Tân mở mắt ra thì trời đã
sáng tỏ. Xuyên qua trần mùng, nó nhìn thấy mái lá ám
khói đen thui. Nó nhắm mắt lại, cho trí nhớ lướt qua
nhanh chóng những chuyện vừa rồi để định lại vị
trí hiện tại.
Chỉ mới mười ngày thôi mà
cuộc đời đã đổi thay quá nhiều. Cảm giác
tiếc nuối những ngày còn sống tại Sài gòn giờ đây xâm chiếm cõi lòng thằng nhỏ. Nó cố
gắng hình dung như đang thức dậy trong căn nhà
ấm cúng của dì Năm; anh Vinh đã thức trước và đang
sửa soạn để đến sở làm. Nó sắp vùng dậy, ăn uống
qua loa rồi cắp sách đến trường. Trong khu xóm nhỏ
tiếng trẻ con bắt đầu nô đùa, tiếng gà gáy thong thả và tiếng hót vui tai của con chim khướu nuôi
trong chiếc lồng ở nhà kế bên.
Không, bây giờ chẳng còn những
tiếng động quen thuộc đó mà chỉ có tiếng chèo khua
nước của chiếc xuồng ai đó vừa đi ngang qua con kinh
ngay sát hông nhà. Đời học
sinh đã vĩnh viễn trôi qua rồi và những ngày yên ấm trong thành phố thân
yêu cũng sẽ không trở lại. Nó đã vào đến chiến khu, bỏ rơi
tuổi trẻ êm đềm để thực sự lao vào con đường cách
mạng.
Ngay sáng hôm đó, nó được dẫn
đến trình diện công an xã. Người ta bảo nó ngồi trước
một cái bàn ọp ẹp, mặt làm bằng một lớp cây sậy
ghép vào nhau. Người đàn ông đối diện có cái nhìn xoi
mói và nụ cười lạnh lùng. Sau ba ngày phải trả lời
vô số những câu hỏi lặp đi lặp lại của người
trưởng công an, nó được một thanh niên có nét mặt dễ
thương đưa về tỉnh đoàn Thanh niên Cứu quốc. Anh ta tự
giới thiệu tên mình là Quang.
Văn phòng tỉnh đoàn cũng chỉ
là một căn nhà tranh trên bờ kinh nhưng cao ráo hơn căn
nhà của ông Tư mà nó vừa từ giã. Nó bước vào văn
phòng, ngạc nhiên thấy chẳng có cái bàn nào cả. Dọc
theo hai bên vách là những chiếc giường cá nhân, bên
trên ngổn ngang giấy tờ. Ở cuối văn phòng có một chái
nhỏ thấp lè tè. Trên nền đất của chái, trong một lò
đầy tro bụi lửa cháy liu riu làm cho nước bên trong một
cái nồi khá to sôi ùng ục, hơi nước trắng xóa cuồn
cuộn bốc lên, mang theo mùi thơm dìu dịu của lá sậy
được nấu chín.
Anh Quang thân mật đẩy nhẹ vào
vai nó đến giữa phòng, giọng vui vẻ:
- Lính mới về tới đây rồi.
Chuyên gia rải truyền đơn, quăng lựu đạn, gài mìn vào
xe tăng địch ở Sài gòn.
Mọi người ngước lên nhìn nó,
cười ồ. Nó cũng cười theo một cách vui vẻ, cảm thấy
không khí nơi đây thân mật và dễ chịu hơn ở nhà ông
trưởng công an xã mà nó phải chịu đựng suốt ba ngày
qua.
Với giọng ồm ồm, anh Quang tiếp
tục giới thiệu:
- Đây là anh Thanh, anh Hùng, anh
Việt, anh Sĩ.
Anh Quang quay lại vỗ vai nó:
- Còn đây là chú Tài.
Nó không ngạc nhiên về lời
giới thiệu nầy vì trên đường đi, anh Quang đã dặn nó
phải bỏ tên cũ đi và dùng bí danh trong thời gian ở lại
chiến khu.
Sau khi giới thiệu xong, mọi
người trở lại với công việc của mình. Nó được anh
Quang dẫn đến cuối phòng, chỉ vào một chiếc giường
thô sơ còn để trống:
- Chỗ ngủ của chú đây. Chỉ
tạm thời thôi. Trong khi chờ đợi anh em bàn bạc phân
công, chú lo phần bếp núc.
Nó ngẩng lên nhìn anh một cách
ngạc nhiên. Hiểu ý, anh vỗ vai nó một cách thân mật:
- Ở đây, mỗi ngày anh em luân
phiên lo ẩm thực. Có chú lo thì anh em có nhiều thì giờ
hơn dành cho công tác. Ở đây, làm công việc gì thì cũng
là phục vụ cho cách mạng cả.
Anh quay lại cười, nói to với
những người khác:
- Bắt đầu hôm nay, có đầu bếp
chuyên nghiệp rồi. Anh em muốn ăn cơm sống, cơm nhão hay
cơm khê thì báo trước cho đầu bếp biết.
Mọi người lại cười ồ.
Anh Sĩ ngồi gần cửa phụ họa
theo:
- Cả ba thứ, trên sống, giữa
nhão, dưới khê, đầu bếp Sài gòn làm được không? Đầu
bếp nhớ đừng cho truyền đơn và lựu đạn vào nồi
cơm, nghe chưa?
Nó ngồi xuống giường, lòng vui
thích vì những câu đùa của các anh thanh niên của tỉnh
đoàn.
Qua một ngày đầu bỡ ngỡ, nó
làm quen với công việc một cách nhanh chóng. Thực ra, bữa
ăn hết sức giản dị. Nấu nồi cơm to thì nó đã được
anh Quang chỉ vẽ cho phân lượng gạo và nước phải cho
vào, nhúm lửa, bắc lên bếp, đun củi cho đến khi cơm
cạn nước thì rút củi. Thức ăn có cá sẵn dưới kinh.
Mỗi buổi sáng, nó đi bắt một nắm châu chấu trong đám
cỏ sậy ở bờ kinh để làm mồi câu. Thả câu xuống là
giựt lên ngay, thoáng một chốc đã được lưng rổ cá,
mang vào nấu lên với một ít muối và một bó rau hoang
dại hái ngoài đồng. Có hôm nó không câu được vì anh
Thanh nhờ nó chép một bản báo cáo hay một tài liệu học
tập, thì sau đó hai anh khác phải lo phần kiếm cá.
Hai anh cởi phăng áo, nhảy xuống
kênh, chầm chậm nâng chiếc xuồng đã bị nhận chìm
ngày hôm trước xuống đáy kinh. Chiếc xuồng từ từ
nổi lên đến mặt nước, được lắc qua lắc lại cho
nước bị hất ra ngoài. Nước cạn dần và cuối cùng
chỉ còn một lớp cá, con trắng, con đen đồng loạt giãy
đành đạch trên đáy xuồng.
Hơn một tuần trôi qua, một buổi
chiều, sau bữa cơm, anh Quang rủ nó ra ngồi trên bờ
kinh, lúc trời vừa tắt nắng. Bầu trời ở đây rộng
mênh mông, rải rác có nhiều dải mây bạc gắn trên nền
xanh lơ. Từng đàn cò trắng thong thả đập cánh bay qua.
Gió đồng bằng lồng lộng thổi qua, tạo nên những làn
sóng nhấp nhô trên cánh đồng phẳng phiu phủ đầy cỏ
sậy ẻo lả kéo dài đến tận hàng cây xanh rì trên bờ
kinh lớn.
Sau một lúc yên lặng, anh Quang
hỏi nó:
- Một tuần vừa qua, chú có cảm
tưởng thế nào với đời sống trong bưng biền nầy.
Nó trả lời không cần suy nghĩ:
- Em chẳng có cảm tưởng gì đặc
biệt. Vào đây là thoát ly gia đình theo kháng chiến nên
em chờ đợi được phân công rõ rệt.
- Xong rồi. Ngày mai em về nhận
việc tại nông trường tự túc của tỉnh đoàn.
- Các anh đã phân công em về đó?
Anh Quang gật đầu:
- Văn phòng đã bàn bạc với
nhau và quyết định đưa em về nông trường. Việc làm
nào cũng là công tác của cách mạng, nhưng với công tác
nầy, anh cần phải đả thông tư tưởng cho em trước đã.
Tân tỏ ra sốt ruột:
- Em sẽ công tác gì ở nông
trường tự túc đó?
- Hiện giờ thì giữ cái bồ lúa
cho tỉnh đoàn.
- Hả? Giữ bồ lúa?
Anh Quang quay người lại, đặt
một bàn tay lên vai nó:
- Tài, em nên hiểu rằng bất cứ
công tác nào mà cách mạng giao phó đều đáng quý cả.
Em có nghe chuyện một đồng chí chỉ giữ kho lương thực
mà được Trung ương khen thưởng không?
- Không, em không biết.
- Chuyện thế nầy. Ở đâu đó
trong vùng rừng núi miền Tây Bắc, có một đồng chí hậu
cần của một tiểu đoàn, được phân công giữ kho gạo
tiếp tế. Tiểu đoàn hành quân xa và hi sinh gần hết,
một số đồng chí sống sót thì bị thất lạc. Kho gạo
cùng đồng chí hậu cần bị bỏ quên. Đồng chí đó
cũng không biết tiểu đoàn mình bị xóa sổ, hằng ngày
vẫn giữ gìn cẩn thận kho lương thực. Hai năm sau, tình
cờ một đơn vị hành quân đi ngang qua bắt gặp và báo
cáo lên cấp trên. Trung ương cho người đến kiểm tra
thì thấy kho gạo còn nguyên vẹn. Đồng chí hậu cần đã
trồng những rẫy hoa màu chung quanh để làm lương thực
cho chính mình. Hằng ngày đồng chí đó xúc một phần
gạo ra phơi rồi đổ vào một kho thứ hai do tự mình làm
lấy. Cứ lần lượt mỗi ngày như thế, gạo được sang
qua sang lại giữa hai kho nên sau hai năm mà số gạo vẫn
còn nguyên vẹn, không hao hụt hay mục nát chút nào.
Anh Quang kết luận:
- Em có thấy rằng tinh thần công
tác đó là đáng biểu dương không?
Tân gật đầu và nói:
- Em hiểu ý nghĩa câu chuyện của
anh rồi. Nhưng tại sao các anh không cho em ở lại văn
phòng nầy làm việc với các anh. Mấy hôm rồi em chép
lại mấy bản báo cáo lên tỉnh ủy và tài liệu học
tập cho các xã đoàn, em thấy….
- Em thấy thế nào?
- Em nói thật, anh đừng rầy em
nhé.
- Ừ, cứ nói đi.
- Em thấy hành văn còn lôi thôi,
tối nghĩa lắm.
Quang quay lại vỗ vai nó ngắt
lời:
- Anh biết rồi. Em đã học nhiều
năm ở trung học, còn các anh ở đây, cao lắm là chỉ
hết bậc tiểu học mà thôi.
- Xin lỗi anh, em không có ý so
sánh đó.
- Không sao. Thành thực là tốt.
Cách mạng quý sức học của em nhưng điều cần thiết
hơn nữa, chính là lập trường giai cấp.
- Nghĩa là sao? Lập trường giai
cấp của em không tốt à?
- Không phải vậy. Em là học
sinh nên thuộc về giai cấp tiểu tư sản. Giai cấp nầy
cũng tốt nhưng không bằng giai cấp công nông. Phải có
lập trường của giai cấp công nông thì mới đẩy cuộc
cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Em hãy về nông
trường một thời gian, cày cuốc như nông dân để dần
dần được đồng hóa vào giai cấp chủ lực đó. Sau đó,
nếu em muốn, các anh sẽ rút em về đây để công tác,
hoặc gởi trả em về làm công tác dân vận trong hàng ngũ
sinh viên học sinh tại Sài gòn. Nhưng thôi, đó là chuyện
về sau. Còn ngay bây giờ, em phải khẳng định tư tưởng
là tuyệt đối chấp hành sự phân công của cách mạng.
Về nông trường, em sẽ được rảnh rỗi để học tập
thêm về chính trị.
- Ở đó có lớp dạy chính trị
hay sao?
Quang lắc đầu cười khì:
- Chẳng có lớp nào cả trong chỗ
khỉ ho cò gáy đó. Em tự học lấy. Anh sẽ cho em một số
tài liệu để mang theo. Đọc cho kỹ những tài liệu đó,
có gì thắc mắc thì ghi lại, lâu lâu về đây, các anh
giải đáp cho.
- Nông trường lớn lắm không,
có tất cả bao nhiêu nhân viên dưới đó?
Quang lại cười to:
- Lớn hay không, ngày mai em đến
đó thì biết. Còn nhân viên thì hiện nay chỉ có một
người duy nhất là đồng chí Thiện mà thôi. Em về đó
thay thế để anh rút đồng chí Thiện về đây đi công
tác tổ chức ở các huyện. Vào ngày mùa, sẽ có nhiều
anh về đó để làm ruộng, còn bây giờ thì đang vào mùa
nắng, lúa đã gặt xong vô kho cả rồi. Em về đó giữ
kho lúa nầy đừng để bị mất trộm. Thỉnh thoảng có
người mang giấy của tỉnh đoàn về lãnh lương thực
thì em ghi vào sổ và cân đủ cho họ. À, còn điều nầy
nữa. Mỗi tháng em cân riêng cho mình hai mươi ký lúa. Đó
là khẩu phần của em. Muối đã dự trữ sẵn, dùng không
hạn chế. Thức ăn thì có cá dưới ao, dưới kinh như em
đã thấy tại đây. Em có thể trồng thêm khoai sắn chung
quanh nhà để cải thiện bữa ăn. Em nên làm điều đó
để sớm hội nhập vào giai cấp nông dân.
Anh Quang nhìn thẳng vào mắt nó
và hỏi:
- Em thông suốt chưa, còn gì thắc
mắc nữa không?
Nó buồn bã trả lời:
- Dạ không.
Sáng hôm sau, cơm nước xong xuôi,
nó lên đường với một người hướng dẫn là một đoàn
viên trong xã. Sau hơn nửa ngày đi bộ, lúc thì dài theo
bờ kinh, lúc thì băng các đồng cỏ dại, vượt qua rất
nhiều cầu khỉ chông chênh, nó đến nông trường. Người
hướng dẫn vào uống nước rồi quày quả trở về.
Gọi là nông trường, thực ra
chỉ là một mái lá, vách làm bằng những thân sậy đan
vào nhau một cách thô sơ. Trong nhà có ba chiếc giường
nhỏ làm bằng thân cây tràm, vỏ tróc ra từng mảng. Nền
nhà bằng đất nện, trên bề mặt gồ ghề chi chít những
mô đất nho nhỏ, trông như vô số những con cóc ngồi
cạnh nhau. Kế bên nhà là một ao dài thông ra kinh bằng
một con mương hẹp. Nước dưới ao đục ngừ, vừa để
nuôi cá, vừa là nơi tắm rửa, giặt giũ hằng ngày. Bên
kia ao là một khu nho nhỏ trồng rau với vài cây cà, cây
ớt, đậu bắp và một giàn mướp lá xanh mơn mởn. Phía
sau nhà, cách non một trăm mét, sâu vào đám cỏ sậy um
tùm là một cái chòi nho nhỏ nép mình dưới đám cây
cao. Đó là bồ lúa dự trữ của văn phòng tỉnh đoàn.
Anh Thiện giải thích với nó
rằng bồ lúa phải để xa nhà vì máy bay bắn phá dọc
bờ kinh thường gây những đám cháy. Anh Thiện là một
thanh niên vạm vỡ, vui tính. Anh tỏ vẻ mừng rỡ khi đọc
giấy giới thiệu nó đến đây thay để anh trở về văn
phòng nhận công tác. Anh bảo:
- Mấy hôm trước, anh nghe tin chú
về đây thay anh nên ngày nào cũng mong. Mùa nầy không
phải làm gì nặng nhọc nhưng ở không suốt ngày một
mình thì buồn lắm. Anh thoát được chỗ nầy rồi, còn
chú thì rán chịu đựng một thời gian. Kháng chiến
trường kỳ gian khổ mà. Sống cô độc cả ngày, cả
tháng cũng là một cách gian khổ vậy. Chú là học sinh
Sài gòn mới vô bưng biền phải không? Anh chưa đi Sài
gòn lần nào nhưng nghe nói trên đó vui lắm, nhà cửa san
sát, người ta nối đuôi nhau mà đi, xe cộ nối đuôi
nhau mà chạy.
Anh chép miệng nói tiếp:
- Khi nào hết giặc rồi, anh sẽ
lên đó chơi một chuyến.
Mới gặp lần đầu nhưng qua lời
nói thật thà của anh, Tân có cảm tình ngay với người
thanh niên nông dân chất phác nầy. Nó dò hỏi:
- Chung quanh đây có nhà dân
không?
- Có, nhưng hơi xa.
Anh nhón chân, chỉ về một phía
dọc theo bờ kinh:
- Nhà đó gần nhất cũng cách
đây hơn ba trăm thước.
- Anh có thường qua đó chơi
không?
- Không. Mỗi tháng, chỉ đến đó
một lần để mượn cối xay lúa cho có gạo mà ăn. Chơi
với ai ở đó. Ban ngày, hai vợ chồng và hai đứa con ra
đồng hết, nhà trống trơn, vắng teo.
- Còn ban đêm?
- Ban đêm thì chơi thế nào được.
Ở đây chẳng có nhà nào có đèn. Ban đêm tối thui, vừa
tắt mặt trời là lo chui vô mùng để trốn muỗi. Chú
chưa sợ muỗi Đồng Tháp mười à?
- Sợ lắm rồi. Ở văn phòng,
buổi chiều em phải mắc mùng để sẵn, nhá nhem tối là
chui vô liền. Có khi vô trễ, vừa mới vén mùng là cả
bầy tranh nhau vô trước mình. Phải nằm yên, để ý
chúng nó đậu chỗ nào trên cơ thể thì đưa tay đập
chết. Có hôm mãi cho đến khuya mới ngủ được.
Thiện cười ha hả:
- Quà tặng đầu tiên của Đồng
Tháp mười đó. Chưa hết đâu, còn nhiều thứ đáng sợ
hơn nữa.
- Thứ gì vậy anh?
- Rắn.
Tân trợn mắt, sợ hãi:
- Rắn gì?
- Đủ thứ. Hổ đất, hổ hành,
hổ mang, cạp nong, cạp nia, choàm quạp, vân vân.
- Nhiều không?
- Nhiều lắm, nhất là vào mùa
nước nổi. Hang bị ngập, rắn bò lên nằm trên bờ
kinh, ban đêm đi dẫm phải là toi mạng. Năm nào nước
lớn ngập cả bờ kinh, rắn bò cả vào nhà, leo lên
giường ngủ chung với người. Có lần, con rắn hổ chui
dưới chiếc đệm của anh. Sáng cuốn đệm, anh thấy nó
nằm chết trên giường. Thì ra ban đêm, anh đã lăn qua đè
nó bẹp dí dưới lưng.
Nhìn vẻ mặt kinh hãi của Tân,
anh Thiện cười khoái trá:
- Nhưng rắn chưa đáng sợ bằng
phi cơ của giặc. Chúng nó có hai loại máy bay. Loại thứ
nhất chỉ có một chong chóng, mang hai quả bom thả rất
chính xác. Nguy hiểm hơn nữa là hai cây đại liên, nhắm
vào vật gì trên mặt đất thì ít khi nào bắn trật.
Loại thứ hai là pháo đài bay bốn chong chóng, rải một
lúc hàng chục quả bom xuống đất. Cả hai loại thường
bay dọc theo các con kinh để oanh tạc. Vì vậy, khi nghe
tiếng ù ù, em cố chạy ra đồng, càng xa bờ kinh càng
tốt.
Anh ngừng nói, nhìn bóng mái nhà
đã dài ra che gần hết mặt ao, rồi tiếp:
- Thôi trễ rồi. Lo cơm nước
cho xong để kịp chui vô mùng. Những thứ đáng sợ trong
bưng biền nầy, kể luôn mấy ngày cũng không hết. Tuy
nhiên, chú đừng lo, dần dần sẽ quen cách đối phó.
Cơm nước xong, mặt trời vừa
lặn, anh Thiện và Tân vội giăng mùng và chui vào. Anh
Thiện vẫn còn háo hức kể chuyện với Tân. Anh có tính
vui vẻ, từ cả tháng nay sống cô đơn nên rất thèm
chuyện trò. Tân là đứa bé lớn lên trong đô thị nên
rất ưa thích nghe những câu chuyện lạ về Đồng Tháp
có liên can đến cuộc sống của nó ở nơi nầy. Vì thế,
câu chuyện giữa hai người mãi tận đến khuya chưa chấm
dứt. Nó cũng lo âu về công việc đồng áng mà từ nhỏ
đến giờ nó chưa hề bắt tay vào lần nào. Anh Thiện
bảo rằng chẳng có gì khó khăn, cốt yếu là biết chịu
cực, sẵn sàng dầm mưa dãi nắng. Khi nó hỏi nông trường
có bao nhiêu ruộng tất cả thì anh trả lời:
- Chẳng có ruộng nào là của
nông trường cả. Dân cũng không ai có đất riêng. Đồng
mênh mông, ai muốn cất nhà ở đâu thì cất, muốn canh
tác thì cứ dọn sạch cỏ sậy mà cấy lúa, làm bao nhiêu
cũng được, tùy theo sức mình. Mỗi mùa lúa, văn phòng
tỉnh đoàn cử về từ ba đến năm anh em, làm được từ
hai đến ba mẫu. Gọi là nông trường tự túc nghe to lắm
chứ thực ra chỉ có thế thôi.
- Các anh làm ruộng có máy móc
hay trâu bò hay không?
- Chẳng có gì cả ngoài tay chân.
Máy thì dĩ nhiên không có rồi. Xăng dầu đâu mà chạy
máy. Trâu bò cũng không còn vì sợ máy bay của Tây giết
chết. Hai năm trước, nông trường có ba con trâu gồm hai
con cái và một đực nên có thể làm số ruộng gấp
nhiều lần ngày nay. Lúa ăn không hết nên bán để mua
vật dụng cho văn phòng, mua áo quần và bồi dưỡng cho
anh em nữa. Về sau, tỉnh đoàn phải nhờ dân lùa trâu ra
khỏi bưng biền bán hết vì mỗi lần máy bay tới phải
đưa chúng đi trốn khó khăn lắm. Người trốn thì dễ
chứ con trâu to tướng lại chẳng chịu nằm yên.
Anh Thiện bỗng nhỏm dậy cười
hí hí và nói:
- Nhắc đến ba con trâu, anh nhớ
đến câu chuyện thực tức cười. Đối với tỉnh đoàn
thì ba con trâu là tài sản rất lớn nên thường xuyên
phải có hai người lo săn sóc, ngoài công việc đồng áng
của mình. Mỗi người đều lo cho trâu ăn, tắm rửa cẩn
thận, còn hơn lo cho vợ con mình nữa vì điểm thi đua
của người dựa vào sức khỏe của trâu. Các anh đặt
cho trâu những cái tên thực đẹp. Con trâu đực có tên
là Minh Quang, hai con trâu cái là Ngọc Lan và Bạch Tuyết.
Chiều chiều, nghe các anh gọi nhau: “Mày đem con Ngọc
Lan đi tắm, kỳ cọ cho kỹ nghe chưa. Riêng con Bạch Tuyết
thì phải rửa vú cho sạch, nó sắp có con với thằng
Minh Quang rồi đó.” Những câu nói như thế nghe thực là
buồn cười trong cái xứ sở mà đàn bà con gái thường
có những cái tên như Thúng, Mủng, Rổ, Rá, vân vân. Một
hôm phái đoàn của cấp ủy về thanh tra nông trường.
Chàng Minh Quang và hai nàng Ngọc Lan, Bạch Tuyết được
cho ăn no nê và tắm rửa sạch sẽ để mang ra trình diện
với cán bộ lãnh đạo. Các đồng chí đó gật đầu hài
lòng nhưng trong buổi họp cuối cùng để đúc kết, tất
cả anh em trong văn phòng tỉnh đoàn bị phê bình đến
méo mặt.
- Tại sao vậy?
- Một đồng chí trong tỉnh ủy
bảo rằng tỉnh đoàn còn nặng tính chất tiểu tư sản
nên đã đặt cho trâu những cái tên rặc mùi tiểu tư
sản. Trâu là người bạn chí thiết của giai cấp nông
dân thì không thể nhận những cái tên tiểu tư sản như
thế được.
Thiện ngừng nói ôm bụng cười
ngặt nghẽo. Tân có vẻ sốt ruột:
- Rồi tỉnh đoàn có bỏ mấy
cái tên đẹp đẽ đó hay không?
- Sao lại không? Đang là cao trào
đấu tranh giai cấp, lời phê bình đó của phía đảng
đâu phải là chuyện đùa. Đồng chí bí thư tỉnh đoàn
đứng dậy thay mặt anh em nhận khuyết điểm và tuyên bố
ngay ba cái tên tiểu tư sản đó. Thằng Minh Quang trở
thành thằng Đực, con Ngọc Lan trở thành con Xoáy vì có
cái xoáy trên lưng, còn con Bạch Tuyết trở thành con Tẹt
vì cái mõm nó hơi ngắn một tí. Về sau, anh em trong văn
phòng tỉnh đoàn rỉ tai với nhau rằng đồng chí tỉnh
ủy phê bình gay gắt hôm đó có bà vợ, cũng là cán bộ
tỉnh, lấy bí danh là Ngọc Lan.
- Trời đất!
Hai anh em cùng cười vui vẻ và
thôi nói chuyện để dỗ giấc ngủ.
Sáng hôm sau, anh Thiện chia tay,
nó bắt đầu sống những ngày cô độc. Trước khi lên
đường, anh Thiện còn dặn nó:
- Em nhớ coi sóc bồ lúa cho kỹ
lưỡng. Đó là lương thực để dùng cả năm cho các đồng
chí ở văn phòng và các đồng chí về công tác tại các
huyện đoàn và xã đoàn. Vào giữa mùa nắng, người ta
thường đốt đồng, coi chừng lửa cháy lan sang bồ lúa.
Khi có máy bay đến, em chạy ra đồng để tránh xa bờ
kinh, nhưng nhớ đừng trốn vào lùm cây che bồ lúa, đề
phòng máy bay trông thấy bắn theo đốt cháy.
Anh suy nghĩ một chút rồi nói
tiếp:
- Còn điều nầy nữa. Duới mé
kinh, ngay nơi miệng mương thông với ao cá của mình, có
một chiếc xuồng nhận chìm dưới đó. Em có thể đưa
lên, tát cạn nước và tập chèo dọc theo kinh. Em hãy cố
gắng tập cho rành. Xứ nầy, đến mùa nước nổi, chỉ
còn phương tiện giao thông duy nhất là chiếc xuồng mà
thôi. Nhưng nhớ kỹ, lúc nào cũng sẵn sàng nhận chìm
xuồng nếu nghe có tiếng máy bay đến. Thấy xuồng nổi
trên mặt nước là bọn giặc quay lui bắn cho thủng nát
mới thôi.
Nói xong điều cuối cùng nầy,
anh khoác ba lô lên vai và ra khỏi nhà. Nó đứng trên bờ
kinh trông theo cho đến khi anh khuất dạng. Nó quay lui,
buồn bã nhìn căn nhà vắng lặng.
Nó bước ra bờ ao, ngồi xuống
trên thềm đất, thẩn thờ nhìn mặt nước một màu nâu
pha xám. Cá trong ao liên tục nổi lên đớp khí, vẽ trên
mặt nước những gợn sóng lăn tăn tạo thành những vòng
tròn đồng tâm lan dần ra đến thành ao loang lỗ.
Một lúc sau, nó đứng dậy vào
bếp, nhúm lửa nấu cơm. Cơm vừa chín, nó bắc nồi
xuống, gác một con cá khô nhỏ lên chỗ than còn đỏ. Nó
bỗng giật mình vì nghe tiếng la í ới xa xa. Nó nhỏm
dậy, cố lắng tai nghe. Có tiếng ù ù của phi cơ mỗi
lúc một rõ dần. Nó hoảng hốt chạy ra sau nhà, lướt
qua khoảng sân hẹp và phóng vào đám cỏ sậy rậm rì.
Nó ngã sấp người, những thân sậy gãy rôm rộp dưới
sức nặng của nó. Nó nằm yên nhắm nghiền mắt, choáng
váng vì tiếng gầm thét của nhiều phi cơ vút ngang qua.
Tiếng rú nhỏ dần và kết thúc bằng những tiếng nổ
lớn kèm theo nhiều loạt súng giòn giã.
Nó nằm bất động một lúc lâu
cho đến khi không gian trở lại hoàn toàn vắng lặng,
nghe rõ tiếng gió nhẹ rì rào trên đầu cỏ sậy. Nó
nhỏm dậy, vào nhà, tim chưa hết đập thình thịch trong
lồng ngực. Nó nhìn vào bếp thấy con cá khô đã cháy
đen thành than. Nó lắc đầu ngao ngán, vói tay lấy một
nhúm muối trong hũ rồi ngồi xuống dỡ cơm ra ăn.
Buổi chiều, có hai người đàn
bà đi ngang qua, ghé vào xin nước uống, kể cho nó nghe
cuộc oanh tạc khi trưa làm cho một người chết và hai
người bị thương. Họ đi rồi, nó nằm vật xuống
giường, nghĩ ngợi miên man. Nó cảm thấy bây giờ nó
mới thực sự dấn thân vào con đường cách mạng cũng
như vào cuôc chiến tranh đang dày xéo quê hương. Trong
những năm dài vừa qua, nó sống trong thành phố an lành,
không có tiếng súng và bom đạn như ở nơi đây.
Những ngày đơn độc lặng lẽ
trôi qua, nó quen dần với nếp sống trong chiến khu. Cứ
vài ba ngày, phi cơ lại xuất hiện một lần. Nó không
còn hoảng hốt như lần đầu mà bình tĩnh chui vào ẩn
núp trong đám cỏ sậy sau nhà, nằm ngửa mặt lên nhìn
những chiếc phi cơ đen thui vút qua sát rạt như gần chạm
đến những cây sậy trên cánh đồng.
Ngày Tết Nguyên đán lặng lẽ
trôi qua với một ít đường và bánh kẹo từ văn phòng
tỉnh đoàn gởi về cho nó. Sau ngày Tết, người ta bắt
đầu đốt đồng. Ngọn lửa nhóm lên từ nhiều nơi lan
rộng dần làm cho nhiều khoảng rộng trên cánh đồng trở
nên phẳng phiu và chân trời biến mất sau bức tường
khói xám.
Gần ba tháng sau, trận mưa đầu
mùa đổ xuống trên lớp tro xám đen của cánh đồng, báo
hiệu mùa sản xuất của nông trường sắp đến. Cuộc
sống cô độc và buồn bã của nó chấm dứt và nó sắp
bắt đầu lao vào công việc đồng áng nặng nhọc cùng
với những cán bộ sẽ được văn phòng luân phiên cử
về.
Một hôm, nó được lệnh nhắn
về là phải đi xay một số lúa khá lớn dùng làm lương
thực trong suốt những ngày mùa. Nó vui vẻ thực hiện và
nóng lòng chờ đợi.
Hai hôm sau, khi mọi người đã
đến đông đủ, công việc đồng áng bắt đầu. Trên
vùng đất sau nhà, anh em dọn sạch những lùm bụi còn
sót lại sau vụ đốt đồng. Một cái bờ đất thấp
dược đắp lên chung quanh miếng đất để giữ nước.
Mặt đất bằng phẳng, đen thui, mầu mỡ được xom lỗ
thành hàng lối để sẵn sàng nhận những hạt lúa giống
đầu tiên.
Trong khi chờ đợi một trận mưa
to để bắt đầu gieo hạt, Tân được phép đi dự một
cuộc xử án công khai. Can phạm là những tên lính bảo
an bị bắt trong một cuộc càn quét do Pháp chỉ huy vào
vùng giải phóng. Tòa án nhân dân đuợc thiết lập trên
một khoảng đất khô ráo, sát bờ kinh xáng Thiên hộ
Dương, cách xa nông trường trên mười cây số. Tại đây,
vì sợ máy bay tuần tiểu phát hiện nên đến chiều tối,
người ta mới chở cây và ván đến, cấp tốc đóng một
cái bục rộng và thấp như sân khấu diễn văn nghệ,
trên đó có một số bàn ghế dành cho quan tòa và hội
thẩm nhân dân.
Trước sân khấu, sẽ có hàng
trăm đồng bào đến dự ngồi thành hai dãy dài cách nhau
một khoảnh trống khá rộng. Phía trước khoảng trống
đó, sát với sân khấu là một thanh ngang cột trên hai
trụ. Đó chính là vành móng ngựa, nơi mà mỗi phạm nhân
sẽ lần lượt đứng im, nghe quan tòa định đoạt số
phận của mình.
Từ nông trường, Tân đi bộ gần
ba giờ đồng hồ mới đến nơi. Trời đã sẫm tối. Từ
xa, nó dễ dàng nhận ra nơi xử án nhờ ánh đèn điện
lấp loáng, tiếng người lao xao hòa lẫn với tiếng nổ
phành phạch của máy phát điện. Nó đi vội đến và
ngồi lẫn vào với đám người đang vừa cười nói ồn
ào, vừa luôn tay xua đàn muỗi đói.
Nó nhìn lên sân khấu. Trong bóng
đêm dày đặc, những bóng người hiện rõ dưới ánh
sáng của những bóng đèn điện từ trên cao tỏa xuống.
Họ mặc áo quần đen, khăn rằn quấn vòng qua cổ. Họ
ngồi yên, nét mặt nghiêm nghị và lạnh lùng, thỉnh
thoảng đưa tay đập muỗi nơi những vùng cơ thể không
được áo quần che chở.
Chợt có tiếng lao xao rồi nín
bặt. Mọi người đồng loạt ngoái cổ nhìn ra sau. Từ
bờ kinh lớn, có hai người cầm đuốc đi đầu, kế tiếp
là một nhóm người tay bị trói sau lưng, ba người cầm
súng theo sau và cuối cùng là hai cây đuốc. Tất cả đều
im phăng phắc trong khi đoàn người lặng lẽ tiến vào.
Những người cầm súng đẩy những người bị trói đến
giữa chỗ trống. Các phạm nhân đứng yên, cúi gầm mặt
xuống đất.
Tiếng loa rè rè cất lên đột
ngột:
- Mời các đồng chí và đồng
bào chuẩn bị chào cờ.
Mọi người vội đứng lên, lắng
nghe bản quốc ca phát ra bằng tiếng hát lạc điệu và
chói tai trong loa. Sau phút mặc niệm, mọi người ngồi
xuống trong tiếng nói ồn ào. Tiếng nói trong loa ra lệnh
cho các phạm nhân cùng ngồi xuống như những người tham
dự.
Tân nhướng cổ nhìn vào đám
phạm nhân. Nó lẩm nhẩm đếm đi đếm lại. Có mười
người. Tất cả đều mặc quần ngắn, phân nửa trong số
họ mặc áo, phân nửa ở trần. Tân thoáng rùng mình. Nó
hình dung đó là những miếng mồi béo bở cho đàn muỗi
đói đang bay dày đặc trong không gian. Quả thực, đám
phạm nhân không thể ngồi yên. Hai tay bị trói quặt sau
lưng, họ lắc bên nầy, lắc bên kia một cách tuyệt
vọng, có người cúi xuống thổi phù phù vào hai đùi
trần bên dưới. Tân bỗng cảm thấy một nỗi xót xa
trong lòng.
Tiếng loa rè rè lại phát lên.
Người ta tuyên bố lý do và gọi tên người bị xử đầu
tiên. Lập tức hai bóng đen bước vào xóc một phạm nhân
đứng lên, đẩy đứng sát vào thanh gỗ dùng làm vành
móng ngựa. Hắn đứng yên nhìn lên sân khấu, miệng há
hốc, đôi mắt thất thần. Có tiếng lộc cộc trong loa.
Mọi người im phăng phắc, chỉ còn nghe tiếng máy phát
điện từ xa và tiếng muỗi vo ve. Giọng nói trong loa phát
ra, nghe thực khó chịu:
- Phạm nhân Nguyễn văn Tâm, hai
mươi ba tuổi, ngụ tại Mỹ tho, con của Nguyễn văn Tý
và Đặng thị Nhỏ, đi lính cho giặc Pháp từ tháng tám
năm một ngàn chín trăm năm mươi.
Tiếng loa tiếp tục liệt kê
những cuộc hành quân càn quét mà phạm nhân đã tham dự,
cùng những tội giết người, cướp của, đốt nhà mà
phạm nhân đã nhúng tay vào. Tiếng loa dừng lại. Trong
đám đông có tiếng thét to:
- Quân ác ôn, tử hình.
Nhiều tiếng phụ họa theo:
- Tử hình, tử hình, tử hình.
Giọng nói trong loa cố thét to
lên:
- Đồng bào căm thù tên Việt
gian ác ôn nầy là đúng, nhưng bây giờ, xin đồng bào
hãy bình tĩnh im lặng nghe tôi đọc tiếp bản án. Tổng
cộng lại, tên Nguyễn văn Tâm đã trực tiếp hay gián
tiếp giết chết tất cả bốn người trong đó có một
phụ nữ, đốt ba căn nhà, cướp nhiều tài sản của
nhân dân. Đây là tên khát máu, giết người không gớm
tay.
Nhiều tiếng thét lại nổi lên:
- Tử hình, tử hình, tử hình.
Tân nhướng mắt nhìn vào tên ác
ôn đang đứng tựa vào thanh gỗ, đầu cúi xuống, thân
mình xiêu xiêu như sắp sụm xuống đất. Nó muốn nhìn
mặt tên nầy nhưng không thể được vì hắn đang quay
lưng về phía nó. Tân quay lại những phạm nhân kia. Chắc
chắn đây cũng là những tên ác ôn không kém. Tân nhìn
chăm chăm vào mặt chúng với chút tò mò muốn khám phá
ra một nét nào đó chứng tỏ bản chất khát máu, giết
người không gớm tay. Tuy nhiên, nó thất vọng, nét mặt
chúng trông chất phác hiền lành, đôi mắt mở to, toát
ra nỗi sợ hãi và cam chịu thân phận con người.
Giọng nói trong loa lại vang to:
- Đồng bào hãy bình tĩnh. Tên
ác ôn sẽ bị trừng trị đích đáng. Tuy nhiên chúng ta
phải để cho tòa án làm hết thủ tục. Bây giờ đến
phần biện hộ của luật sư. Tôi xin giới thiệu đồng
chí Ba Lài do văn phòng tỉnh hội phụ nữ cử làm luật
sư biện hộ.
- Tử hình, tử hình, tử hình,
không cần biện hộ.
Tiếng thét trong đám đông làm
cho bầu không khí tiếp tục sôi động ồn ào.
Trên khán đài, một người đàn
bà đứng dậy nhận chiếc loa cầm tay. Tân biết đó
chính là luật sư biện hộ. Thấy phạm nhân sắp được
biện hộ, tự nhiên nó cảm thấy một nỗi vui mừng thực
vô lý. Nó chăm chú theo dõi từng cử động của ngưòi
bàn bà. Chị nầy hướng loa vào đám đông và đọc từng
chữ trên một mảnh giấy cầm tay:
- Thưa các đồng chí và đồng
bào, tôi được tỉnh hội phụ nữ và toà án cử biện
hộ trong phiên xử nầy. Tên Nguyễn vân Tâm là một tên
Việt gian bán nước, làm tay sai cho giặc Pháp chống phá
cách mạng, giết hại đồng bào. Theo cáo trạng đã được
đọc thì nó đã nhiều lần hùa theo quân Pháp trong các
cuộc hành quân càn quét, bắn giết chiến sĩ của ta, đốt
nhà cướp của, hãm hiếp phụ nữ, tội ác ngày càng
chồng chất, thực khó dung tha.
- Đúng, đúng, hoan hô đồng chí
luật sư. Tử hình, tử hình!
Tân cảm thấy mệt mỏi và khó
chịu vì tiếng la ồn ào cùng tiếng loa the thé của chị
luật sư biện hộ. Nó không muốn nghe tiếp phần biện
hộ của luật sư nữa nên đứng dậy, lom khom lách qua
những người đang ngồi. Khi thoát qua được đám đông,
nó đứng thẳng và hướng về hàng cây cao của bờ kinh
lầm lũi bước tới. Trước mắt nó, con kinh xáng trông
như một dải sáng bạc thẳng tắp. Nó đứng yên một
chút cho mắt quen với bóng đêm. Con đường đi trên bờ
kinh hiện ra lờ mờ dưới ánh sáng của trăm ngàn tinh tú
trên bầu trời không gợn chút mây.
Nó vội vã bước tới. Sau lưng
nó, tiếng loa the thé của người nữ luật sư, tiếng
thét nổi lên từng chặp của đám đông, mỗi lúc một
nhỏ dần. Nó tiếp tục bước tới, băng qua nhiều cây
cầu khỉ và cuối cùng dừng lại trên một khoảng trống
be bé bằng phẳng. Nó biết đó là cái nền của một
ngôi nhà mà người ta đã dời sâu vào trong đồng trống
kể từ khi máy bay tăng cường những cuộc oanh tạc dọc
trên bờ kinh xáng nầy. Nó quay đầu nhìn lại. Những
bóng đèn điện thấp thoáng như một chùm sao trên chân
trời thăm thẳm. Dải ngân hà sáng bạc vắt ngang qua bầu
trời lốm đốm sao. Nó cố lắng tai nghe, nếu còn tiếng
loa thì nó sẽ tiếp tục đi xa hơn nữa. Tuy nhiên, không
gian vắng lặng, chỉ còn nghe tiếng lá cây rung phần phật
vì ngọn gió đồng bằng thổi đến từng cơn. Nó hít
một hơi dài, lồng ngực căng đầy không khí trong lành.
Nó thở mạnh và cảm thấy như vừa trút bỏ được một
nỗi ưu phiền vô cớ.
Nó nghiêng mình cởi chiếc ba lô,
kéo hai sợi dây cột, lôi ra chiếc nóp bằng đệm trải
trên nền đất và cẩn thận chui vào. Nó lăn người nằm
ngửa đè trên mép đệm làm cho chiếc nóp căn ra tạo một
khoảng trống tối đen. Nó cảm thấy an toàn trong khoảng
trống nho nhỏ bao quanh. Nó muốn bỏ rơi tất cả bên
ngoài để tìm một giấc ngủ nhưng hình ảnh buổi xử
án cứ đeo mãi nơi trí não nó. Trước mắt nó, lại hiện
ra những phạm nhân cúi gập người cố thổi vào đùi
cho bay những con muỗi đói hung dữ, tai nó cứ văng vẳng
những tiếng “tử hình, tử hình” của đám đông và
giọng the thé đầy căm phẩn của chị luật sư biện hộ.
Cuối cùng giấc ngủ cũng đến, một giấc ngủ chập
chờn, đầy mộng mị.
Nó tỉnh giấc ngay sau tiếng súng
nổ đầu tiên. Nó vùng dậy, chui ra khỏi nóp, ngồi yên
lắng tai nghe. Lại một tiếng nổ nữa. Nó lẩm bẩm:
- Hai.
Những tiếng súng nối tiếp nhau
từng khoảng ngắn. Nó tiếp tục đếm theo:
- Ba, bốn…, mười một, mười
hai, mười ba.
Nó chui ra khỏi nóp, ngồi ngây
người nhìn về hướng những tiếng súng phát đi nghe rõ
mồn một, không xa lắm. Nó lại lẩm bẩm:
- Mười ba, hết rồi. Mà tại
sao lại mười ba? Chỉ có mười người thôi mà. Có thể
mỗi người nhận hai viên, một viên xử tử và một viên
ân huệ. Nhưng biết đâu mỗi người nhận một số đạn
nhiều hơn, nghĩa là những án tử hình đêm nay bớt đi,
nó hi vọng như thế. Nhưng nếu vậy thì làm sao chia đều
số đạn cho mỗi người?
“Làm sao chia đều số đạn cho
mỗi ngưòi?”
Nó cảm thấy những mạch máu
trên đầu nó căng cứng, tạo nên những tiếng “bong
bong” khó chịu trong hai tai. Nó nhìn sâu vào cánh đồng
và sợ hãi khi hình dung những linh hồn vừa vụt bay lên
khỏi thân xác lủng lỗ chỗ nằm sóng soài trên mặt
đất. Nó rùng mình nhắm mắt lại, hai tay ôm đầu.
Trên không trung, có tiếng vạc
ăn đêm kêu lên những tiếng buồn thảm. Nó mở mắt,
chợt nhận ra mảnh trăng hạ tuần vừa ra khỏi đám mây,
đang treo lơ lửng, mờ mờ in bóng hàng cây cao đổ dài
trên mặt đất. Dưới kinh, cá quẩy mạnh trên mặt nước,
xa xa vọng lại tiếng gà gáy hiệp đầu tiên. Nó chui vào
nóp và nằm thao thức cho đến khi ánh bình minh đến xua
đuổi bóng tối của một đêm dài nặng nhọc.
*
* *
Sự canh tác ở Đồng Tháp mười
không giống nơi khác. Ở đây, đồng rộng mênh mông, đất
đai không thuộc quyền sở hữu của ai cả nên tha hồ
chọn lựa nơi làm mùa. Người ta thường chọn nơi đất
không quá cao hoặc quá thấp. Nơi quá cao, lúa không đủ
nước lúc đầu. Nơi qua thấp thì khi nước đầy trong
kinh tràn vào ruộng, lúa chưa kịp gặt đã ngập mất
rồi. Do đó, nông dân thường tập trung vào một chỗ
thuận lợi, những miếng đất sát bên nhau, ranh giới là
những bờ đất đơn sơ.
Những con kinh, suốt mấy tháng
nắng vắng lặng bỗng vui nhộn hẳn lên. Những căn chòi
tạm bợ cất vội trên bờ và một xóm mới xuất hiện.
Ban ngày mọi người đều ra đồng, chiều về khói ấm
tỏa ra trên các mái tranh, bọn trẻ chơi đùa la hét trên
bờ kinh, đàn ông tụm năm tụm ba khề khà chén rượu.
Việc canh tác thực là giản dị,
người ta không phải đổ công cày xới. Mặt ruộng được
phủ đầy một lớp mầu mỡ, bên dưới là lớp phù sa
mà sông Cửu long mang về trong mùa lũ trước, bên trên là
lớp tro xám đen do vụ đốt đồng trong mùa nắng vừa
qua để lại. Người ta dùng một thanh gỗ tròn đầu
nhọn, xom một lỗ xuống đất, rắc vào đó vài hạt lúa
rồi lấp lại. Những cơn mưa dội đến làm những hạt
lúa nẩy mầm và không bao lâu mặt đất khoác chiếc áo
màu xanh mơn mởn.
Kể từ lúc những hạt lúa được
vùi trong đất cho đến khi mùa màng hoàn tất, nông dân
phải đổ nhiều công sức vào ban đêm để ngăn chuột
cắn phá. Chuột trên cánh đồng hoang nhiều không kể
xiết. Suốt mùa nắng, chúng núp kỹ dưới những hang
sâu, sinh sôi nẩy nở, đợi lúc sa mưa là tràn lên cắn
phá. Chung quanh miếng ruộng, người ta phải đặt rất
nhiều bẫy và mỗi đêm phải thức dậy ít nhất ba lần
đi quanh đám lúa, đưa những con chuột chết vì sập bẫy
ra ngoài và dương bẫy lại.
Năm nay, mùa mưa đến khá sớm
nên mới đầu tháng năm, hạt đã gieo gần khắp thửa
ruộng của nông trường. Tân được các anh phân công đảm
nhiệm công việc diệt chuột để bảo vệ cho những hạt
lúa vừa được vùi trong đất. Hằng đêm, nó thức dậy
ba lần, đốt đuốc ra đồng. Một hôm, sau lần thăm bẫy
đầu tiên, nó chuẩn bị về ngủ thì bỗng nghe tiếng
nói to từ xa vọng đến. Trong đêm thanh vắng triền miên
của cánh đồng mênh mông nầy, tiếng nói nghe thực lạ
lùng. Nó vội leo lên bờ ruộng, đứng thẳng, lắng nghe.
Nó nhận ra đó là tiếng loa phát ra từ đầu kinh và từ
từ tiến về phía nông trường, mỗi lúc một rõ dần:
- Đồng bào nghe đây. Điện biên
phủ thất thủ, Điện biên phủ thất thủ, bộ đội ta
toàn thắng đã chiếm được ngọn đồi chỉ huy của
tướng Pháp. Toàn bộ quân đồn trú đã ra hàng.
Tân vứt giỏ chuột, đưa cao bó
đuốc, bước vội về nhà. Nó phải gặp ngay các anh để
cùng vui với tin chiến thắng nầy. Nó bước lên một mô
đất trơn, trượt chân ngã chúi xuống, ngọn đuốc chắm
vào vũng nước xèo một tiếng và tắt ngúm. Nó đứng
dậy, vuốt chiếc áo lấm bùn đất, nhìn về hướng bờ
kinh, dưới ánh trăng sáng tỏ, thấy bóng người lố nhố
trên bờ, bóng họ in rõ trên nền trời trắng đục. Nó
sải những bước dài trên mặt ruộng và leo lên bờ.
Dưới kinh, một chiếc ghe cũng vừa chèo tới. Một người
đứng thẳng giữa ghe, cầm loa quay sang hai bên bờ, lặp
đi, lặp lại tin chiến thắng. Mọi người đứng trên bờ
vỗ tay hoan hô, trẻ em reo hò, có đứa cầm một vật gì
đó ném theo ghe.
Ghe đi xa rồi, tiếng loa chỉ còn
nghe văng vẳng, mọi người trở vào nhà, tiếp tục bàn
tán xôn xao. Anh Thanh mở vội ba lô, lôi ra một gói giấy
khá to và nói:
- Ăn mừng, anh em ơi. Tôi đóng
góp một gói đường. Ai có gì cứ đóng vào để liên
hoan.
Giọng anh Thiện ồm ồm:
- Tao chẳng để dành món gì cả,
nhưng có mấy đồng của bà già vừa gởi cho, tao sẽ mua
trà và đậu về nấu chè với cục đường của mày. Đứa
nào còn tiền thì góp vào, sáng mai tao đi mua.
Tối hôm sau, với một nồi chè
to tướng, cuộc liên hoan mừng chiến thắng Điện biên
phủ kéo dài đến quá nửa đêm. Sau đó mọi người chui
vào mùng ngủ để lấy sức lo việc đồng áng ngày mai.
Năm nay, mưa gió thuận hòa, lúa
nẩy mầm đều đặn, những cây lúa non vươn mình lên
một cách mạnh mẽ. Công việc đồng áng tạm ngưng, các
anh trở về văn phòng nhận công tác, nó lại thui thủi
một mình giữ gìn miếng ruộng.
Lúa đã sắp trổ đòng đòng,
người ta gọi đó là lúa con gái, trông thực là dễ
thương. Thỉnh thoảng người nào đi ngang nhìn cũng tấm
tắc khen ngợi. Điều đó báo hiệu một mùa thu hoạch
tốt trong vòng một hai tháng nữa. Tân nhìn miếng ruộng
thấy rất vui thích trong lòng. Công sức đầu tiên của
nó đổ ra sắp biến thành những hạt lúa vàng quý báu.
Một buổi chiều, nó ra ngồi
trên bờ ruộng ngắm những bông lúa non thì lại nghe
tiếng loa phát ra từ phía đầu kinh. Cũng như lần trước,
người ta dùng ghe để đi rao một tin quan trọng. Đó là
tin hiệp định Genève vừa được ký kết, hoà bình vừa
được lặp lại.
Nó không bị bất ngờ vì tin
nầy, nhưng cũng nhảy cẫng lên mừng rỡ. Từ ít lâu
nay, mỗi lần ở văn phòng về, các anh đều có mang theo
những tài liệu và những bản tin về hòa hội đang diễn
ra trên đất Thụy sĩ. Ai cũng tin rằng hiệp định hòa
bình sẽ được ký kết trong nay mai.
Bây giờ thì điều đó đã đến
rồi. Đất nước đã được thanh bình. Súng ngưng nổ,
máy bay không còn vào đây để oanh tạc nữa. Nhưng số
phận của nó sẽ ra sao khi hòa bình được lặp lại? Nó
còn phải ở lại một cách cô độc để giữ bồ lúa
cho tỉnh đoàn và đêm đêm đi bẫy chuột để bảo vệ
cho đám lúa nữa hay không?
Những câu hỏi đó làm cho nó
sống trong nỗi bất an, lúc nào cũng trông ngóng các anh
về, đem theo chỉ thị cấp trên đến cho nó.
Bốn ngày sau, chỉ một mình anh
Thiện trở về. Vừa bước vào nhà, anh ôm chầm lấy nó
hét to:
- Hòa bình rồi, chú biết chưa?
Nó vội trả lời:
- Em biết rồi. Nghe loa phát thanh
từ bốn hôm trước, em ngồi đợi các anh ngày nầy qua
ngày khác.
- Tụi anh đang đi công tác thì
được lệnh trở về ngay. Anh Quang đốc thúc anh về gấp
nông trường để báo tin cho em.
Tân hỏi vội:
- Bây giờ thế nào? Mình còn
tiếp tục sản xuất ở nông trường nầy hay không?
- Nông trường nầy bị dẹp bỏ,
tình thế đã thay đổi hoàn toàn. Sáng mai, chúng ta rời
nơi nầy. Chú về văn phòng sẽ được học tập để
hiểu rõ tình hình chung của đất nước.
- Rồi số phận của em sau đó,
anh có biết sẽ được định đoạt thế nào không?
- Anh không rõ lắm. Có lẽ cũng
như những người khác. Một là tập kết ra Bắc, hai là
ở lại miền Nam tiếp tục chiến đấu.
- Chiến đấu? Hòa bình rồi mà.
- À, chiến đấu bây giờ có
nghĩa là đấu tranh chính trị, chứ không còn chiến đấu
bằng súng đạn nữa.
Anh vụt quay lại hỏi nó:
- Chú còn nhớ lão Tư Cám không?
- Có. Ông lão đã đưa em từ
Thiên hộ vào đây, em chưa có dịp trả ơn cũng như chưa
có dịp về thăm.
- Ông Tư bị lính giết chết
rồi.
Tân sửng sốt:
- Trời ơi, hòa bình rồi mà, sao
còn bị lính giết chết?
- Không, ông Tư chết cách nay gần
một tháng. Sáng nay đi qua nhà chú Tám công an xã, anh mới
hay tin.
- Tại sao ông Tư chết vậy?
- Chú Tám chỉ kể qua loa vì anh
đang trên đường về đây. Chuyến liên lạc cuối cùng
đó, ông Tư chở một cán bộ trong nầy ra lúc trời chưa
sáng. Lính trong đồn gọi lại. Anh cán bộ sợ quá vội
phóng xuống sông. Lập tức, lính nổ súng rào rào xuống
nước. Anh cán bộ lặn một hơi vào bờ, băng đồng trở
lại. Ông Tư lẫn xuồng trúng đạn chìm xuống đáy kinh.
Mấy hôm sau đồng bào ngoài đó vớt được xác ông, báo
tin cho con gái về chôn cất. Xã có làm một lễ truy điệu
đơn sơ cho ông Tư.
Tân sững sờ nhìn ra sân.
“Qua muốn nhận em làm con út
của qua. Qua muốn có một đứa con trai…”. Trong thời
gian vừa qua, thỉnh thoảng nó nghĩ đến ông và có ý
định về thăm nhưng chưa thực hiện được.
“Qua cũng muốn ra ở với con
gái cho yên ổn tuổi già…”. Bây giờ thì ông không còn
tuổi già nữa để mà yên ổn. Ông cũng không kịp thấy
nền hòa bình mà ông ao ước trong biết bao nhiêu năm rồi.
Thấy nó ngồi buồn bã, anh Thiện
bảo:
- Tội nghiệp. Chú Tám công an
bảo ông lão thiệt là hiền lành và tốt bụng. Già cả
như vậy mà ai nhờ việc gì, dù là nguy hiểm cũng cố
làm giúp. Nghe tin ông chết, cả xã đều thương tiếc.
Nhưng thôi, chiến tranh mà, cả triệu người đã hi sinh.
Bây giờ hòa bình rồi, không còn chết chóc nữa. Chú
buồn một chút như thế đủ cho ông Tư rồi, dậy lo dọn
dẹp đi, sáng mai lên đường sớm.
- Rồi có trở lại đây không
anh?
- Chưa biết. Có lẽ đi luôn
không trở lại.
- Nếu không trở lại thì nhà
nầy, bồ lúa giao cho ai? Đám ruộng của mình tốt quá,
lúa sắp đơm bông.
- Bỏ đó, chính quyền xã sẽ
đến nhận. Sau đó họ chia cho ai mặc họ.
Tân vụt đứng dậy, bước ra
cửa. Anh Thiện hỏi to:
- Chú đi đâu đó?
Nó quay lại:
- Em ra thăm ruộng, từ giã những
cây lúa. Từ ngày mai, em không còn trông thấy chúng nó
nữa.
Anh Thiện mỉm cười, nhìn theo
cái bóng cao và gầy của nó lững thững bước qua cái
sân hẹp, khuất sau đám cây che bồ lúa rồi hiện ra trên
bờ ruộng. Gió chiều lồng lộng, thổi tung vạt áo trước
của nó bay phần phật như một cánh buồm bé tí. Nó đưa
tay kéo vạt áo đè chặt vào trước bụng. Cái áo chỉ
còn hai hột nút. Đó là chiếc áo mà nó đã mặc gần
một năm nay, chiếc áo màu xanh thẫm mà chị Chi đã mua
cho nó trong đêm cuối cùng nó sống tại Sài gòn. Chiếc
áo đã trở nên bạc thếch, vai sờn, lưng lốm đốm
nhiều lỗ thủng.
Nó đứng yên nhìn đám ruộng
moat lát rồi chậm rãi trở vào nhà, mặt buồn rười
rượi.
Sáng hôm sau, hai anh em khởi hành
lúc trời chưa sáng, trưa thì về đến văn phòng. Ngay lập
tức, nó xin phép trở lại thăm nhà ông Tư Cám. Nó hối
hả rảo bước trên bờ kinh trơn trợt vì trận mưa đêm
qua. Nước trong kinh bắt đầu dâng cao, có nơi chảy róc
rách vào đồng qua những con mương nhỏ cắt ngang bờ
kinh. Rải rác trên đường đi, những hố cá nhân để
tránh máy bay, miệng hố lở loét, nước lấp xấp lưng
chừng bên dưới. Hai bên bờ kinh, trên những đám ruộng,
lúa đã lên cao, phía sau là đồng cỏ sậy xanh um trải
dài đến tận chân trời. Mặt trời đã quá đỉnh đầu,
cái bóng đen cụt ngủn của nó lướt nhanh trên nền đất,
theo những bước chân sải đều trên bờ con kinh Bằng
lăng dài hun hút. Đến một cây cầu khỉ bắt ngang qua
một dòng kinh chắn ngang trước mặt, nó vội vàng rẻ
trái, bước thêm một đoạn nữa và dừng lại, đứng
ngẩn ngơ.
Nhà ông Tư Cám biến mất, chỉ
còn một cái nền gần như trơ trụi. Nó nhớ lại cái
đêm đầu tiên vào đến chiến khu, nhớ lại giây phút
run sợ nằm trốn dưới đáy xuồng, ngang qua đồn canh ở
ngã ba kinh lớn, nhớ những bữa cơm gạo lứt đầy tình
đầy nghĩa trong những ngày chờ đợi trong căn nhà bé
nhỏ trên cái nền đất ướt nầy.
Có tiếng chèo khua nước phía
sau. Nó quay lại và đưa tay vẫy. Một chị đàn bà ngồi
trước mũi xuồng khuấy mạnh mái chèo cho chiếc xuồng
dừng lại, tấp vào bờ. Chị hỏi nó:
- Chú quá giang đi đâu?
Nó đưa tay chỉ vào nền nhà
trống và nói:
- Không, em muốn tìm nhà ông bà
Tư Cám ở đây nầy.
- Ông Tư đã chết gần một
tháng nay. Bà Tư đã dỡ nhà ra chợ ở với con gái rồi.
- Chị có biết bà Tư ra ở chỗ
nào không?
Chị lắc đầu:
- Không biết. Ra Thiên hộ hay về
tuốt Cai lậy thì không rõ. Chú cứ ra ngoài đó hỏi thì
có thể tìm ra được. Bây giờ hòa bình rồi dễ đi lắm.
Cái bót ở ngoài vàm Bằng lăng không còn xét hỏi nữa.
Mấy ông lính ngồi trên bờ, thấy ghe xuồng đi ngang thì
vẫy tay chứ không còn la hét dễ sợ như lúc cón đánh
nhau. Hòa bình rồi mà, mình đâu còn thù ghét nhau nữa.
Chừng như nghĩ mình đã nói quá
nhiều với người xa lạ, chị dừng lại đột ngột,
chống mái chèo vào bờ, đẩy mũi xuồng ra giữa dòng
kinh và vội vã bơi đi.
Tân quay lui và rảo bước trở
về văn phòng. Mặt trời nghiêng về phía dòng kinh, mặt
nước óng ánh hắt tia nắng lên làm cho nó khó chịu. Mồ
hôi lấm tấm thấm vào hai mắt. Nó dừng lại dưới bóng
mát của hàng cây điên điển, vén vạt áo lên lau mặt.
Nó ngoái cổ lại nhìn về hướng ngã ba kinh lớn, tai còn
như văng vẳng giọng người đàn bà: “Bây giờ hoà bình
rồi, dễ đi lắm, mình không còn thù ghét nhau nữa…”
Nó thở dài. Phải rồi. Hòa
bình, hòa bình, ai đi ngang qua cái bót đó cũng được,
không cần sự đưa đón của ông già hiền lành phúc hậu
nữa. Ông chẳng còn công việc gì trên thế gian nầy nên
ông đả bỏ cõi trần để về bên kia thế giới.
*
* *
Tân được học tập liên tiếp
ba ngày. Học văn bản hiệp định Genève, học tình hình
trong nước và thế giới, học nhiệm vụ mới của cách
mạng, chuyển từ đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính
trị để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử hai năm sắp
tới. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm đôi ngang
qua sông Bến hải ở vĩ tuyến Mười bảy. Miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng, đảng cùng nhân dân sẽ
kiến thiết xứ sở bị chiến tranh tàn phá. Ở miền
Nam, các cấp chính quyền cách mạng bị giải tán. Chiến
khu cũng không còn nữa, cán bộ và bộ đội phải tập
kết về miền Bắc. Tuy nhiên cuộc đấu tranh ở miền
Nam không phải là chấm dứt mà chuyển sang giai đoạn gay
go hơn; đó là đấu tranh ngay trong lòng địch, lôi kéo
nhân dân miền Nam về với cách mạng, bảo đảm sự
thắng lợi hoàn toàn trong kỳ tổng tuyển cử hai năm sắp
tới.
Đợt học tập chấm dứt sau một
ngày thảo luận sôi nổi. Buổi chiều, sau bữa cơm, anh
Quang rủ Tân ra ngồi trên bờ kinh.
Anh mở lời:
- Đợt học tập vừa rồi rất
quan trọng, nhưng anh thấy em rất ít phát biểu ý kiến
mà có vẻ lo ra. Tại sao vậy?
- Vì em cứ lo nghĩ không biết số
phận mình sẽ ra sao trong những ngày sắp tới?
Anh Quang gắt lời:
- Tương lai của mỗi cá nhân sẽ
được giải quyết ổn thỏa cả thôi. Trước hết, anh
muốn hỏi em có thắc mắc gì về tài liệu học tập hay
không?
- Có, em còn mơ hồ về một
điểm.
- Điểm gì vậy, em cứ nói đi.
- Theo hiệp định thì chúng ta
phải rút hết toàn bộ chiến sĩ và cán bộ về miền
Bắc, thế thì lấy ai ở trong Nam nầy mà đấu tranh chính
trị.
- Nhân dân miền Nam.
- Nhân dân mà không có cán bộ
vận động và lãnh đạo thì đấu tranh thế nào được.
Quang vỗ vai nó, cười bảo:
- Em thắc mắc như thế là rất
có lý. Và thắc mắc đó cũng không thể giải quyết
trong một cuộc học tập công khai được. Đúng như em
nói, nhân dân, dù có nhiệt tình cách mạng thế mấy đi
nữa mà không có cán bộ lãnh đạo thì cũng chẳng làm
gì được. Chúng ta cần để cán bộ lại để thúc đẩy
nhân dân tranh đấu. Tuy nhiên, theo hiệp định Genève, một
ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến được thành
lập và đang dòm ngó nên ta phải cẩn thận không để họ
lên án là vi phạm hiệp định. Vì vậy các văn bản và
tài liệu học tập trên giấy trắng mực đen của chúng
ta vẫn phải nói lên kế hoạch rút toàn thể bộ đội
cùng cán bộ ra Bắc nhưng trên thực tế mình chỉ đưa
đi những người nào đã bị lộ diện quá rõ rệt, không
thể ở lại tiếp tục hoạt động được. Còn những
chiến sĩ và cán bộ khác vẫn ở lại trong Nam để tiếp
tục hoạt động.
- Thế thì em phải ở lại hay đi
tập kết?
- Chú phải ở lại.
- Nhưng trước đây, tổ chức mà
em tham gia bị vỡ, nhà em bị lục soát và em phải chạy
trốn vào đây.
Anh Quang đặt tay lên vai nó, cười
bảo:
- Không sao đâu. Tình hình đã
biến đổi quá nhiều. Chuyện của em đã xảy ra cách đây
một năm, lại không phải là chuyện lớn nên địch không
còn quan tâm đến nữa đâu.
- Nghĩa là em có thể về Sài gòn
phải không?
- Em được phân công ở lại
hoạt động tại miền Nam còn địa bàn hoạt động nơi
nào thì tùy theo nguyện vọng của mỗi người. Nếu em
muốn ở lại ngay trong Đồng Tháp mười nầy cũng được,
em sẽ được bố trí chỗ ăn, ở và công tác….
Tân vội vã cướp lời:
- Không, em không ở lại đây, em
muốn về Sài gòn.
Anh Quang nhìn nó, cười vui vẻ:
- Anh muốn thử em đó thôi. Gần
một năm nay, em vào đây để cải tạo giai cấp, nhưng
thời gian đó chưa đủ để em trở thành nông dân chính
cống có thể tự sống được với cái cày cái cuốc.
Nếu em muốn về Sai gòn, tỉnh đoàn chấp nhận nguyện
vọng của em. Thèm trở lại với nếp sống học sinh tiểu
tư sản lắm phải không?
- Không phải, em muốn về ngay
Sài gòn để dò tìm tin tức anh Vinh.
- Anh Vinh nào?
- Anh ruột của em đã bị bắt
và vì vậy em phải trốn vào đây.
Quang gật gù:
- Anh nhớ ra rồi. Em nên về để
hỏi thăm đi. Theo bản hiệp định hòa bình thì cả hai
bên đều phải trao trả những ngưòi bị giam giữ trong
chiến tranh và được gọi là tù nhân chiến tranh, bất
kể thuộc về cánh quân sự hay dân sự. Chắc chắn anh
Vinh của em cũng được trao trả trong dịp nầy.
Tân mừng rỡ:
- Chừng nào em có thể trở về
Sài gòn?
- Em nên nghỉ lại đây chơi với
các anh vài hôm cho vui. Huyện đang chuẩn bị một cuộc
mít tinh lớn để mừng ngày hòa bình, em nên ở lại tham
dự.
Anh Quang nhìn nó có vẻ thương
hại:
- Vả lại, anh cũng phải đi tìm
cho em một bộ áo quần lành lặn. Về thành phố với bộ
đồ nầy, người ta sẽ tưởng…
- Tưởng em là thằng ăn mày hay
thằng móc túi phải không?
Hai anh em cùng cười xòa. Tân im
lặng dõi mắt nhìn theo đàn cò trắng bay qua cho đến khi
chỉ còn những đốm trắng nhỏ ở sát chân trời. Nó
quay lại:
- Anh Quang, hướng đó là Sài
gòn.
- Sao em biết?
- Ban đêm, lúc trời trong, em
thường nhìn về hướng đó, thấy một vầng sáng ở
chân trời. Em biết đó là ánh đèn điện của Sài gòn.
Lúc đó em nhớ nhung thật nhiều những ngày còn thơ ấu.
Nhớ trường, nhớ lớp, nhớ bạn….
Anh Quang nghiêm giọng:
- Lại tiểu tư sản rồi. Tài,
chú đừng bao giờ quên nhiệm vụ cách mạng vẫn đang
còn trước mặt chúng ta. Sắp tới, chú về thành là để
tiếp tục nhiệm vụ đó cho đến khi cách mạng hoàn toàn
thành công. Chú về đó, cố gắng tìm một cơ sở để
tham gia hoạt động. Tôi nghe nói thành đoàn đang cần
nhiều cán bộ để làm công tác dân vận trong giới sinh
viên học sinh.
Quang ngừng trong vài giây rồi
nói tiếp:
- Hòa bình rồi, sự tranh đấu
của chúng ta chuyển sang giai đoạn khác với cuộc đấu
tranh nặng về quân sự vừa qua. Cuộc đấu tranh sắp tới
gay go và nguy hiểm hơn nhiều vì cán bộ không còn được
bảo vệ nữa.
- Nghĩa là một khi tổ chức bị
địch phá vỡ thì không còn chiến khu để lẫn trốn như
trường hợp của em, một năm trước đây?
- Đúng vậy. Do đó, trong giai
đoạn nầy, em không được cẩu thả. Phải hết sức
cảnh giác, hết sức bảo mật. Tự bảo vệ mình là bảo
vệ cho thành quả của cách mạng.
- Em xin nhận lãnh lời khuyên của
anh và hứa sẽ giữ mình cẩn thận trong công tác sắp
tới ở Sài gòn. Chừng nào anh cấp cho em giấy giới
thiệu của tỉnh đoàn để em về trình diện và nhận
công tác với thành đoàn?
Anh Quang lắc đầu:
- Không có giấy giới thiệu nào
cả. Cách mạng cài người ở lại mà còn giấy giới
thiệu, rủi rơi vào tay địch, chúng trình cho ủy hội
quốc tế rồi rêu rao khắp thế giới rằng mình vi phạm
hiệp định thì nguy to. Vì vậy, không phải riêng em, mọi
cán bộ không tập kết đều phải tự túc tìm cơ sở mà
hoạt động. Em hiểu chưa?
- Dạ hiểu.
Tân trả lời một cách dứt
khoát. Nó không còn thắc mắc mà cũng chẳng cần giấy
giới thiệu nữa. Nó muốn về Sài gòn ngay bây giờ để
tìm gặp anh Vinh của nó còn việc tìm cơ sở hoạt động
thì sẽ tính sau.
Hai hôm sau, Tân từ giã lên đường
khi trời chưa sáng hẳn. Cuộc chia tay thực cảm động.
Anh Quang, anh Thiện ôm nó thực chặt rồi buông nó ra. Hai
người còn đứng im một lúc nhìn theo bóng nó buớc nhanh
trên bờ kinh và khuất trong đám sương mù buổi sáng. Nó
muốn trở lại con đường cũ, đi qua vàm Bằng lăng, nơi
những viên đạn của quân thù đã kết liễu cuộc đời
của ông Tư Cám đáng thương. Nó muốn nhìn tận mắt
chiếc đồn canh của giặc vì lúc đi vào, nó bị chiếc
đệm và những bó củi phủ kín trên người. Tuy nhiên ý
muốn đơn sơ đó không thực hiện được. Món tiền trợ
cấp của tỉnh đoàn quá ít ỏi, không đủ cho nó trả
tiền tàu và xe hai chặn đường, từ Thiên hộ về Cái
bè và từ Cái bè về đến Sài gòn. Vì vậy nó nghe theo
lời khuyên của các anh trong văn phòng, đi bộ dọc theo
kinh lớn Thiên hộ Dương rồi xuôi kinh Mười hai ra Cai
lậy. Từ đó, nó chỉ tốn một chuyến xe đò là về tới
Sài gòn.
Nó hăng hái sải bước trên bờ
kinh dài hun hút; dưới kinh ghe thuyền qua lại mỗi lúc
một đông, tiếng nói, tiếng cười rộn rã. Nó nghe lòng
phơi phới trong cảnh thanh bình vừa mới trở về với
quê hương.
Buổi trưa, nó ghé vào một mái
tranh nhỏ xin nước uống, ăn vội nắm cơm mang theo và
tất tả lên đường. Qua khỏi kinh Thiên hộ Dương, nó
biết mình sắp rời khỏi vùng đất của chiến khu và có
lẽ không bao giờ trở lại nữa. Nó dừng chân quay mặt
nhìn lại cánh đồng hoang vu, lòng bùi ngùi nhớ lại bao
kỷ niệm trong gần một năm qua.
Vài phút sau, nó quay lui và tiếp
tục lên đường. Xóm làng trù phú bắt đầu xuất hiện
với những khu vườn cây cối xanh tươi, những mái nhà
lá khang trang, khác hẳn với vẻ u tịch của bưng biền
mà nó vừa bỏ lại sau lưng.
Khi nó đến Cai lậy thì mặt
trời đã xế bóng. May mắn, nó đáp được chuyến xe đò
cuối cùng về thành phố thân yêu của nó.
Đến Sài gòn, nó bước xuống
xe thì trời vừa dứt cơn mưa. Màn đêm đã buông xuống,
ánh đèn đường quen thuộc loang loáng phản chiếu trên
mặt đường sũng nước. Nó đứng im, nhìn xe cộ, nhìn
bộ hành qua lại trên đường, nghe trong lòng dâng lên một
niềm cảm xúc lạ thường.
Một chiếc xích lô trờ tới mời
mọc. Nó lắc đầu rồi bước vội lên lề đường. Nó
cho tay vào túi quần, mân mê ba đồng kim loại còn sót
lại. Nó nhìn vào những quán ăn một cách thèm thuồng,
cơn đói làm cho bụng nó cồn cào. Nó vội quay mặt đi
nơi khác, tay vẫn trong túi quần, nắm chặt mấy đồng
kim loại mà nó biết không đủ cho một bữa no nê trong
một quán ăn hạng bét nơi đây. Nó bỗng cảm thấy lạc
loài trong cái thành phố mà nó đã trải qua nhiều năm
thơ ấu vô tư. Bây giờ đi về đâu? Câu hỏi nầy đã
lẩn quẩn suốt ngày hôm nay trong đầu nó.
Về đâu? Về đâu? Nó vẫn đứng
ngẩn ngơ nhìn phố phường nhộn nhịp về đêm. Bên kia
đường là một dãy phố đèn đuốc sáng choang, căn nhà
đối diện với nó cửa mở rộng, hai người lớn và ba
trẻ em ngồi quanh một chiếc bàn. Họ đang dùng bữa cơm
tối. Nó nuốt nước bọt và bước xuống đường.
Nó để cho đầu óc trống rổng,
bước nhanh trên hè phố ẩm ướt. Nó dừng lại trước
một rạp hát, tiếng cười nói ồn ào xen lẫn với tiếng
nhạc dìu dặt, ánh đèn đủ màu sáng rực, chiếu vào
những bảng vẽ sặc sỡ giăng kín bên trước rạp. Nó
bỗng cảm thấy một nguồn vui kỳ lạ. Cánh đồng hoang
vu, những dòng kinh nước đục, ruộng lúa đang đơm bông,
cái bồ lúa ẩn dưới bóng cây… bỗng trở thành những
hình ảnh hết sức mờ nhạt. Những ngày sống cô đơn
trong nông trường, những buổi dầm mưa dãi nắng trên
đồng ruộng, những lần đốt đuốc đi gài bẫy chuột
trong đêm tối mịt mùng, tất cả những thứ đó chỉ
còn chập chờn như một khúc phim diễn một cách thờ ơ
trên màn bạc.
Nó đưa tay vỗ vào đầu để
biết chắc mình đang thực sự đứng trong thành phố mà
nó đã trải qua tuổi thơ hồn nhiên vô tư của nó. Tiếng
động chung quanh thực là quen thuộc. Quá khứ như bị
biến dạng, dòng thời gian co lại, một năm trong Đồng
Tháp bị rút thành một khoảng ngắn ngủi như một giấc
mơ. Nó bị chìm ngập trong một nguồn vui sôi nổi, nguồn
vui của những ngày còn cắp sách đến trường, của
những lần được gọi tên lên nhận phần thưởng ưu
hạng vào mỗi cuối năm học.
Lòng lâng lâng cảm khoái, nó
bước đi trên con đường Frères Louis, đến ngã Sáu Sài
gòn và kia kìa, những tàn cây cao của công viên Bồ rô.
Cánh cổng sắt của công viên đã đóng kín. Nó áp mặt
vào hai thanh sắt mát lạnh, nhìn vào bên trong, cố nhận
cho ra chiếc băng đá, phía trước đám cỏ mà nó đã nằm
ngủ qua một đêm. Ôi, cái đêm buồn bã đó là dấu chấm
hết cho quảng đời học sinh thơ ngây của nó! Trong khu
vườn, không một ánh đèn. Những tia sáng yếu ớt của
đèn đường không xuyên thủng được bóng đêm bao trùm
lên những lùm cây rậm rạp.
Nó quay lui rồi men theo con đường
quen thuộc lầm lũi đi, đi mãi một lúc khá lâu. Nó dừng
lại ở đầu con hẻm. Đây rồi, xóm Hòa hưng của những
ngày xa xăm. Nhà bà giáo Thanh đóng kín cửa, ánh đèn bên
trong hắt ra qua hàng lỗ thông gió. Nó lưỡng lự một
phút rồi nắm chặt hai tay, cương quyết đi sâu vào trong
hẻm.
Cảnh vật vẫn như xưa. Những
căn nhà nhỏ vẫn an phận nghèo nàn sau hàng rào tươi
thâm thấp. Nhiều nhà còn mở cửa, ánh đèn bên trong hắt
ra ngoài thành những vệt sáng rải rác trên đường đi.
Cuối cùng, dãy phố gạch bốn căn hiện ra trước mặt
nó, ba căn đầu đóng kín, căn cuối còn mở hé cửa. Đó
là căn nhà của dì Năm mà anh em nó đã ở trong bao nhiêu
năm. Tim nó đập thình thịch, tay nắm chặt vào quai chiếc
túi đeo trên vai, hơi thở dồn dập.
Ai đang sống trong căn nhà đó.
Có phải dì Năm và anh Vinh đã trở về vì được thả
ra sau khi hòa bình trở lại bằng hiệp định Genève? Hay
là….
Nó bỗng nghe một luồng hơi lạnh
chạy dài theo cột xương sống. Từ khi tổ chức bị vỡ,
căn nhà bị khám xét, mọi ngưới đã bị bắt giam, chỉ
một mình nó trốn thoát vào chiến khu thì ai dám vào đây
ở nếu không phải là công an mật vụ? Từ một năm nay,
họ có còn tìm kiếm nó nữa hay không? Nếu bây giờ nó
bước vào, họ có vồ nó như một con chó săn vồ lấy
con mồi? Nó sực nhớ tới lời dặn của anh Quang trong
ngày cuối cùng ở chiến khu: “Phải hết sức đề
phòng; cán bộ phải tự bảo vệ mình vì không còn lực
lượng quân sự che chở và không còn chiến khu để trốn
tránh nữa”.
Có bóng người di chuyển trong
nhà, làm cho ánh sáng bị che khuất trong một thoáng. Nó
ngồi xuống ở chân hàng rào đối diện, căng mắt ra
nhìn. Ai đó sắp đi ra. Nó vái trời cho đó là dì Năm
hay anh Vinh của nó. Lúc đó nó sẽ phóng vào ôm chầm lấy
và khóc lên rưng rức.
Cánh cửa bỗng mở rộng, ánh
sáng lùa ra làm cho nó hốt hoảng co người lại. Một cái
bóng to cao bước ra ngoài, một người đàn ông lớn tuổi
và hoàn toàn xa lạ. Ông ta lững thững đến trước thềm,
phun một bãi nước bọt ra sân rồi quay lui đóng cửa
lại.
Tân nhỏm dậy bước nhanh ra đầu
hẻm. Nó dừng lại dưới ánh đèn đường, đưa tay lên
lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán. Niềm hân hoan
và cảm khoái được trở lại thành phố tuổi thơ biến
mất. Bụng cồn cào vì đói, miệng khô ran vì khát, tay
chân rã rời vì mệt nhọc. Nó bỗng mơ ước giờ nầy
được nằm trên chiếc giường thô sơ của chiến khu,
lắng nghe tiếng côn trùng và ếch nhái hòa nhạc với
tiếng muỗi vo ve bên ngoài để nhẹ nhàng đi vào giấc
ngủ bình yên. Nó nghe chính tiếng nó thì thầm: “Không
biết mấy đêm rồi có ai đi gài bẫy chuột quanh miếng
ruộng hay không? Nếu không thì chuột sẽ cắn những cây
lúa xuống để ăn những bông lúa còn đang ngậm sữa…”.
Một tiếng còi ô tô ré lên làm
nó giật mình trở về với thực tại. Bây giờ nó phải
đi ngay về căn nhà nào đó vì đường phố đã bớt nhộn
nhịp, giờ giới nghiêm không còn xa nữa. Hòa bình rồi,
thành phố còn giới nghiêm hay không? Nó không biết; dù
sao nó cũng phải đi tìm ngay một chỗ trú ngụ đêm nay.
Nó chợt nhớ tới nhà chị Chi. Bây giờ, nó không còn
nơi nào khác nữa để chọn lựa. Đó cũng là hi vọng
cuối cùng của nó lúc nầy. Nó nhớ đến cái gác xép ở
nhà chị, nơi đã sống hơn một tuần trước khi lên
đường vào chiến khu. Cái gác đó, giờ nầy, đối với
nó còn quý hơn cả thiên đường. Tuy nhiên nó hết sức
lo lắng. Chị Chi là một cán bộ nằm vùng. Từ gần một
năm nay, chị còn sống yên ổn với mẹ già trong căn phố
nho nhỏ và ấm cúng đó nữa hay không? Nếu chị cũng đã
bị bắt và ngôi nhà đó cũng đang bị an ninh mật vụ
canh giữ thì sao?
Mặc kệ, nó không thể suy nghĩ
toan tính gì được nữa. Cơn đói khát, sự mệt mỏi
chán nản ê chề đang hành hạ thân xác nó. Nó thất thểu
đi tới bằng những bước chân nặng nhọc, mắt đăm đăm
nhìn cái bóng đen buồn bã của nó ngắn lại rồi dài
ngoằng ra trên mặt đường một khi nó đi qua một cột
điện bên trên có một bóng đèn đường rọi xuống.
*
* *