tay ngoắt gọi Tân. Cậu hồi hộp bước ra, Đảnh siết chặt tay cậu, nói nhỏ:
- Tôi cần nói chuyện với anh.
- Vâng.
- Bây giờ được không?
Tân nhìn vào tiệm đang đông khách, lắc đầu:
- Không được; hôm nay, tôi làm việc đến mười hai giờ khuya. Bây giờ khách đang đông, không thể bỏ đi được.
Thấy vẻ thất vọng của Đảnh, Tân bảo:
- Nhưng nếu cần lắm thì tôi có thể xin nghỉ sớm.
- Mấy giờ?
- Độ chín giờ.
- Được rồi, tôi trở lại đây lúc chín giờ đêm.
Nói xong, Đảnh quay đi. Tân nhận thấy Đảnh lớn và già dặn hơn nhưng không thay đổi nhiều so với bốn năm về trước. Vẫn dáng người gầy gầy, lối đi nhanh nhẹn, lời nói rõ ràng ngắn gọn, đầy tính thuyết phục.
Tân bước đến quầy xin ông Lương hôm nay cho về sớm và được chấp thuận ngay. Cậu tiếp tục làm việc và thỉnh thoảng liếc nhìn đồng hồ treo tường. Khi kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ, cậu vào bếp rửa tay và bước ra ngoài. Cậu thấy từ xa, Đảnh đang đạp xe đến và hai người gặp nhau bên vệ đường. Đảnh chống xe và quay lại ôm chầm lấy cậu một cách thân mật:
- Anh về lâu chưa?
Tân trả lời:
- Hơn một năm rồi.
- Vậy à. Khá lâu rồi nhỉ. Tôi vào lánh trong khu an toàn gần ba năm nay nên tôi không hay biết gì cả. Anh có liên lạc được với nơi nào chưa?
Tân lắc đầu. Đảnh tiếp tục một cách vồn vã:
- Đúng rồi, cơ sở cũ vỡ hết rồi, chẳng còn mấy ai ở Sài gòn nữa.
- Thầy Thi?
- Đồng chí Thi bị bắt sau anh khoảng một năm, bị tra tấn ghê gớm ở Catinat rồi bị đày ra Côn đảo và chết ngoài đó. Đồng chí Thi thể chất yếu đuối, chịu sao nỗi những đòn tra tấn và giam cấm cố ngoài hải đảo. Còn nhiều chuyện lắm, mình nên đi tìm một chỗ khác để nói chuyện chớ đâu có thể đứng đây lâu được.
- Khuya rồi, đi đâu bây giờ? Hay là về chỗ ở của tôi đi.
- Anh ở đâu? Nhà có đông người không?
- Không, tôi chỉ ở một mình trong một nhà kho để trống, ở gần đây thôi.
- Tôi có ngủ lại được không?
- Được
- Tốt lắm. Lâu lắm rồi mình không có dịp ngủ cùng phòng với nhau. Tôi không bao giờ quên được những ngày còn ở thành đoàn, nhiều đêm tôi nằm chung giường với anh hay với đồng chí Thi. Nằm mà có ngủ gì được đâu. Lo bàn công tác, lo chuyện đối phó với công an mật vụ của địch. Giai đoạn đó nguy hiểm nhưng thực là vui và sôi động. Vào khu an toàn thì thảnh thơi hơn, ít phải lo nghỉ đối phó, nhưng vẫn nhớ quay quắt giai đoạn công tác đó. Anh cũng thường nhớ như tôi phải không?
Tân vừa đi vừa gật đầu như một cái máy. Cậu chỉ nhớ nhiều về thầy Thi. Nhớ cái hôm, cách nay đến gần năm năm, thầy đưa cậu đến nhà ông thầu khoán để giới thiệu cậu vào dạy học và giúp cậu sống tự lập để hoạt động cho thành đoàn. Bây giờ thầy không còn nữa, Tân cảm thấy xót thương vô ngần.
Không bao lâu, hai người về đến nơi ở của Tân. Cậu mở khóa, đẩy cửa bước vào, đưa tay bật nút điện. Đèn sáng lên. Đảnh ngạc nhiên thấy căn phòng trống trơn, rộng mênh mông. Anh hỏi:
- Anh ở đây một mình à? Sao chẳng thấy bếp núc gì cả?
- Tôi ở đây một mình, tôi đã nói với anh rồi. Tôi cũng chẳng phải nấu nướng gì. Ngày hai bữa, ăn ở tiệm Lương Ký.
Đảnh cười:
- Vẫn kiếp sống lang thang như xưa vậy. Ở ngay trên Tổ quốc mà mình sống như bọn bohémien hay gitan. Có lẽ khi nào đất nước hoàn toàn thống nhất thì mới chấm dứt cuộc sống lang thang nầy.
- Anh nghĩ rằng đất nước mình có thể thống nhất? Từ Hiệp Định Genève đến nay đã năm năm phân chia rồi, tương lai càng ngày càng mờ mịt.
Đảnh nhìn bạn, có vẻ thương hại:
- Anh nói nghe có vẻ bi quan, mất tin tưởng. Mấy năm không sinh hoạt, phai nhạt lòng tin rồi. Nhưng không sao, sinh hoạt trở lại thì mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Hiệp định Genève chẳng còn nghĩa lý gì nữa, kể như đảng ta đã vứt bỏ rồi.
- Nhưng chúng ta đã hi sinh biết bao công sức, bao nhiêu xương máu để đạt được hiệp định đó và đòi thi hành nó một cách nghiêm túc kia mà.
Đảnh cười:
- Nếu đảng bảo hi sinh xương máu cho hiệp định Genève thì chúng ta hi sinh. Còn nếu đảng bảo hi sinh xương máu để xóa bỏ hiệp định đó thì ta cũng sẵn sàng không ngần ngại. Mỗi giai đoạn có một mục tiêu tranh đấu riêng biệt. Chấm dứt một giai đoạn là sang một mục tiêu tranh đấu khác cho đến khi đạt được thắng lợi hoàn toàn.
- Thế thì cái mục tiêu chính trị trước đây là tranh đấu cho hòa bình không còn nữa sao?
Đảnh không trả lời. Anh đứng dậy đi một vòng, nhìn quanh dãy lỗ thông hơi bên trên hai vách tường và lắng tai nghe. Tiếng ồn ào ngoài phố, tiếng máy xe, kèn xe nghe văng vẳng. Tân hiểu ý vội nói:
- Anh đừng sợ, cái kho nầy cách biệt với những nhà khác. Nó ở cạnh văn phòng của hãng nhưng hiện nay đang đóng cửa ngưng hoạt động nên chung quanh không có ai có thể nghe mình nói chuyện trong nầy.
Đảnh trở lại ngồi bên mép giường và nói:
- Đây là chỗ họp rất tốt. Còn nhớ ngày trước, đi tìm cho được một chỗ họp an toàn thực là gay go. Sau nầy, anh trở lại sinh hoạt thì chỗ nầy sẽ là chỗ họp của tổ chức. À, khi nãy mình đang bàn về mục tiêu chính trị phải không? Anh cần phân biệt mục tiêu cơ bản và mục tiêu giai đoạn. Mục tiêu cơ bản thì duy nhất và xuyên suốt qua các giai đoạn, đó là giành cho được độc lập, tự do, dân chủ hoàn toàn dưới sự lãnh đạo của đảng. Mục tiêu giai đoạn thì thay đổi theo tình hình. Trước hiệp định Genève, đấu tranh vũ trang, giành chiến thắng quân sự là mục tiêu chính yếu. Khẩu hiệu lúc đó là “tất cả cho tiền tuyến”. Sau hiệp định Genève, và thời kỳ mà anh em mình hoạt động cho thành đoàn, không còn đấu tranh vũ trang nữa mà duy nhất chỉ còn đấu tranh chính trị. Lúc đó, mình phải trân mình chịu đựng sự đàn áp của địch, mình dùng các hình thức công khai và bán công khai để thúc đẩy đồng bào xuống đường và nếu cần thì khiêu khích lực lượng an ninh và quân đội địch gây đổ máu để lên án chúng trong dư luận quốc tế.
Tân rùng mình nhớ lại những ngày xưa đó. Hình ảnh của những ngày xuống đường, những đêm rải truyền đơn, những cuộc tra tấn ở Catinat làm cậu ngao ngán. Cậu cố giữ giọng thản nhiên để hỏi:
- Bây giờ còn đấu tranh theo kiểu hô hào xuống đường nữa không?
- Không, trọng tâm không còn ở điểm đó nữa.
- Tại sao vậy? Quần chúng không còn nghe theo ta nữa à?
- Gần đúng như vậy. Giai đoạn hô hào xuống đường rất thành công lúc hiệp định Genève vừa được ký kết xong. Lúc đó hào quang của cuộc kháng chiến chống Pháp còn vô cùng rực rỡ, năm châu bốn bể đang hướng về ta với cái nhìn khâm phục. Điều đó kích thích sự hãnh diện của tuổi trẻ, của giới sinh viên học sinh nên ta đã thúc đẩy họ xuống đường một cách dễ dàng. Lại nữa, lúc đó chính quyền của địch ở miền Nam nầy còn non nớt nên không đủ sức ngăn chận sự vận động của chúng ta. Bây giờ tình hình đã thay đổi khác. Sinh viên, học sinh thuộc giai cấp tiểu tư sản, có tính lửa rơm nghĩa là dễ thổi cho cháy bùng lên nhưng sau đó tắt ngấm một cách nhanh chóng, phải chờ thời cơ khác mới có thể thổi bùng trở lại. Nhưng bây giờ thời cơ chưa đến vì chính quyền địch đã dần dần được củng cố và dân chúng sống hòa bình lo làm ăn, xây dựng nhà cửa ruộng vườn, chẳng tha thiết lắm với việc xuống đường tranh đấu nữa.
- Nhân dân được sống hòa bình, lo làm ăn, xây dựng ruộng vườn, đó không phải là điều đáng mừng sao? Chúng ta vẫn đề cao ý chí hòa bình, vận động quần chúng chống chiến tranh kia mà. Tại sao bây giờ ta không để nhân dân an hưởng hòa bình?
Đảnh nhìn Tân với vẻ ngạc nhiên. Anh lắc đầu một cách thương hại:
- Đồng chí hãy coi chừng. Điều đồng chí vừa nói ra đó rõ ràng là tư tưởng hữu khuynh. Ngày trước, trong các kỳ họp chi bộ và các lần báo cáo lên các cấp ủy trong thành đoàn, cấp trên thường khen đồng chí có lập trường rất vững, có thể đoán trước được chủ trương đường lối của đảng trước khi học tập nghị quyết. Bây giờ đồng chí có biểu hiện sa sút trong tư tưởng khá rõ rệt rồi đó.
Anh gật gù rồi nói tiếp:
- Sự sa sút đó cũng có lý do. Mấy năm rồi, đồng chí không được sinh hoạt nên mất tính chiến đấu của người cán bộ. Trong thời gian trước đây, những người mới ra tù đều được đưa ra chiến khu để bồi dưỡng tư tưởng, bây giờ, do tình hình khó khăn, đảng ta chưa thực hiện được điều nầy.
Đảnh ngừng lại có vẻ suy nghĩ trong khi Tân nhớ lại câu chuyện anh Minh kể cho cậu nghe trong tù. Câu chuyện vẫn còn in rất rõ trong trí nhớ của Tân. Sau khi vượt ngục vào chiến khu, anh Minh đã bị cách mạng điều tra trong nhiều tháng cho đến khi hoà bình trở lại mới thôi. Trong giai đoạn bị điều tra, anh Minh bị giam cầm, ngày đi lao động, tối về cho chân vào cùm. Đó có phải là cách bồi dưỡng tư tưởng mà cách mạng dành cho người mới ra tù hay không?
Đảnh nói tiếp:
- Sau nầy tôi sẽ đề nghị cho đồng chí ra khu an toàn dự một lớp học tập chính trị cho tư tưởng được vững vàng hơn. Tuy nhiên, các mật khu của chúng ta mới được thiết lập trở lại, chưa được an toàn lắm. Địch thường đưa binh lính vào lùng sục và càn quét, thả gián điệp vào để dò xét hoạt động của ta. Vì vậy đồng chí chưa vào được lúc nầy. Điều cần làm bây giờ là đưa đồng chí vào tổ chức. Ở nội thành chúng ta đang thiếu thốn cán bộ nằm vùng một cách trầm trọng. Tôi sẽ báo cáo với cấp trên bố trí ngay đồng chí vào một cơ sở để sớm bắt đầu sinh hoạt và nhận công tác. Tôi cũng nói cho đồng chí rõ là đồng chí đã được đánh giá rất cao vì khi bị bắt trước đây đã chịu đựng được sự tra tấn. Điều đó đã được thành đoàn ghi nhận.
Tân hỏi một cách tò mò:
- Có phải ban lãnh đạo bí mật trong tù đã liên lạc được với bên ngoài và báo cáo điều đó hay không?
- Lãnh đạo trong tù và lãnh đạo bên ngoài có liên lạc với nhau hay không thì tôi không rõ. Tuy nhiên, cơ sở cũ của mình có báo cáo lên cấp trên sự kiên trì chịu đựng của đồng chí trong giai đoạn điều tra.
- Tại sao các anh biết mà báo cáo.
- Do suy luận. Nhiều ngày sau khi đồng chí bị bắt, cơ sở bên ngoài vẫn an toàn, không có dấu hiệu nào là chúng tôi bị truy lùng hay ít nhất bị để ý. Bao nhiêu đó đủ để chi bộ báo cáo lên trên tinh thần chiến đấu đáng khen của đồng chí. Tôi nghĩ rằng báo cáo đó có thể đã được đưa lên cao hơn chứ không phải chỉ đến thành đoàn mà thôi.
- Cao hơn là thế nào?
- Là thành ủy hay xứ ủy chẳng hạn.
Tân bỗng thấy hào hứng vì lời khen đó. Dù sao cậu cũng còn trẻ tuổi. Mà tuổi trẻ thì đễ bị người khác bốc lên bằng những lời khen ngợi và những lời nói có tính hào hùng. Trước đây, đối với cậu, những cái tên “thành đoàn”, “thành ủy”, “xứ ủy”, “trung ương cục Miền Nam”, vân vân, là những thứ vô cùng cao cả mà cậu thường nghĩ đến với lòng kính cẩn như một tín đồ nói tới giáo chủ hay các đấng thiêng liêng của tôn giáo mình. Đến nay thời kỳ ấu trĩ đó qua rồi nhưng những ấn tượng đó chưa hoàn toàn biến mất và vẫn còn gây cho cậu ít nhiều sùng kính khi được nhắc đến.
Đêm đã về khuya. Bên ngoài không còn tiếng ồn của xe cộ nữa. Đảnh nói:
- Thôi khuya rồi. Tôi đã phải làm việc suốt ngày hôm nay nên thấm mệt. Bây giờ đi ngủ, ngày mai tôi phải dậy sớm vì có hẹn.
- Có hẹn lúc mấy giờ?
- Đúng sáu giờ sáng. Vài ngày sau, tôi sẽ trở lại gặp anh. Anh làm việc ở tiệm ăn Lương Ký mỗi ngày phải không?
- Phải, nhưng từ ngày mai, tôi nghỉ làm việc trong vài tuần để chuẩn bị cho kỳ thi.
Đảnh ngạc nhiên:
- Anh đi học lại à? Anh thi gì?
- Thi tú tài hai.
- Anh đậu tú tài một rồi sao?
- Vâng, tôi đã đậu năm vừa rồi, vài tháng sau khi ra khỏi nhà tù.
- Hay lắm, tôi xin chúc mừng cho anh. Tôi sẽ báo cáo tình hình nầy lên trên. Có thể cấp trên sẻ chỉ thị cho anh lên học đại học để được bố trí công tác trí thức vận. Hiện nay, trong giới trí thức, hoạt động của ta yếu lắm vì thiếu cán bộ và vì bọn trí thức của thành phố càng ngày càng ngã về phía địch do chủ trương ưu đãi trí thức của nhà cầm quyền hiện nay. Trí thức mà không theo cách mạng thì giá trị không bằng một cục phân bón ruộng. Vị lãnh tụ tối cao của chúng ta đã nói như vậy. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cố công vận động họ về với mình. Đối với cách mạng thì một cục phân cũng không thể vứt bỏ đi được.
Anh im lặng, suy tính một chút rồi nói tiếp:
- Thôi được rồi, anh cứ lo học để đi thi đi. Điều đó cũng có lợi cho cách mạng. Bao giờ anh thi xong?
- Một tuần nữa là bắt đầu thi viết. Đợi kết quả khoảng mươi ngày, nếu đậu thì vào thi vấn đáp. Tôi nghĩ rằng nội trong ba tuần lễ nữa thì có kết quả thực thụ.
- Được rồi, đúng ba tuần lễ nữa kể từ hôm nay, tôi sẽ trở lại. Trong thời gian đó, tôi sẽ liên lạc để bố trí cơ sở hoạt động cho anh.
Đảnh ngừng nói; không bao lâu sau anh ngủ say, trong khi Tân cứ trằn trọc mãi không ngủ được, trí óc cứ lật đi lật lại mãi những trang ký ức của thời kỳ hoạt động sôi nổi xưa kia. Tuổi trẻ của cậu quả thực có nhiều ý nghĩa, mang dáng dấp oai hùng hơn biết bao nhiêu bạn ngồi chung với cậu trong lớp học hiện tại. Niềm hãnh diện nầy, trong mấy năm vừa qua tưởng đã biến mất, không ngờ nay lại bùng lên do buổi gặp gỡ tình cờ với người đồng chí cũ. Rồi đây cậu sẽ trở lại với cách mạng, sẽ là một cán bộ trí thức vận? Cậu sẽ đi vận động những người trí thức chống lại cái chế độ đã đào tạo họ thành người trí thức? Cậu sẽ giao truyền đơn cho họ đi rải, thúc đẩy họ đi biểu tình chống chính phủ để rồi bị đàn áp, bị tra tấn và giam cầm? Cậu lại tiếp theo con đường đã trải qua trong quá khứ hay sao? Không, không, quả thực, cậu hãnh diện về cái quá khứ sôi động và hào hùng của mình nhưng đồng thời cũng ghê sợ nó và đã quyết định từ bỏ nó vĩnh viễn.
Khi bình minh đến với những tiếng động bên ngoài, Đảnh thức dậy, mặc vội áo quần. Trước khi đi, anh còn dặn cậu:
- Trong bất cứ trường hợp nào, anh cũng không được cho ai biết là đã gặp tôi. Đã là một cán bộ địch hậu, chắc anh còn nhớ rõ nguyên tắc bảo mật đó. Cơ sở chính của tôi không còn ở tại đây nữa. Kỳ nầy, tôi chỉ về đây công tác một thời gian, có lẽ không dài lắm. Đến lúc anh thi xong, nếu còn ở đây, tôi sẽ trở lại để giới thiệu anh với cơ sở mới. Nếu tôi phải ra đi thình lình, không kịp đến gặp lại anh thì tôi sẽ sắp xếp để có người của mình đến gặp anh sau đó. Dĩ nhiên là phải có ám hiệu để nhận nhau. Ám hiệu thế nào nhỉ?
- Thì cứ nói anh giới thiệu là được rồi. Nói đúng tên anh và tên tôi là tôi hiểu ngay, cần gì phải ám hiệu.
Đảnh suy nghĩ vài giây rồi lắc đầu:
- Không được. Ngưng công tác mấy năm, anh quên cả việc bảo mật rồi. Bây giờ, các đồng chí ở đây, ngoài anh ra không ai biết tên tôi là Đảnh cả. Với người khác, anh cũng không nên nhắc đến tên đó của tôi. Hơn nữa, người sẽ đến liên lạc với anh do một cơ sở nào đó cử đến tôi đâu có biết là ai. Vì vậy, tôi cho cơ sở đó biết ám hiệu rồi họ sẽ dùng để đến liên hệ với anh. Thế nầy nhé. Đồng chí liên lạc sẽ đến gặp anh và hỏi: “Đây có phải là nhà của bà Ba Béo không?”. Anh sẽ hỏi lại: “Anh hay chị bà con thế nào với bà Ba Béo?”. Người đó sẽ trả lời: “Tôi là cháu gọi bà Ba Béo bằng dì ruột”. Anh cũng nói: “Tôi là em, gọi bà Ba Béo bằng chị” Tới đó là đủ cho hai người nhận ra nhau là đồng chí rồi.
Nói xong, không đợi Tân nói gì thêm, Đảnh ra khỏi phòng và rảo bước trên đường phố đã bắt đầu nhộn nhịp.



*
* *

Một tuần lễ cắm cúi học bài rồi những ngày thi liên tiếp, giúp Tân quên đi cuộc gặp gỡ bất ngờ với người đồng chí cũ. Cậu bước vào kỳ thi một cách tự tin. Kết quả cuối cùng, cậu đậu được hạng “bình” là hạng thí sinh giỏi. Xem xong kết quả, cậu đạp xe lang thang trên các đường phố Sài gòn với nỗi sảng khoái to lớn trong lòng.
Đến trưa, cậu trở về nằm dài trên giường, nghĩ đến những người mà cậu cần phải đến báo tin. Trước hết là ông Lương Ký, ông chủ đồng thời là ân nhân của mình. Gần ba tuần lễ rồi, Tân không gặp ông. Khi cho phép cậu nghỉ để học thi, ông Lương đã dặn cậu hàng ngày hãy đến tiệm để ăn cơm như thường lệ nhưng cậu đã không làm như thế vì thấy mình đã chịu ơn ông quá nhiều và món tiền để dành cũng khá dồi dào nên mỗi ngày đã đến ăn nơi gánh cơm ở góc đường với những người lao động nghèo. Cậu nghĩ tiếp đến ông bà Thái, hai vị ân nhân khác của mình. Cậu sẽ lên tận Bảo lộc để thăm ông bà. Hai người đã lên lập nghiệp trên đó hơn bốn tháng rồi, không biết cuộc sống của ông bà đã được ổn định hay chưa. Sau cùng, Tân nghĩ đến anh Long. Chính anh đã giúp cho cậu được về Sài gòn, được có chỗ ở, có công việc sinh sống để tiếp tục học hành.
Đó thực sự là những ân nhân đáng kính. Nhờ có họ mà cậu mới có thể làm lại cuộc đời và được như ngày hôm nay. Đang suy nghĩ miên man, Tân giật mình vì có tiếng gõ cửa khá to. Cậu đứng dậy ra mở cửa và trông thấy ngay anh Đảnh, ăn mặc khá chững chạc, đang đứng nhìn vào và mỉm cười. Tân lên tiếng:
- Chào anh. Mời anh vào.
Đảnh bước vào phòng với nét mặt tươi cười:
- Sáng nay tôi đến đây để chúc mừng anh hai chuyện. Thứ nhất là chúc mừng anh thi đậu được hạng cao. Cả hội đồng chỉ có ba người đậu được hạng cao như anh.
Tân ngạc nhiên:
- Sao anh biết rõ vậy?
- Sáng nay tôi có qua nha Khảo thí xem danh sách thi đậu và dò thấy tên anh. Đó là điều chúc mừng thứ nhất, không phải cho riêng anh mà cho cả tổ chức nửa. Anh thi đậu tú tài thì đúng với nhu cầu công tác mà tôi vừa được các đồng chí cho hay. Chúng ta đang xây dựng lại cơ sở ở các trường trung học, trước hết là bố trí lực lượng nồng cốt cho được đồng đều. Anh sẽ được đưa về một trường tư thục và chính anh sẽ xây dựng nên cơ sở của trường đó. Tôi đã giới thiệu anh là một cán bộ có rất nhiều năng lực trong công tác dân vận nên các đồng chí lãnh đạo tỏ ra rất hài lòng. Tôi cũng bảo đảm với lãnh đạo là anh rất quen thuộc với công tác vận động học sinh nên không cần phải huấn luyện hay đào tạo mà có thể trao nhiệm vụ ngay cho anh.
Tân sửng sốt:
- Có nghĩa là tôi trở lại công tác với thành đoàn, lại trở lại đi học trung học để vận động học sinh như đã làm cách nay bốn năm?
Đảnh cười:
- Đúng là anh sẽ trở lại công tác vận động học sinh như chúng ta đã làm trước đây nhưng không phải với tư cách học sinh mà với tư cách giáo sư. Anh đã quá lớn rồi lại vừa đậu tú tài xong thì làm sao trở lại làm học sinh cho được. Anh không còn có thể mai phục được trong đám học sinh trung học nhỏ bé để qua mặt được an ninh mật vụ của địch được nữa.
- Nhưng tôi mới đậu tú tài xong, làm sao xin vào dạy ở một trường trung học tư thục được.
- Anh đừng lo chuyện đó, tổ chức sẽ lo cho anh.
Tân ngập ngừng:
- Nhưng tôi chưa có ý định đi dạy. Tôi muốn thi vào đại học sư phạm, vài năm sau, ra trường rồi đi dạy thì vững vàng hơn. Hiện tại tôi có thể sống được với công việc ở tiệm ăn Lương Ký.
Đảnh nhìn thẳng vào mắt của Tân một cách thực nghiêm trang:
- Tôi nhắc cho anh rõ nguyên tắc thứ nhất trong công tác địch hậu của chúng ta là tuyệt đối chấp hành sự phân công của cấp trên, không từ chối, không thắc mắc, không chọn lựa. Chúng ta chỉ có quyền đưa ý kiến để xin làm rõ chức năng của mình chứ không được chống lại quyết định của cấp trên. Vì vậy, tôi khuyên anh hãy vui vẻ chấp hành sự phân công mà tôi vừa trình bày.
- Tôi sẽ được phân về dạy ở trường nào?
- Trường nào sẽ nhận anh? Chính tôi cũng không có quyền được biết. Sẽ có người đến đây gặp anh để cho anh biết trường đó và hướng dẫn cho anh cách thức xin vào dạy. Gần như chắc chắn người đó sẽ là cấp trên trực tiếp của anh. Sau nầy, anh sẽ nhận lệnh công tác và sinh hoạt luôn với người đó.
Tân ngạc nhiên:
- Ủa, người đó không phải là anh à?
Đảnh mỉm cười:
- Không, chắc chắn là không. Đáng lẽ tôi không nên tiết lộ tình thế của tôi hiện nay. Nhưng với anh thì tôi có thể cho biết một vài khía cạnh để biết cách bảo vệ cho nhau. Hiện nay tôi tách khỏi công tác dân vận ở nội thành rồi. Nơi làm việc chính của tôi là ở khu an toàn, chỉ thỉnh thoảng tôi mới về thành phố trong một thời gian không dài. Những lúc đó, tôi phải được giữ bí mật hoàn toàn. Kể từ bây giờ, nếu có gặp nhau, thì chúng ta phải xem nhau như người xa lạ, anh đừng bao giờ tìm cách nói chuyện với tôi dù chỉ là một câu hỏi thăm qua loa. Lần nầy là lần cuối cùng tôi gặp anh. Trong chuyến công tác nầy, tôi đã làm xong công việc của tôi cách nay một tuần, nhưng tôi phải ở lại để lo cho xong chuyện đưa anh trở lại tổ chức. Dù sao mình cũng phải hết lòng với đồng chí cũ của mình. Nay xong xuôi cả rồi. Chuyến về nầy, tôi rất phấn khởi vì đã làm xong bổn phận với đồng chí cũ và đem trở lại cho cách mạng một cán bộ mà tôi biết sẽ rất hữu ích.
Đảnh dừng lại, vói lấy chai nước ngửa cổ tu một hơi, nuốt ừng ực và nói tiếp:
- Hai hôm nữa, cũng vào giờ nầy, người liên lạc sẽ đến gặp anh tại phòng nầy. Đây là dấu hiệu để nhận dạng. Người đó sẽ mặc áo và quần đều màu xanh của công nhân. Người đó có thể là đàn ông hay đàn bà. Ám hiệu tiếp theo là những câu đối đáp mà tôi đã dặn anh lần trước. Anh nên tự nhắc lại và nhớ cho kỹ. Thôi bây giờ chia tay, hẹn gặp lại nhau trong ngày toàn thắng. Tôi nhắc lại và anh hãy nhớ kỹ, hai ngày nữa, vào giờ nầy, có một đồng chí đến đây, anh phải có mặt đừng để người ta chờ đợi.
Hai người đứng dậy siết chặt tay nhau. Đảnh bước gần đến cửa, bỗng dừng lại quay lui:
- À, tôi có món nầy tặng anh. Tôi biết anh đang sống rất kham khổ. Hôm trước, gặp anh ở tiệm Lương Ký, tôi thấy quần áo anh cũ mèm trông thảm hại. Tôi tặng anh một áo mới.
Bây giờ, Tân mới để ý Đảnh đang mặc bộ quần áo mới toanh. Lúc Đảnh mới vào nhà, Tân đã thấy vẻ sang trọng nơi đồng chí cũ đó, khác hẳn với vẻ xuềnh xoàng khi gặp nhau lần trước.
Đảnh đặt cái bao xách tay lên giường, nhanh nhẹn kéo khóa dây, lôi ra nhiều món đồ dùng lặt vặt để trên giường và cuối cùng một cái áo còn gói trong giấy bóng. Anh nói:
- Đây, tặng anh. Hôm nào đến trường nhận việc thì có mà mặc. Bây giờ là giáo sư rồi chứ không phải anh bồi bàn nữa, cần phải để ý cách ăn mặc một chút.
Tân tỏ vẻ ngần ngại:
- Anh nên giữ lấy mà mặc. Cái áo nầy trông tốt lắm, anh phải mua nhiều tiền lắm mà.
- Tôi đâu có mua. người ta sắm cho tôi hai bộ, cả áo lẫn quần. Quần thì có lẽ anh mặc không vừa đâu, tôi chia bớt cho anh cái áo. Lấy mà mặc một cách tự nhiên đi; tình đồng chí chia cơm sẻ áo mà.
Đảnh cười khà khà, kéo cái xách đến gần để xếp đồ đạc vào trở lại:
- Cái túi xách nầy trông ngon lành, nhưng chỉ dùng được ở thành phố thôi, vào chiến khu thì hơi bất tiện, tôi lại phải dùng cái ba lô đeo chặt trên vai. Cái túi nầy, người ta cũng sắm cho tôi đó.
Tân cười theo:
- Ai sắm cho anh vậy? Tôi nhớ quê anh ở mãi tận Châu đốc. Hay là…
Anh lại cười khà và cướp lời:
- Anh có nhớ Bạch Mai không? Cái cô bé xinh xinh mà anh đã kết nạp vào đoàn ít lâu trước khi anh bị bắt.
Bạch Mai! Tân nghe tai mình như lùng bùng. Cậu cố gắng giữ bình tĩnh, lặng lẽ gật đầu. Từ nhiều tháng nay vì bận rộn với học hành và công việc tại tiệm ăn nên cậu không nghĩ nhiều đến Mai. Trường đang theo học cũng không xa nhà Mai lắm nhưng không khi nào cậu đi vào con đường Vườn chuối để tránh sự cám dỗ tìm đến gặp Mai. Hai lần gặp Đảnh, cậu cũng không nhớ đến Mai vì chuyện trở lại làm cách mạng khiến cho đầu óc cậu bị xáo động dữ dội. Bây giờ, nàng bỗng vụt hiện ra, chập chờn giữa hai hình ảnh, một người con gái mỹ miều với nụ cười thực tươi và một thiếu phụ ngồi ôm con với đôi mắt âu sầu.
Cậu nghe giọng mình run run như giọng người xa lạ:
- Bạch Mai tặng cho anh những thứ nầy à?
Đảnh đang loay hoay sắp đồ đạc trở lại vào giỏ xách nên không để ý sự thay đổi trên nét mặt của Tân. Anh thản nhiên đáp:
- Của Mai cả đó. À, có lẽ anh chưa biết. Mai là vợ của tôi. Chúng tôi có với nhau một đứa con trai được một tuổi rồi.
Tân cố nén xúc động:
- Anh vào sống trong mật khu thì ai nuôi cháu?
Giọng Đảnh vẫn thản nhiên:
- Mẹ nó nuôi.
- Mai có công việc làm rồi à?
Đảnh lắc đầu:
- Chẳng đi làm gì cả. Vẫn sống và ăn bám vào cha. Mẹ của Mai thì chết rồi, cách nay gần hai năm.
- Nhưng trách nhiệm của anh đối với Mai và đứa bé?
Đảnh cười to:
- Trong giai đoạn nầy, cái thân mình đã giao cho cách mạng, cho đảng rồi thì mình được miễn mọi trách nhiệm khác. Vả lại, thằng bé ra đời cũng là ngoài ý muốn của tôi.
Thấy Tân há hốc nhìn mình với vẻ mặt khác thường, Đảnh xuống giọng như phân trần:
- Sau khi anh bị bắt được vài tháng thì xảy ra một vụ nghiêm trọng, trong đó rất nhiều cơ sở đồng loạt bị vỡ tan nát. Đó là vào dịp ngày sinh viên học sinh, kỷ niệm ngày hi sinh của anh Trần văn Ơn, thành đoàn ra lệnh tung toàn bộ lực lượng đi rải truyền đơn trong đêm. Dại quá, địch đã đoán trước điều đó nên đã đề phòng. Khi chúng ta xuất phát, rải được vài nơi thì bọn nó bao vây, xe hụ còi inh ỏi; nhiều nơi, bọn chúng bắn chỉ thiên. Đêm đó tôi dẫn mấy đoàn viên ra địa điểm, dặn dò đôi điều rồi về thì địch tấn công ngay. Tôi quay lui, vừa lúc gặp Mai nên lôi cô ta chạy. May quá, nhờ tôi thuộc đường nên thoát, đám kia bị bắt hết. Vô Catinat, bị tra tấn, chúng nó khai lung tung. Tôi và Mai phải rời khỏi Sài gòn ngay, bí mật đến trú tại một nhà làm rẫy trong vùng hẻo lánh ở gần thác Trị an. Chúng tôi phải tự nhốt trong một phòng nhỏ trong hơn một tuần lễ để tránh sự dòm ngó của người chung quanh.
- Đứa bé ngày nay ra đời cũng vì thời gian hai người tự nhốt trong phòng nhỏ đó?
- Vâng, điều đó thực là dễ hiểu.
Đảnh trả lời xong thì cười vui vẻ. Tân cảm thấy tức giận vì tiếng cười của Đảnh. Cậu nói với giọng khó chịu:
- Tại sao anh không biết giữ gìn cho nữ đồng chí của mình.
Đảnh trố mắt nhìn:
- Anh nói giữ gìn cái gì? Giữ gìn trinh tiết phải không? Sao anh còn óc phong kiến quávậy. Nếu hôm đó, tôi không kịp đưa Mai chạy trốn thì khi cô ta bị bắt, mấy thằng quỉ sứ trong Catinat có giữ gìn cho cái trinh tiết đó hay không?
Đảnh nói xong câu đó thì vội quay đi, bước ra cửa. Anh nắm lấy chốt cửa và quay lại nói nhanh:
- Anh Tân nầy, anh nên nhớ rằng chúng ta phải hy sinh tất cả cho cách mạng. Chỉ có đảng, chỉ có chiến thắng cuối cùng mới đáng kể. Đừng quan tâm đến bất cứ thứ gì khác. Có thế mới hoàn tất được bước đường vinh quang của chúng ta. Thôi chào nhé. Tôi xin nhắc lại, hai hôm nữa có người đến gặp anh. Bây giờ chúng ta chia tay, có thể không bao giờ gặp lại nhau nữa.
Tân ngồi yên, nhìn Đảnh đi ra. Cánh cửa vẫn mở. Cậu đứng dậy, bước ra cửa, trông thấy Đảnh hấp tấp bước đi và khuất bóng trong dòng xe cộ và người qua lại.
Cậu khép cửa và vào ngồi yên trên giường rất lâu, đầu óc hỗn độn với bao nhiêu ý nghĩ về những lời nói của người đồng chí cũ. Cậu cảm thấy trong lòng nỗi bứt rứt vô cùng khó chịu. Hai ngày nữa, đúng vào giờ nầy, sẽ có người đến đây. Người đó mặc áo quần màu xanh của công nhân. Hai người sẽ nói những câu ám hiệu và nhận là đồng chí với nhau. Sau đó, cậu sẽ trở lại con đường cách mạng, con đường mà cậu đã rời bỏ được sau khi phải chịu nhiều đau khổ. Cậu sắp trở lại công việc ngày trước, hằng ngày ra sức thúc đẩy những đứa học sinh thơ ngây và đáng thương lao vào những hành động nguy hiểm và chẳng còn cao đẹp chút nào. Không ít những em đó sẽ bỏ dở học hành và gánh chịu bao điều bất hạnh khác. Cậu bỗng nghĩ đến Bạch Mai và cảm thấy đau đớn như có một khối nặng dộng vào ngực làm cho ngạt thở.
Cậu buông mình nằm xuống giường, cảm thấy nỗi cay đắng tràn ngập trong lòng. Còn hai ngày nữa, người đó sẽ đến đưa cậu vào tổ chức. Từ bây giờ đến lúc gặp người ấy, phải làm gì đây? Làm sao có thể giữ được sự bình thản để chờ đợi giờ phút gặp gỡ đó trong chính căn phòng nầy? Cậu sực nhớ tới anh Long. Phải rồi, chỉ có anh Long là người mà cậu có thể tâm sự và xin lời khuyên trong lúc nầy.
Cậu vội vã mặc áo quần, dẫn xe ra khỏi phòng và khóa cửa lại. Cậu lên xe và nhấn mạnh bàn đạp cho xe phóng tới và dừng lại ở bến xe đò. Có một người chạy đến vồn vã:
- Biên hòa chạy liền đây cậu. Đưa xe đạp cho tôi đưa lên mui.
Khi cậu vừa bước lên, xe khởi hành ngay và sau một giờ thì vào bến Biên hòa. Cậu bước xuống, nhận lại xe đạp rồi đứng tần ngần trong bến xe nhộn nhịp. Cậu hỏi giờ một người đi qua và biết ngay lúc nầy anh Long chưa về đến nhà.
Tân lên xe, đạp thong thả ra bờ sông, băng qua cầu Gành để đến cù lao Phố, chạy chầm chậm trên con đường đất ngoằn ngoèo mà cậu thuộc từng ngôi nhà, từng gốc cây, từng khu vườn xinh xắn hai bên đường.
Cậu dừng lại bên bờ sông, đứng yên nhìn ngôi nhà nhỏ mà cậu đã chung sống với ông bà Thái nhiều tháng sau khi ra khỏi tù. Ông bà đã bán gian nhà cùng vườn tược chung quanh để đi lập nghiệp trên vùng cao nguyên. Ngôi nhà vẫn còn như cũ nhưng kế bên hình như người ta chuẩn bị làm một nhà khác lớn hơn. Trước đây, ở đó có một cây bưởi tàn lá rậm rạp, quanh năm phủ bóng mát xuống một khoảnh đất bằng phẳng được cậu quét sạch sẽ mỗi ngày hai lần. Đó là nơi cậu ưa thích nhất. Buổi trưa, cậu thường ra ngồi đó, vừa học bài, vừa ngắm nhìn ghe thuyền qua lại trên dòng sông. Bây giờ, cây bưởi không còn nữa nên chỗ đó trở nên quang đãng trông lạ hẳn ra. Cậu hình dung lại những ngày êm đềm sống tại nơi đây và cảm thấy nỗi yêu thương rạt rào đối với hai người già nhân hậu đã đưa mình ra khỏi nhà tù và cưu mang mình trong những tháng tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng quan trọng để làm lại cuộc đời.
Cậu quay lại nhìn ra bờ sông. Vầng ô đã ngã hẳn về Tây, mặt sông lóng lánh phản chiếu ánh sáng chói chang. Cậu lẩm bẩm một mình:
- Giờ nầy có lẽ anh Long về nhà rồi.
Tân lên xe đạp về hướng cầu sắt nơi có một đoàn tàu đang rầm rập chạy qua. Cậu đi nhanh trên những con đường có nhiều người qua lại vì đang là giờ tan sở rồi rẽ vào con hẻm quen thuộc và đến nhà anh Long. Cửa nhà mở toang nhưng trong nhà không có bóng người. Cậu dựng xe trên thềm, bước đến cửa gọi to:
- Anh Long có nhà không?
Từ phía sau có tiếng đáp vọng lên:
- Có đây, chú Tân phải không? Hay lắm. Vô nhà đi, đợi anh một chút.
Cậu bước vào nhà, ngồi xuống ghế, nhìn quanh khắp phòng. Không có gì thay đổi so với mấy tháng trước. Tân ngạc nhiên, gian nhà vẫn còn giữ dáng vẻ là nhà của người độc thân. Anh Long từ phía sau bước lên, vừa đi vừa cầm lược chải tóc, nhiều giọt nước còn đọng trên đôi vai để trần.
Anh cười thực to:
- Tân về thăm anh và báo tin thi đậu phải không? Hôm qua anh đọc báo thấy nói hôm nay có kết quả thi tú tài. Anh đoán nội trong ngày nay hay ngày mai, em sẽ về đây thăm anh. Em đậu hạng gì?
- Hạng bình.
- Giỏi lắm. Nhưng sao bộ mặt trông không được vui? Có việc gì vậy?
- Dạ có việc làm em lo nghĩ nên đến đây để hỏi ý kiến anh.
- Vậy à? Chuyện có dài lắm không?
- Cũng khá dài.
- Thế thì để lại đó. Bây giờ anh em mình ra tiệm, anh đãi em một bữa đễ mừng em vừa thi đậu. Tối nay, em có định trở về Sài gòn không?
- Không. Em đang được ông Lương cho nghỉ để đi thi nên chưa đi làm lại.
- Thế thì rất tốt. Ăn xong về nhà nầy ngủ lại, tha hồ mà nói chuyện.
Tân nhìn anh, hỏi:
- Anh chưa lấy vợ à? Hôm trước anh bảo qua Tết, em đợi mãi không thấy thiệp mời của anh.
Long cười:
- Hoãn lại rồi. Ngay trước Tết, mẹ cô ấy trở bệnh nặng và qua đời nên hai bên gia đình đã bàn bạc với nhau và đồng ý hoãn lại một năm. Thế mà hay. Có thêm thì giờ để chuẩn bị cho tươm tất hơn. Em ngồi chơi một chút, anh vào thay áo quần rồi anh em mình đi dùng bữa tối.
Hai anh em cùng đạp xe ra phố, vào một tiệm ăn khá sang trọng. Ăn xong, hai người trở về thì đường phố đã lên đèn từ lâu. Long mở cửa vào nhà, bật đèn sáng lên. Hai anh em ngồi vào ghế. Long lên tiếng:
- Bây giờ thì em bắt đầu câu chuyện làm em ưu tư đi. Có phải chuyện tình cảm với cô nàng nào đó hay không?
- Không phải. Vẫn là chuyện đã từng làm cho anh lo nghĩ một năm trước đây.
- À, anh hiểu rồi. Các đồng chí cũ tìm đến liên hệ để đưa em trở lại với tổ chức cách mạng phải không?
Tân gật đầu:
- Dạ phải.
- Anh đoán thế nào họ cũng trở lại chứ không bỏ rơi một cách dễ dàng đâu. Họ đang rất cần cán bộ hoạt động. Đào tạo được một người đã được trui rèn trong công tác và trong tù như anh em mình đâu phải là dễ.
Long ngưng lại, nhìn Tân, mỉm cười rồi nói tiếp với giọng trêu chọc:
- Năm ngoái, khi nghe kể chuyện của anh, em có nói một cách mạnh mẽ rằng nếu gặp lại họ thì em sẽ dứt khoát từ chối kia mà. Em không từ chối được à?
Tân ngẫm nghĩ một chút rồi trả lời:
- Em chỉ gặp đồng chí đó hai lần, và trong cả hai lần đó, không có lúc nào em có thể nói được lời từ chối.
- Em hoàn toàn bị động trong lúc nói chuyện phải không?
Tân gật đầu:
- Dạ phải. Đồng chí đó nói, đồng chí đó sắp đặt, không chừa cho em một cơ hội nào để nói lên ý nghĩ hay nguyện vọng của mình. Đồng chí đó vẫn xem em là một thành phần của cách mạng như trong những ngày chưa bị bắt cầm tù, nghĩa là em chỉ có bổn phận nghe theo quyết định của cấp trên để thi hành và không có quyền bàn cãi gì cả.
- Anh hiểu rồi. Người cộng sản có định kiến họ là người duy nhất đúng, ai có ý kiến khác với họ đều là sai cả.
- Đúng vậy đó. Lúc em còn hoạt động trong thành đoàn, khi không có mặt bí thư chi bộ thì đồng chí đó là cấp trên trực tiếp của em. Em đã mặc nhiên thừa nhận ý kiến của đồng chí ấy như là sự chỉ đạo của cấp trên, không cần phải bàn cãi gì nữa. Mọi thắc mắc đều bị quy là chao đảo, thiếu niềm tin. Riết rồi thành thói quen, chỉ có việc chấp hành, không có chuyện đưa ý kiến riêng của mình vào chủ trương đường lối mà cấp trên rót xuống vì những thứ đó là sản phẩm của cách mạng, của đảng; nó có tính siêu việt, vượt qua mọi nhận thức của cấp dưới và của quần chúng.
- Có phải em muốn nói đến tính độc đoán của cộng sản hay không?
- Không, em nói điều đó không phải với chủ đích lên án cái chủ nghĩa mà một thời em đã phục vụ. Em cũng không có ý công kích những người đang theo chủ nghĩa đó. Em vẫn giữ cảm tình với họ dù ngày nay em không muốn là kẻ đồng hành với họ nữa.
- Thôi được rồi, anh hiểu em muốn thanh minh rằng em không bao giờ là người chống cộng, không có ý đã kích những người cộng sản, thế thì em nêu vấn đề vừa rồi để làm gì?
- Em muốn trả lời câu anh hỏi tại sao em không thẳng thừng từ chối đề nghị của đồng chí cũ như đã nói với anh trước đây. Anh có nghĩ rằng em là đứa thiếu thành thực hay không?
- Không. Anh biết em là người thành thực và anh cũng hiểu rằng em chưa đủ sức chống lại sự sắp đặt của đồng chí cũ của em.
- Quả thực, em hoàn toàn bị động khi nói chuyện với anh ấy. Em đã quen với sự bị động đó từ lâu rồi. Ở một mình, em tự do suy tưởng nhưng khi nói chuyện với đồng chí đã từng lãnh đạo mình, em không thể nói hết ý nghĩ của mình được. Vì vậy khi anh ấy sắp đặt kế hoạch cho em thì em im lặng, coi như tuân hành mệnh lệnh.
- Đồng chí đó đã đặt kế hoạch cho em thế nào?
- Em sẽ được bố trí vào một cơ sở mới với chức vụ giáo sư của một trường trung học tư thục.
Long cười to:
- Thế thì tốt quá rồi. Được làm giáo sư còn gì nữa mà than phiền.
- Anh đừng chế nhạo em nữa. Nghe em trình bày tiếp đây. Hai ngày nữa, có người đến gặp em để chính thức đưa em vào tổ chức. Dĩ nhiên đến lúc đó, em không còn đường rút lui được nữa. Bây giờ cho đến ngày đó, em phải tính sao đây?
- Theo anh, nếu em chịu trở lại hoạt động thì cứ theo mệnh lệnh của tổ chức. Còn nếu em không nhận thì cứ thẳng thắng từ chối.
- Không được. Em đã nói với anh rồi. Em không đủ khả năng từ chối. Vả lại, nếu từ chối thì phải từ chối từ trước với đồng chí cũ của em, còn bây giờ tổ chức đã cử người đến tiếp xúc rồi thì không thể nói lời từ chối được nữa.
- Phải, em nói đúng. Vấn đề khá tế nhị và phức tạp. Để anh suy nghĩ một chút rồi sẽ có ý kiến.
Anh đứng dậy, xuống bếp đun nước sôi, chế hai ly cà phê và mang lên. Đêm đã khuya, không còn tiếng xe cộ bên ngoài.
Anh Long châm một điếu thuốc, nhả khói lên trần nhà rồi hỏi:
- Em có dứt khoát từ bỏ con đường cách mạng hay không?
- Dứt khoát. Em muốn sống bình dị như mọi công dân ở miền Nam nầy.
- Em không tiếc công sức mình đã bỏ ra, không tiếc cái tuổi trẻ mà mình cống hiến cho sự nghiệp của cách mạng hay sao?
Giọng Tân bỗng trở nên đầy hào khí:
- Đúng. Em đã hi sinh trọn tuổi trẻ của em cho cách mạng. Lúc đó, cách mạng có nghĩa là đánh đuổi thực dân Pháp để đem lại cuộc sống yên vui cho dân tộc. Bây giờ thực dân Pháp không còn nữa, miền Nam đang sống yên vui. Lý tưởng cách mạng của riêng em đã hoàn tất nên em muốn sống một cách bình dị mà thôi.
- Nhưng đối với những người lãnh đạo thì cách mạng đã hoàn tất đâu.
- Mặc họ. Họ muốn kéo cái xe cách mạng đi đến đâu thì mặc họ, em không chống lại họ, cũng chẳng theo họ. Theo anh, người ta đang dự định kéo cái xe cách mạng đi đến đâu?
- Rất dễ hiểu. Cuộc cách mạng của chúng ta bây giờ đã lộ rõ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản mà mục tiêu cuối cùng là áp đặt chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản lên toàn thế giới. Riêng ở Việt Nam thì mục tiêu trước mắt là thống nhất hai miền Nam Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng.
- Còn lâu mới thống nhất được.
- Đúng là còn lâu. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, phải mất năm mươi năm mới thống nhất nhờ vua Quang Trung đánh tan được cả hai lực lượng thù nghịch nhau. Hiện nay thì hai nước Đức và Triều tiên đã bị chia cắt mười mấy năm rồi và sự thống nhất còn quá xa vời. Nhưng nếu giả tỉ, về sau nầy, người cộng sản thực hiện được sự thống nhất theo cách của họ thì em có tiếc công mình vì đã từ bỏ cách mạng quá sớm hay không?
- Không. Em chẳng thèm tiếc công sức và cả máu của em đã đổ ra cho cách mạng. Em cho đó là nghĩa vụ của mọi thanh niên trong giai đoạn lịch sử của đất nước mà thôi. Đã gọi là nghĩa vụ thì không cần phải được trả công.
- Tốt, anh thực sự yêu thích sự ngay thẳng và trong sáng của ý nghĩ và tâm hồn em.
- Cám ơn anh. Bây giờ, theo ý anh, em phải xử trí ra sao đây? Hai ngày nữa, người đó đến gặp em thì em phải nói thế nào?
- Tốt hơn hết là em không nên gặp người đó. Ngày mốt là đúng hẹn phải không? Em nên lánh mặt đi.
- Nhưng liệu sau đó, họ có trở lại không?
- Theo anh thì họ sẽ trở lại tìm em. Lý do thứ nhất là họ đang rất cần cán bộ nằm vùng như anh đã nói với em rồi. Lý do thứ hai là họ đã để hé lộ sự hoạt động của họ cho em thấy. Em đã biết đồng chí cũ của em đang hiện diện ở thủ đô. Ngay người đến liên lạc với em cũng bị lộ mặt. Vì vậy, nhất thiết họ phải đưa em vào tổ chức cho cơ sở của họ được an toàn.
Tân lo lắng:
- Nếu em không vô tổ chức theo ý họ thì họ có… có xử lý không?
Long bật cười:
- Em sợ họ ám sát hay thủ tiêu em? Cách mạng có thể sử dụng hai biện pháp đó nhưng với em thì họ chẳng cần làm đâu, ngoại trừ trường hợp em trở thành một nhân vật tối quan trọng của chính quyền hay thực sự phản bội họ, nghĩa là hợp tác với cơ quan an ninh mật vụ để lùng bắt họ. Em chỉ cần sống một cách bình thường, lánh mặt họ một thời gian vài năm là họ sẽ không còn để tâm đến em nữa. Tổ chức của cách mạng luôn luôn thay đổi nên một thời gian vài năm là đủ để họ tách hẳn khỏi tầm quan sát của em. Lúc đó giữa em và họ không còn chút liên hệ nào nữa.
- Nhưng trong một vài năm, em khó có thể lánh mặt mãi được. Đồng chí cũ của em đã biết chổ ở và chỗ làm việc của em, thế nào họ cũng sẽ tìm đến.
- Dĩ nhiên là họ sẽ đến. Vì vậy, em phải rời bỏ chỗ đó đi, đừng trở lui nữa.
Tân ngạc nhiên, khẽ kêu lên:
- Trời đất, cái nhà kho đó quá tốt đối với em, bỏ đi thì ở chỗ nào?
Long đáp một cách thản nhiên:
- Không lẽ em không tìm được chỗ nào trọ trong cả miền Nam nầy hay sao? Ngay ở Sài gòn có biết bao nhiêu chỗ trọ dành cho sinh viên học sinh và người sống độc thân.
- Nhưng bỏ cả tiệm Lương Ký đi thì em sống cách nào?
- Rồi sẽ tính tới.
- A, hay là….
- Hay là thế nào, em nói đi.
- Em xin đi dạy trường tư theo như lời người đồng chí cũ của em.
Anh Long lắc đầu:
- Theo anh biết, rất nhiều thầy cô trong các trường tư chỉ mới có tú tài như em mà thôi. Nhưng nếu không có quen biết thì không thể xin vào dạy được.
- Nhưng tại sao người đồng chí cũ của em nói chuyện đưa em vào dạy ở trường tư dễ dàng như thế.
- Với tổ chức của cách mạng thì ngay cả cơ quan chính quyền, người ta cũng có thể đưa người vào được, trường tư thì nghĩa lý gì. Có khi ông chủ trường tư chính là người của cách mạng. Vì vậy, em không nên xin vào dạy ở trường tư. Đã muốn lánh mặt họ thì nên tránh những nơi mà họ có ý bố trí em vào.
Anh Long suy nghĩ một chút rồi nói:
- Anh đề nghị thế nầy, em suy nghĩ xem có được không. Hai ngày nữa mới tới ngày hẹn gặp người của tổ chức. Vậy nội ngày mai, em phải giải quyết cho xong hai việc. Một là đến tiệm ăn Lương Ký xin nghỉ việc và từ biệt luôn. Em nên tìm một lý do nào đó.
- Em sẽ nói thiệt với ông Lương, có lẽ ông sẽ hiểu và đồng ý cho em nghỉ việc ngay.
- Không nên. Ngoài anh ra, em đừng nói cho ai biết việc nầy, nguy hiểm cho họ mà cũng nguy hiểm cho em nữa.
- Được rồi, đêm nay em sẽ suy nghĩ để tìm một lý do nghe cho hợp lý. Còn việc thứ hai?
- Em thu xếp rời khỏi nhà kho. Em mang chìa khóa giao lại cho anh Huấn bạn anh mà em đã biết.
- Rồi em đi đâu? Vô trại mồ côi hay viện dưỡng lão?
Anh Long cười to:
- Đến nước nầy mà em còn khôi hài được là khá lắm. Em về ở chung với anh trong nhà nầy ít lâu rồi sẽ tính tới.
Tân bật cười:
- Em bước vào con đường cách mạng một cách hiên ngang rồi bây giờ em từ giã cách mạng bằng cách bỏ trốn như một tên trộm vậy.
Anh Long cũng cười theo:
- Được lắm. Óc khôi hài giúp mình vượt qua những chặng đường khó khăn một cách nhẹ nhàng.
- Em chỉ ở lại đây nhiều nhất là ba tháng thôi rồi em sẽ trở lại Sài gòn.
- Tại sao vậy?
Tân đáp lời một cách sôi nổi:
- Em muốn học đại học. Đó là nguyện vọng tha thiết của em. Trước đây em chạy theo lý tưởng làm cách mạng. Lý tưởng đó sụp đổ rồi, em muốn xây dựng một lý tưởng mới. Em muốn trở thành một nhân tài để sau nầy góp phần xây dựng đất nước mình trở thành cường quốc. Cộng sản hay quốc gia thì Tổ quốc Việt Nam cũng sẽ vẫn là của người Việt Nam. Đó là ước mơ thầm kín của em từ một năm qua, em nói ra, anh đừng nhạo báng em.
- Không, anh không nhạo báng mà còn kính phục nữa. Tuổi trẻ Việt Nam phần lớn là những người yêu nước. Điều đáng buồn là nhiều khi họ không biết đặt lòng yêu nước đó vào nơi nào cho đúng chỗ.


*
* *