Một cuộc chiến tranh dài
Tập II
Chương 7: Chiến trường rừng núi
(2)
Ngày lại ngày trôi
qua một cách yên tĩnh. Những người khách không mời vẫn
chưa đến nên sinh hoạt trong đại đội diễn ra một
cách đều đặn và buồn tẻ. Ban đêm, mọi người dành
nhiều thì giờ canh gác và tuần tra. Ban ngày thì ngủ,
thức dậy bày trò vui chơi, vì tuyến phòng thủ đã hoàn
tất từ lâu.
Một buổi chiều, qua máy truyền
tin, tiểu đoàn gọi trung úy Bá sang nhận lệnh. Cả đại
đội đều hiểu đó là một lệnh quan trọng nên đại
đội trưởng phải nhận trực tiếp.
Khi trở về, nét mặt trung úy có
vẻ lo lắng. Ông cho gọi các trung đội trưởng vào phòng
riêng rồi nói:
- Sư đoàn cho lệnh rút tiểu
đoàn ra khỏi chỗ nầy.
Chuẩn úy Tám reo lên ngay:
- Hay lắm, đi khỏi chỗ nầy thì
tốt lắm. Rồi đến đâu cũng được, tôi chán chỗ nầy
lắm rồi.
Trung úy Bá lắc đầu:
- Tiểu đoàn rút đi nhưng để
lại đây một đại đội.
- Đại đội nào?
- Đại đội Một chúng mình đây.
- Tại sao đi chỗ khác mà không
cho mình đi theo?
Trung úy hạ thấp giọng:
- Các anh bình tĩnh nghe tôi trình
bày. Nhiệm vụ mật của tiểu đoàn bấy lâu nay ở đây
thì tôi đã có dịp nói cho các anh biết cả rồi. Đó là
làm mồi nhử cho Việt cộng đến đánh. Hơn ba tháng rồi
mà chẳng thấy bọn nó đến. Sư đoàn cho rằng cả tiểu
đoàn là miếng mồi quá lớn, chúng không dám nuốt. Vì
vậy phải rút cho miếng mồi nhỏ hơn thì mới hữu hiệu.
Sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn rút về Quy nhơn nhưng để
lại đây một đại đội vì mục đích đó. Tất cả sĩ
quan trong tiểu đoàn đề nghị đại đội mình ở lại
để tiếp đón đơn vị chủ lực của Bắc Việt một
phen.
Chuẩn úy Tám buông một tiếng
chửi thề tục tĩu rồi hỏi:
- Đại úy tiểu đoàn trưởng có
nói gì nữa không?
- Có, đại úy tỏ vẻ ái ngại
cho chúng ta nhưng lệnh nhà binh thì nhất thiết phải thi
hành. Đại úy ra lệnh ngày mai khi bộ chỉ huy tiểu đoàn
và ba đại đội rút đi rồi thì lập tức chúng ta sang
đóng quân ở đồi lớn bên kia. Đồi bên đó cao hơn bên
nầy nhiều. Nếu chúng ta vẫn ở bên nầy thì khi Việt
cộng tràn lên đồi bên đó, đặt súng trên cao bắn sang
thì chúng ta khó thoát chết. Đại úy cũng nói thật là
chúng ta ở đây để nhử địch, điều đó anh em mình đã
biết cả rồi. Khi bị tấn công thì chúng ta cố gắng
cầm cự càng lâu càng tốt để đợi sư đoàn trực
thăng vận lên tiêu diệt địch.
- Cầm cự trong bao lâu thì có
tiếp viện?
- Điều nầy thì chắc chắn đại
úy cũng không thể xác định được đâu. Tôi ước lượng
phải cầm cự ít nhất năm giờ đồng hồ thì mới có
tiếp viện.
Chuẩn úy Tám lắc đầu thở
dài:
- Năm giờ đồng hồ! Tôi nghe
nói Việt cộng thường dùng chiến thuật thần tốc để
công đồn. Trực thăng đến đây có lẽ chỉ đưa xác
chúng ta về nghĩa trang.
- Thì cũng đành chịu thôi.
Chuẩn úy Tám đứng dậy:
- Xin lỗi trung úy, xin lỗi các
anh em, tôi ra ngoài vài phút rồi trở lại.
Nói xong, ông bước ra cửa. Trung
úy Bá hạ thấp giọng:
- Chuẩn úy Tám thường ăn nói
bi quan và thiếu ý chí chiến đấu như thế, anh em nên
thông cảm. Đó là sĩ quan lớn tuổi nhất trong tiểu
đoàn, có vợ và một bầy con đang ở hậu cứ. Nếu tiểu
đoàn được tăng cường thêm một số sĩ quan nữa thì
đại úy An sẽ xin cho chuẩn úy Tám về một đơn vị
không tác chiến. Thôi bây giờ, anh em hãy nghe tôi trình
bày tiếp. Anh em đã biết rằng chúng ta nằm ngoài vòng
yểm trợ của pháo binh. Điều đó có nghĩa là việc
phòng thủ chỉ hoàn toàn dựa vào hỏa lực mình mà thôi.
Nếu chúng ta cầm cự được lâu cho đến khi trực thăng
chở quân đến thì chúng ta có cơ may sống sót để nhìn
thấy mặt cha mẹ vợ con. Nếu chúng ta để cho địch
tràn ngập thì cả đại đội chúng ta phải tập họp để
trình diện diêm vương. Tiểu đoàn lệnh cho chúng phải
tử thủ cho đến người lính cuối cùng, dứt khoát không
có giải pháp đầu hàng dù khi chúng ta chỉ còn một mạng
mà thôi.
Bính hỏi:
- Không có giải pháp đầu hàng,
đồng ý. Nhưng khi địch quá đông, ta không còn cố thủ
được nữa thì ta có được rút xuống đồi và chạy
vào rừng hay không?
- Tôi không thể biết trước
được. Đến lúc đó chúng ta sẽ làm theo lệnh trên. Tuy
nhiên, với tình thế nầy, chúng ta sẽ bị tiêu diệt nếu
rút xuống. Anh em cũng hiểu rằng, ngọn đồi nầy khá
nhỏ, địch sẽ bao hết trước khi tấn công. Cả bốn
phương tám hướng đều là cửa tử, không có một cửa
sinh nào cả cho chúng ta. Chúng ta phải nằm lại trên ngọn
đồi nầy thôi. Nếu chúng ta bị tràn ngập thì hoặc là
chúng ta ngã gục vì đạn và mã tấu của địch, hoặc
là chúng ta sẽ chết hết vì bom và hỏa tiễn của không
quân Việt Nam Cộng hòa. Có lẽ các anh đã từng nghe có
những cứ điểm bị tràn ngập thì không quân và pháo
binh được lệnh tiêu diệt tất cả ta và địch trên cứ
điểm. Ngọn đồi nầy có thể là mồ chôn những người
cùng huyết thống, bị cộng sản biến thành kẻ thù của
nhau và nhờ có chiến tranh mới được nằm bên nhau ở
chốn núi rừng thiêng liêng nầy của Tổ quốc!
Trung úy ngưng nói, chớp mắt
nhìn ra xa xa. Mọi người đều im lặng và xúc động.
Buổi họp chấm dứt, các trung đội trưởng trở về
thông báo cho trung đội mình rõ.
Hôm sau, khi trời vừa tờ mờ
sáng, phiên gác cuối cùng của một đêm vừa chấm dứt,
có tiếng phi cơ nghe rõ dần từ hướng An khê vọng đến.
Hai chiếc trực thăng bay rất thấp cho đến đỗi đứng
trên đồi có thể thấy rõ anh phi công trong lồng kính.
Máy bay đánh một vòng quanh đồi rồi bay trở ra. Một
loạt đạn nổ dòn làm mọi người giật mình, chụp lấy
súng chạy ra khỏi phòng. Trung úy Bá đứng trên đỉnh
đồi nhìn xuống bên dưới, cười, nói với mấy người
kế bên:
- Chẳng có gì đâu. Hai chiếc
trực thăng mở đường cho đoàn xe chở tiểu đoàn ra
khỏi nơi đây. Trực thăng xả súng bắn vào một điểm
nào đó mà chúng nghi có phục kích. Không có tiếng súng
bắn trả, vậy là chẳng có địch bên dưới.
Một giờ sau, một đoàn xe khá
dài với thiết giáp hộ tống rầm rộ tiến vào giữa
tiếng cười nói xôn xao, tiếng gọi nhau ơi ới. Không
bao lâu, đoàn xe quay ra, chiếc nào cũng đầy người ngồi
trên đống vật dụng. Cả đại đội đều ra đứng trên
đồi vẫy tay tạm biệt.
Đoàn xe lần lượt khuất sau
rừng cây rậm rạp, tiếng máy xe rì rầm nhỏ dần và
biến mất, trả lại sự yên tĩnh cho núi rừng.
Thượng sĩ Lập chạy nhanh đến
các trung đội truyền lệnh di chuyển sang đồi của tiểu
đoàn, mang theo tất cả vật dụng.
Trung sĩ Hy gọi to:
- Thượng sĩ.
- Gì đó?
- Nhà cửa thế nào, có hạ xuống
không?
- Không cần, nhà bên tiểu đoàn
nhiều lắm, ở không hết đâu. Nhà ở đây cứ để yên
đó. Chiều nay, đại đội trưởng sẽ cho người sang
phóng hỏa đốt, sợ Việt cộng dùng làm chỗ ẩn núp.
- Còn lựu đạn và mìn gài dưới
chân đồi?
- Để đó, từ từ sẽ qua gỡ
đem về bên kia củng cố thêm tuyến phòng thủ. Bây giờ
phải di chuyển ngay để các trung đội nhận vị trí đóng
quân của mình. Mời các trung đội trưởng đến gặp
trung úy đại đội trưởng.
Trung úy Bá nai nịt gọn gàng,
cây súng colt lủng lẳng bên hông, dắt các trung đội
trưởng qua bên đồi lớn. Anh chia sườn đồi ra làm ba
phần bằng nhau cho ba trung đội. Ban chỉ huy đại đội
cùng trung đội vũ khí nặng đóng trên đỉnh đồi trong
dãy nhà của bộ chỉ huy tiểu đoàn trước đây.
Các trung đội nhanh chóng mang
súng ống đạn dược và tất cả dụng cụ cần thiết
sang. Tiểu đoàn ra đi sáng nay để lại các dãy nhà còn
nguyên vẹn nên đại đội ổn định chỗ ở một cách
nhanh chóng.
Buổi chiều, trung úy Bá mời
tất cả trung đội trưởng và trung đội phó họp trong
nhà ăn của tiểu đoàn. Trung úy lên tiếng trước:
- Kể từ đêm nay, một mình đại
đội chúng ta lọt thỏm trong vùng rừng núi mênh mông và
hoang vu nầy, do đó nguy cơ bị tấn công và tràn ngập
rất lớn. Sư đoàn có mục đích chiến thuật riêng của
sư đoàn, chúng ta phải tuân theo lệnh của cấp trên. Sư
đoàn có thể hi sinh mạng sống của một con cá thu nhỏ
bé để đánh bắt con cá mập to lớn, nhưng con cá nhỏ
cần phải cố sức cứu lấy mạng sống của mình khi con
cá mập xuất hiện. Chúng ta phải bàn bạc kỹ lưỡng để
giữ lấy sinh mạng của chúng ta khi con cá mập Việt cộng
hung hăng đến đây.
Trung úy ngừng nói, móc thuốc ra
mời anh em và châm cho mình một điếu. Đó là thói quen
của anh khi phải giải quyết một vấn đề quan trọng.
Anh nói tiếp:
- Tôi đã đi quan sát một vòng
và nhận thấy hệ thống phòng thủ trên đồi nầy đã
được thực hiện khá công phu cho một quân số gấp ba,
bốn lần đại đội chúng ta. Bây giờ, mỗi trung đội
phải đảm nhiệm phòng tuyến của một đại đội nên
hệ thống phòng thủ không còn thích hợp; chúng ta không
đủ quân số để đưa vào các vọng gác và bố trí vào
tất cả công sự khi bị tấn công. Mỗi trung đội cần
xem xét lại vị trí mà mình chịu trách nhiệm để có kế
hoạch phòng thủ hữu hiệu. Trước giờ cơm chiều nay,
tôi sẽ đến từng trung đội để xem việc phòng thủ
của các anh.
Trung úy ngừng một chút để hút
thuốc rồi nói tiếp:
- Khi Việt cộng muốn tấn công
một đồn lũy hay một vị trí phòng thủ của chúng ta,
bao giờ họ cũng cho những toán trinh sát đến tìm cách
điều nghiên hệ thống phòng thủ, hỏa lực, thói quen,
giờ đổi gác của chúng ta. Kể từ đêm mai, chúng ta
phải tìm cách ngăn chận các toán trinh sát của họ không
cho đến gần.
Bính hỏi:
- Thưa trung úy, ngăn chận bằng
cách nào?
- Bằng những tiểu đội lưu
động, hàng đêm làm tiền đồn cho đại đội tại một
nơi trong rừng, cách chân đồi vài trăm mét.
- Như thế, có quá nguy hiểm cho
anh em không?
- Ít nguy hiểm hơn nằm trong cái
rọ là ngọn đồi nầy. Các toán trinh sát của Việt cộng
thường khoảng hai hay ba người. Chúng nó cốt đi dọ
thám chứ không cốt đánh nhau nên khi gặp tiểu đội
tiền đồn của ta thì chúng sẽ bỏ chạy.
Chuẩn úy Tám lo lắng:
- Nhưng họ có thể đưa đến
một lực lượng lớn với quyết tâm tiêu diệt chúng ta.
Một tiểu đội làm sao chịu nổi.
- Lúc đó, chúng nó đã có kế
hoạch tiêu diệt cả đại đội nầy chứ không riêng gì
tiểu đội tiền đồn. Bấy giờ, tiểu đội sẽ bắn để
báo động rồi tản mác vào rừng sâu, mạng sống của
tiểu đội chắc chắn được bảo đảm hơn những người
phải cố thủ trên đồi nầy. Ý kiến tôi là như thế.
Anh em hãy suy nghĩ để góp ý. Đây là vấn đề cực kỳ
quan trọng, vấn đề của cả trăm sinh mạng trên ngọn
đồi nầy.
Trung úy Bá nhìn quanh khắp một
lượt, thấy mọi người ngồi im, anh nói tiếp:
- Nếu anh em không có ý kiến gì
thêm thì kế hoạch đưa một tiểu đội đi tiền đồn
bắt đầu từ tối mai. Bây giờ, anh em đã quá mệt vì
dời chỗ ở nên đêm nay chỉ canh gác cẩn thận tại đồi
nầy mà thôi.
Tân hỏi:
- Mỗi đêm chúng ta đưa mấy
tiểu đội đi làm tiền đồn?
- Một tiểu đội thôi, luân
phiên giữa ba trung đội. Tiểu đội tiền đồn sẽ nằm
ngay phía trước vị trí phòng thủ của trung đội mình
để lính gác bên trong biết mà không bắn nhầm anh em bên
ngoài. Thiếu một tiểu đội, trung đội sẽ phải bỏ
bớt một vọng gác trong đêm nhưng đã có tiểu đội nằm
bên ngoài thì không lo nữa.
- Khi cần thì tiểu đội tiền
đồn liên lạc với bên trong thế nào?
- Chúng ta không có máy truyền
tin vô tuyến để cấp phát cho tiểu đội nên tôi qui
định thế nầy, anh em nhớ lấy mà truyền lệnh lại.
Mỗi người đi tiền đồn phải mang theo ít nhất một
cấp số đạn và hai quả lựu đạn loại tấn công. Tiểu
đội trưởng và tiểu đội phó mang theo hỏa pháo. Khi
gặp toán trinh sát lẻ tẻ của Việt cộng thì bắn và
đuổi đi. Còn khi gặp lực lượng lớn thì giật hỏa
pháo cho đại đội biết rồi nhanh chóng rút lui.
- Rút lui về đồi để phòng
thủ?
- Không, về hướng ngược lại,
càng xa càng tốt để tránh các đơn vị của ta sẽ được
trực thăng vận đến. Các đơn vị nầy có thể nhầm
anh em là Việt cộng và có thể tiêu diệt anh em.
- Tiểu đội đó sẽ ở mãi
trong rừng hay sao? Họ ló ra gặp bên nào cũng có thể lâm
nguy.
- Lệnh cho họ ban ngày tìm các
đơn vị của ta để trình diện. Các anh đừng lo điều
nầy. Khi bắt đầu đụng trân, tôi sẽ liên lạc và báo
cho cấp trên hoặc các đơn vị tăng viện biết sự có
mặt của tiểu đội tiền đồn của mình.
Bính góp ý:
- Ngay từ bây giờ, trung úy nên
báo cho sư đoàn biết kế hoạch tiền đồn của trung úy
để sư đoàn lưu ý các đơn vị sẽ đến đây.
- Không, tôi muốn việc nầy chỉ
là một chi tiết trong kế hoạch nội bộ của chúng ta mà
thôi. Tôi không muốn cho sư đoàn biết.
- Tại sao?
- Báo với cấp trên bất cứ kế
hoạch gì cũng có nghĩa là xin lệnh cho thi hành. Sư đoàn
có thể bác bỏ và chúng ta bắt buộc phải tuân lênh.
Thế là có thể không được phép lập tiểu đội tiền
đồn.
- Nhưng mà công việc nầy đúng
với chiến thuật phòng thủ thì sư đoàn lấy lý do gì
bác bỏ? Tôi nhớ, lúc học trong quân trường, hàng đêm
cũng có vài toán sinh viên đi làm tổ báo động bên
ngoài. Đó là điều quá bình thường trong phòng thủ.
- Không. Trường hợp phòng thủ
của chúng ta ở đây không giống với các căn cứ quân
sự khác. Sư đoàn muốn dùng chúng ta để nhử Việt
cộng. Phải tạo điều kiện dễ dàng và hấp dẫn để
dụ chúng đến. Chúng ta lập tiền đồn để ngăn cản
trinh sát của chúng nó là làm trái với ý định của sư
đoàn rồi. Làm như thế có khác gì dùng củ khoai để
nhử con chuột vào bẫy mà lại cầm roi đứng phía trước
xua đuổi nó đi.
- Thế có nghĩa là trung úy chống
lại ý định của sư đoàn? Trung úy không sợ bị truy tố
ra tòa án binh à?
- Tôi không sợ. Tôi chỉ chính
thức nhận lệnh phòng thủ đồi nầy, còn chuyện làm
mồi nhử Việt cộng là kế hoạch bí mật của sư đoàn,
có phổ biến cho tôi đâu. Việc lập tiền đồn hay tổ
báo động hoàn toàn thuộc về quyền hạn của một đại
đội trưởng.
Trung úy hạ thấp giọng và nói
một cách tình cảm:
- Mà giả dụ, tôi có bị đưa
ra tòa án đi nữa thì tôi cũng bằng lòng vì tôi làm việc
nầy cốt để bảo vệ mạng sống của anh em và của
tôi. Tôi muốn tất cả anh em ở đây đều sống để
hằng ngày cùng cầu nguyện cho chiến tranh sớm chấm dứt.
Nếu chúng ta ngã xuống và vĩnh viễn nằm lại trong khu
rừng nầy thì chiến tranh có chấm dứt hay kéo dài cũng
chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng ta nữa.
Bính nói:
- Mọi người đều muốn chiến
tranh sớm chấm dứt. Các tướng tá trong bộ tư lệnh
cũng muốn thế. Kế hoạch chấm dứt chiến tranh của các
ông ấy là phải tiêu diệt hết cộng sản xâm lược.
Bắt chúng ta làm mồi nhử chỉ là một chi tiết nhỏ
trong ý đồ to lớn đó.
Trung úy Bá thở dài:
- Chấm dưt chiến tranh bằng cách
bên nầy tiêu diẹt bên kia. Đó có phải điều tốt đẹp
hay không?
Buổi họp chấm dứt, mọi người
trở về lo thi hành kế hoạch mà trung úy vừa thông báo.
Màn đêm buông xuống dần. Cảnh
rùng rợn và chết chóc bao vây lấy nhúm người nhỏ bé
trong chốn rừng núi trùng trùng điệp điệp. Đại đội
còn một mình ở đây nên phải tăng cường canh gác. Mỗi
người ngủ chưa được ba giờ trong đêm.
Nửa đêm, có một phát súng báo
động bắn lên từ một vọng gác. Mọi người vùng dậy,
vớ ngay súng đạn và mũ sắt, chạy ra tuyến phòng thủ.
Một người lính gác la to:
- Thưa trung úy, Việt cộng về
đốt phi trường.
Về hướng tây, trên nền đen
thẩm, một vầng lửa đỏ bốc lên trông thực rùng rợn.
Trung úy Bá hét:
- Tất cả sẵn sàng chiến đấu.
Nạp đạn vào đại liên đi. Gọi chuẩn úy Tân cho tôi.
Tân từ trung đội chạy đến:
- Tân đây trung úy.
- Việt cộng về đốt nhà trên
phi trường.
- Đốt làm gì? Phi trường đó
đâu còn sử dụng nữa.
- Đúng rồi. Trước đây, đó là
phi trường dã chiến cho trực thăng và phi cơ vận tải
hạng nhẹ nhưng ngưng sử dụng hơn một năm rồi. Mùa
mưa vừa rồi đã phá hủy phi đạo, mấy dãy nhà tranh,
cái thì sập, cái xiêu vẹo. Tháng rồi tôi có dẫn vài
binh sĩ lên đó, trông điêu tàn lắm. Bây giờ, Việt cộng
đang đốt mấy cái nhà tranh trên đó. Kìa kìa, hai đứa
đang cầm đuốc chạy. Đây lên đó hơn hai cây số nhưng
ban đêm đuốc sáng trông rõ ghê.
Tân hỏi:
- Họ đốt mấy cái nhà bỏ đó
để làm gì?
- Theo tôi thì chúng nó thăm dò
phản ứng của chúng ta. Khi sáng tiểu đoàn di chuyển ra
bằng xe, lại có cả phi cơ mở đường nữa thì chắc
chắn chúng biết rồi. Có điều là chúng chưa rõ mình có
rút đi hết hay không. Có lẽ từ đầu hôm đến giờ,
chúng đã đến dưới chân đồi để thám sát nhưng không
dám lên nên đến phi trường đốt nhà để dò phản ứng
của ta. Tôi mời anh đến đây để hỏi ý anh có nên tỏ
cho chúng biết mình đang có mặt ở đây hay không?
- Theo tôi thì nên. Và làm sao tỏ
cho họ biết mình có hỏa lực mạnh để hù dọa thì may
ra họ sẽ không dám hoặc chậm trễ trong ý đồ tấn
công mình. Như vậy, mình có được một thời gian yên
tĩnh. Chúng ta là củ khoai làm mồi, họ là chuột. Chuột
càng nhát thì củ khoai càng đỡ lo.
Trung úy Ba cười khì:
- Được rồi, tôi cho rót xuống
chỗ đang cháy ở phi trường một loạt súng cối để hù
dọa cho chúng nó biết là chúng ta đã rút đi một phần
nhưng hỏa lực còn lại cũng đủ sức chơi với chúng
nó. Anh đi goi trung đội trưởng vũ khí nặng giúp tôi.
Thượng sĩ Bảo chạy đến sau
nửa phút:
- Trung úy gọi tôi?
- Thượng sĩ về cho lính gióng
cả hai súng cối về phía lửa cháy, rót sáu quả, mỗi
cây ba quả liền nhau. Thượng sĩ có nhớ khoảng cách từ
đây đến phi trường không?
- Dạ nhớ. Hai ngàn một trăm
mét.
- Tốt, cho thuốc bồi và điều
chỉnh độ nghiêng nòng súng theo đúng khoảng cách đó.
Rồi cho tác xạ nhanh.
- Tuân lệnh trung úy.
Vài phút sau, nhiều tiếng nổ ầm
ầm, vọng vào các hốc núi, rền khá lâu mới dứt. Dưới
ánh sáng của lửa cháy, Tân thấy xa xa mấy người vứt
đuốc, biến mất trong bóng tối. Một lát sau, ngọn lửa
lụi dần và tắt hẳn. Màn đêm tĩnh mịch liền lạc trở
lại. Nửa giờ sau, trung úy Bá cho lệnh anh em dưới chiến
hào vào nghỉ.
Tân không vào nhà. Cậu đến một
vọng gác, ngồi kế bên một binh sĩ cho đến khi tia sáng
đầu tiên vọt thẳng lên nền trời, in rõ dải mây ngang
treo lơ lững bên trên đỉnh núi.
Tân đứng dậy đi vào. Mệt rã
rời sau một đêm thức trắng, vừa đặt lưng xuống
chiếc sạp tre, Tân ngủ say sưa. Đến gần trưa, cậu mới
thức dậy, vội vã bước ra ngoài, gặp ngay trung sĩ Hy từ
dưới đồi đi lên. Tân hỏi:
- Thế nào, có gì lạ không anh
Hy?
- Bình thường. Sáng nay trung úy
cho lệnh sang gỡ mìn và lựu đạn bên đồi cũ, để gài
bên ngoài tuyến phòng thủ do mỗi trung đội phụ trách
bây giờ. Thấy chuẩn úy ngủ ngon quá nên tôi đã điều
động trung đội đi làm.
- Cám ơn anh. Trưa rồi, sao không
cho anh em vào nghỉ?
- Sắp xong rồi. Cố một chút
nữa cho hoàn tất. Anh em có nguyên một buổi chiều để
nghỉ ngơi.
Tân nhìn về phía phi trường,
thấy rừng cây im lìm, cậu hỏi:
- Khi đêm Việt cộng về quấy
nhiễu, tinh thần anh em thế nào?
- Bình thường. Họ quen rồi.
Giặc tới thì đánh, giặc đi rồi thì ngủ tiếp nếu
chưa đến phiên gác. Chuẩn úy chưa quen nên thức suốt
đêm phải không? Đụng vài trận thì chuẩn úy cũng đổ
lì như chúng tôi vậy thôi. À, trung úy Bá chỉ định
trung đội mình cử một tiểu đội tiền đồn đầu
tiên, đóng cách hàng rào phòng thủ hai trăm mét, ngay phía
trước vọng gác số hai của trung đội. Trung úy nhắc
phải ở đúng vị trí nầy để tránh ăn đạn của phe
mình. Đem theo võng giăng trên cây để ngủ và để canh
gác. Về cách ứng xử khi gặp địch thì cứ đúng theo
những điều mà trung úy đã phổ biến trong buổi họp
các cấp chỉ huy của đại đội chiều hôm qua.
- Hôm nay, lần đầu tiên, mình
cử tiểu đội Một được không?
- Dạ được. Tiểu đội Một
của hạ sĩ nhất Cung thiện chiến nhất đại đội.
- Anh báo với tiểu đội trưởng
cho anh em ăn cơm chiều sớm để chuẩn bị lên đường
trước khi trời tối. Bảo hạ sĩ nhất Cung đến gặp
thượng sĩ Lập lãnh hai hỏa pháo màu đỏ và bổ sung
đạn dược cho đủ một cấp số hay nhiều hơn càng tốt.
Năm giờ rưỡi chiều, tập họp để tôi kiểm tra lần
cuối cùng.
Tân nhìn xuống đồi, anh em đã
xong việc, người nào mặt mũi cũng đỏ gay, mồ hôi nhễ
nhại. Nhìn họ, Tân cảm thấy một nỗi thương mến rộn
lên trong lòng. Cậu đi một vòng quanh đỉnh đồi, quan
sát những nơi mà quân địch có thể bò lên; xong rồi
cậu trở về dãy nhà của trung đội. Sau khi cơm nước
xong, mọi người nằm rải đều trên dãy giường và ngủ
ngon lành trong cái nóng hâm hấp của buổi trưa hè. Trời
đứng gió, không khí như cô đặc lại. Từ dưới chân
đồi vọng lên tiếng chim quốc gõ nhịp đều đều làm
tăng thêm nỗi cô tịch của núi rừng.
Mặt trời ngã dần về hướng
Tây. Tân biết rằng trong chốn nầy, mặt trời sớm khuất
bóng sau những dãy núi cao nên đêm dài ra và ngày ngắn
lại so với chốn đồng bằng. Cậu định đi tìm trung
đội phó để cắt đặt công việc ban đêm thì chuẩn úy
Bính bước vào.
Bính cười vui vẻ:
- Từ sáng đến giờ muốn sang
anh chơi mà mãi lo sắp xếp cho trung đội, bây giờ mới
đi được. Khi đêm thấy Việt cộng về đốt nhà anh có
sợ không?
- Cũng hơi sợ. Còn em?
- Chẳng sợ chút nào mà còn thấy
vui nữa. Ở đây hơn một tháng rồi, ngày đêm trôi qua
đều đều cũng chán. Em mong cho chúng nó đến đây, mình
có dịp đấu súng một lần cho biết thế nào là đánh
nhau. Anh Tân, dịp đó có thể sắp đến rồi.
Tân có vẻ chú ý:
- Em nói đùa hay nói thực?
- Thực chứ.
- Dựa vào đâu mà em nói như
vậy?
- Em leo lên đỉnh đồi để qua
đây với anh thì gặp trung úy Bá đang liên lạc vô tuyến.
Trung úy ngoắt em lại, ra hiệu cho em chờ một chút. Liên
lạc xong, anh Bá nói với em rằng đêm rồi, Việt cộng
đào hào, cắt đứt con đường đi ra của mình rồi.
- Làm sao trung úy biết được?
- Máy truyền tin của đại đội
mình bây giờ bắt trực tiếp làn sóng của trung tâm hành
quân sư đoàn. Tiểu khu nhận được tin tức đó từ
chính quyền địa phương và báo đến bộ tư lệnh sư
đoàn. Có lẽ quân đoàn Hai đang chuẩn bị trực thăng
sẵn sàng cung cấp cho sư đoàn mình.
Tân nhíu mày suy nghĩ rồi hỏi:
- Theo em thì việc đốt nhà ở
phi trường đêm rồi và việc đào đường có liên can
với nhau không?
- Chắc là có. Trung úy Bá đoán
rằng họ đã theo dõi đoàn xe chở tiểu đoàn rút về An
khê và biết rằng chúng ta chưa đi hết nhưng họ không
rõ còn lại bao nhiêu. Vì vậy, một mặt họ đốt nhà ở
phi trường để thăm dò, mặt khác, gấp rút cắt đường
liên lạc để nhốt mình lại đây. Có thể Việt cộng
đang lên kế hoạch ăn tươi nuốt sống đại đội mình.
Anh em mình sắp có dịp tham gia vào trò vui rồi. Theo em
thì họ muốn đánh gấp, sợ để lâu, mình rút đi luôn
thì mất miếng mồi ngon.
- Ý của trung úy Bá thế nào?
- Trung úy cũng cho rằng tình hình
nghiêm trọng, nhưng trung úy vẫn giữ nguyên nhận định
là Việt cộng chỉ đánh khi các toán trinh sát của chúng
đã điều nghiên xong cách phòng thủ của chúng ta. Vì
vậy, trung úy nhắc nhở trung đội của anh đưa tiểu đội
đi tiền đồn ngay từ đêm nay. Trung úy bảo ngăn cản
không cho trinh sát Việt cộng điều nghiên là trì hoãn
được cuộc tấn công của chúng.
- Anh cũng đồng ý như vậy. Hơn
nữa, đêm rồi mình bắn ra một loạt súng cối, có thể
chẳng gây thiệt hại gì nhưng Việt cộng cũng thấy được
hỏa lực của mình nên không dám làm liều đâu.
Bính lắc đầu:
- Em không cùng quan điểm của
anh và trung úy Bá.
- Vậy theo em thì thế nào?
- Theo em, Việt cộng có thể đánh
liền một trận để lấy tiếng vang. Họ có thể leo lên
ngọn cây cao trên ngọn đồi gần nhất, cách chúng ta
khoảng hai cây số, đặt ống nhòm nhìn sang đây vài lần
là biết được chỉ còn một đại đội đóng ở đây
thôi. Thế là họ có thể tấn công bằng cách sử dụng
ưu thế tuyệt đối về quân số và hỏa lực. Chỉ với
một nhúm người ở đây, lại ngoài tầm yểm trợ của
pháo binh thì chẳng phải chờ đợi điều nghiên cho mất
công sức và mất thì giờ.
Tân cười:
- Chà, chà. Nếu em là cấp chỉ
huy của Việt cộng thì anh sẽ nguy khốn nội trong đêm
nay. Em sẽ sử dụng lối đánh biển người phải không?
- Sao lại không? Biển người là
lối đánh rất nổi tiếng của cộng sản trong chiến
tranh Triều tiên và ở cả Việt Nam trong thời kỳ chống
Pháp. Cộng sản có thể thí bỏ nhiều nhân mạng cho một
mục tiêu chiến thuật hay chiến lược nào đó. Với
người cộng sản, sinh mạng là một công cụ rẻ tiền
có ở khắp nơi, không cần phải tốn kém nhiều để mua
sắm.
- Thế là họ có thể tấn công
chúng ta mà không sợ bị thiệt hại nặng?
-Vâng, em đoán như thế. Cứ
đánh, thắng hay thua một vài trận đối với họ không
quan trọng lắm. Điều quan trọng là họ gây được tiếng
vang để người ta chú ý đến lời tuyên truyền của họ
là được rồi. Thắng thì tốt mà bại cũng tốt luôn.
Tân cãi lại:
- Bại mà tốt sao được? Bại
thì phải thất thế cho sự tuyên truyền chứ.
- Không, theo em thì không phải
như thế. Sự tuyên truyền của họ thì không căn cứ vào
sự thực đang xảy ra, nghĩa là vào kết quả của trận
đánh đâu. “Nhân dân ta đồng loạt nổi dậy, quân dân
ta hợp đồng tác chiến, đã thắng lớn tại đâu đó,
hạ sát mấy trăm quân địch, thu được mấy trăm vũ
khí, vân vân.”. Đó, họ thu băng những lời tương tự
như thế rồi dùng để mô tả bất cứ trận đánh nào,
miễn là địa điểm họ nói quả thực có trận đánh
xảy ra mà báo chí trong nước hay ngoại quốc có nói đến.
Tân ngạc nhiên:
- Tại sao em lớn lên và đi học
tại Sài gòn mà biết rõ cách làm của Việt cộng như
thế?
- Em rất thường bắt đài Hà
nội, đài Bắc kinh, đài Mạc tư Khoa và gần đây, đài
Giải phóng nữa.
- Tại sao em bỏ công, bỏ thì
giờ đi nghe các đài cộng sản như thế?
- Để đoán xem họ muốn đưa
đất nước mình đến đâu?
- Thú thật với em, anh đã có
nhiều năm sống chung và hoạt động cho cộng sản nhưng
anh không hiểu được cộng sản sâu sắc bằng em.
Bính cười:
- Em nói điều nầy là thực
lòng, anh đừng giận em nhé.
- Em cứ nói đi, anh không bao giờ
giận em đâu.
- Nầy nhé, theo em, càng gắn bó
với cộng sản thì càng không rõ sự thực. Trước hơn
ai hết, cộng sản cần phải bịt mắt những người hợp
tác để giữ được sự trung thành mù quáng của họ.
Nếu sáng suốt thì người ta sẽ không chịu làm tôi mọi
cho cộng sản nữa.
Nhìn thấy Tân cúi đầu một
cách buồn bã, Bính ái ngại nắm lấy tay bạn:
- Em xin lỗi nếu đã xúc phạm
đến anh. Xin anh thông cảm. Khi muốn trình bày cho ai điều
gì, em thường không cưỡng lại được khuynh hướng bộc
bạch mọi ý nghĩ của mình ra. Có thể nhận xét của em
vừa rồi có phần không đúng lắm, hay có phần thái quá.
- Nhận xét đó đúng lắm và
chẳng thái quá chút nào. Những người theo cộng sản
cũng như con ngựa kéo xe bị che hai mắt nên chỉ thấy
cái hướng được cho phép nhìn mà thôi. Đôi khi nghĩ đến
quá khứ, anh vừa thấy thương thân, vừa thấy xấu hổ
và đáng trách.
- Không, quá khứ của anh không
có gì đáng xấu hổ mà còn đáng kính trọng nữa. Cái
động cơ thúc đẩy anh theo cộng sản là tấm lòng yêu
nước hoàn toàn trong sáng của thời thơ ấu. Lúc nhỏ em
cũng có lòng yêu nước nhưng em không bằng anh vì em không
dám dấn thân như anh. Khi anh biết mình bị lợi dụng cho
mục đích xấu xa và có hại thì anh quay lại làm người
tự do. Đó là điều đáng quí. Đáng trách là những
người vẫn còn u mê hay cố tình u tối vì không đủ can
đảm thoát ra khỏi sự ràng buộc với cộng sản. Anh
không nên có mặc cảm về quá khứ của anh. Hơn nữa,
anh đã hoàn toàn cắt đứt quá khứ của mình rồi mà.
Tân thở dài:
- Dứt khoát từ bỏ quá khứ
không phải là việc dễ dàng.
Bính ngạc nhiên:
- Tại sao vậy? Anh đã chấm dứt
mọi liên hệ với cộng sản và về với hàng ngũ quốc
gia. Thế không phải là dứt khoát từ bỏ quá khứ sao?
- Phải rồi. Tuy nhiên chỉ mới
dứt khoát trên hành động nhưng về tình cảm thì chưa
hẳn. Mỗi khi nhớ đến quãng đường thơ ấu, anh vẫn
cảm thấy ít nhiều xốn xang trong lòng. Anh chưa quên được
những đồng chí cũ của anh đang còn theo con đường đó.
Anh nghĩ rằng khi họ nhắc đến anh thì họ cho rằng anh
đã đánh mất sự trung thành.
Bính tỏ vẻ tức giận:
- Tại sao lại đánh mất sự
trung thành? Ngày xưa anh đi theo Việt Minh, anh thề trung
thành với cái gì? Chắc chắn không phải trung thành với
đảng vì lúc đó anh có biết đảng là gì đâu, có đúng
vậy không?
- Đúng vậy.
- Như tất cả những người yêu
nước, anh thề nguyền trung thành với Tổ quốc, với dân
tộc. Lúc đó nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới ra
đời, với khẩu hiệu cơ bản là độc lập, tự do, hạnh
phúc. Em nghĩ rằng, anh thề hiến dâng mình cho những thứ
cao quý đó. Nếu ngày nay, anh còn theo cộng sản thì chính
anh đã phản lại lời thề ban đầu của anh. Nầy nhé,
cộng sản rêu rao dân chủ nhưng đảng nắm hết, dân có
chút quyền nào đâu. Bắc Việt bây giờ là một bộ phận
bị Mạc tư khoa và Bắc kinh chi phối, thế thì độc lập
chỉ là giả hiệu. Tự do thì chắc chắn không có rồi.
Vụ đàn áp Nhân văn giai phẩm, sự kiểm soát toàn diện
con người ngoài đó cho thấy tự do ở ngoài đó thế nào
rồi. Cuối cùng là hạnh phúc. Chắc chắn anh không quên
được cuộc đấu tố đẫm máu và nỗi thống khổ kéo
dài của đồng bào miền Bắc mà anh Thảo đã kể cho
chúng ta nghe ở quân trường Thủ đức. Hạnh phúc mà
người cộng sản ban cho nhân dân là như thế đó. Anh từ
giã cộng sản, chính là anh đã trung thành với Tổ quốc,
với chí hướng ban đầu tốt đẹp và thiêng liêng của
anh. Anh không nên ray rứt nữa.
Bính ngừng lại một chút rồi
dịu giọng:
- Trong việc từ bỏ cộng sản,
anh có một hành động mà em rất khâm phục, bây giờ em
mới nói ra. Lúc anh bị bắt là anh đã quyết định từ
bỏ cộng sản thế mà anh cương quyết bảo vệ các đồng
chí của mình dù phải hi sinh tính mạng trong lúc bị tra
tấn. Điều đó có giá trị hơn cả hành động anh hùng
mà người ta thường ca tụng. Người anh hùng là người
dám hi sinh tính mạng để bảo vệ cái mà mình đang theo
đuổi. Ở đây, anh dám hy sinh tính mạng để bảo vệ
cái mà mình vừa từ bỏ. Em khâm phục anh chính là chỗ
đó. Với cộng sản, anh đã sống rất đẹp mà kết thúc
cũng rất đẹp. Anh chẳng còn nợ nần gì với cộng sản
nữa. Đúng ra, cộng sản còn nợ anh rất nhiều, cái món
nợ mà anh không bao giờ đòi họ phải trả.
Bính dừng lại nhìn bạn, ái
ngại:
- Xin lỗi anh, em đang đi quá sâu
vào quá khứ và vào tâm tư thầm kín của anh. Không biết
anh có phiền không?
- Không sao, em cứ nói. Anh thích
sự thẳng thắng. Hơn nữa tư tưởng của em giúp cho anh
sáng tỏ được khá nhiều vấn đề.
- Thế thì em phải nói tiếp. Từ
lâu qua thái độ và lời nói của anh, em biết anh vẫn
còn áy náy về việc từ bỏ cộng sản và em muốn nói ý
kiến của em nhưng chưa có dịp. Hôm nay, anh hãy cho em nói
cho hết lời. Giới trẻ Việt Nam đã tham gia cách mạng
là vì yêu nước chứ đâu phải yêu chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa đó là cái thứ được sinh ra ở trời Âu xa
xôi do một ông triết gia bất mãn xã hội thời đó. Thế
thì cộng sản đâu có liên can gì đến Tổ quốc chúng
ta, đến cái giang san mà ông cha mình đã dày công xây
dựng. Những người mệnh danh cách mạng muốn đem tròng
cái lý thuyết trời Âu đó lên đầu dân tộc mình, lên
mồ mả ông cha mình thì anh từ bỏ họ là điều rất
phải. Anh không nên có mặc cảm thiếu trung thành với
họ. Anh đang đi đúng đường khi trở lại với vị trí
người công dân miền Nam. Trong cương vị người công dân
miền Nam, anh đi vào chiến tranh để cùng chịu đau khổ
với toàn thể đồng bào ruột thịt của mình. Thế thì
còn chê trách vào đâu được.
Tân đáp lời với giọng đầy
cảm xúc:
- Cám ơn em. Sự phân tích của
em đã an ủi anh rất nhiều.
- Anh không nên khen ngợi em thái
quá như thế. Chỉ cần anh nhận rằng ý kiến của em
không quá sai trái là em mừng lắm rồi. Thôi bây giờ,
anh em mình hãy dẹp quá khứ sang một bên để lo cho hiện
tại, lo đối phó với tình trạng rất nguy hiểm đang sắp
xảy đến cho mình.
Bính ngừng một chút, rồi nói
tiếp:
- Anh Tân, trung úy Bá có bàn với
em một điều khá quan trọng có liên quan đến anh.
Tân ngẩng lên, chăm chú nhìn:
- Chuyện gì mà quan trọng vậy?
Tại sao lại liên quan đến anh?
- Anh cũng thấy, hiện nay chúng
ta không có đại đội phó. Hình như cả trung đoàn đều
như thế cả. Cho nên, khi đại đội trưởng vắng mặt,
như bị rủi ro ngoài chiến trường chẳng hạn thì một
trung đội trưởng lên thay thế ngay trong khi chờ đợi
lệnh của tiểu đoàn. Đại đội mình có ba trung đội
trưởng đều là chuẩn úy nên trung úy muốn chỉ định
trước một người thay thế khi khẩn cấp.
- Thì chuẩn úy Tám chứ ai nữa.
Anh ấy lớn tuổi, có thâm niên quân vụ lại về đây
trước mình.
- Theo trung úy Bá, anh Tám từ hạ
sĩ quan mới được lên chuẩn úy, có kinh nghiệm nhưng
chậm chạp lại hơi nhát vì đã có vợ và bốn con. Vì
vậy, trung úy nói, khi cần thì anh lên thay làm đại đội
trưởng tạm thời. Trung úy không muốn chỉ định trước
một cách công khai vì sợ nói ra thì xui xẻo nên dặn em,
khi cần thì mới nói điều đó ra với mọi người trong
đại đội.
Bính nói xong, không đợi Tân trả
lời, vội vã bước ra ngoài. Tân cũng ra theo, đi tìm Hạ
sĩ nhất Cung để dặn dò công việc của toán tiền đồn
đêm nay.
Ngày lại ngày, cuộc sống bình
thản trôi qua. Sự lo âu bị tấn công của những ngày
đầu dần dần lắng xuống nên binh sĩ trong đại đội
bắt đầu có ý nghĩ sư đoàn cho nằm đây để dưỡng
quân. Vì vậy đại đội trưởng cứ phải thường xuyên
nhắc nhở các cấp chỉ huy trung đội phải đề phòng sự
chểnh mảng canh gác của binh sĩ trong trung đội mình.
Nhưng rồi một sự kiện xảy ra
làm cho mọi người trở lại với tâm trạng cảnh giác
đề phòng.
Một đêm vào giữa khuya, một
tiếng nổ lớn vang lên dưới chân đồi. Mọi người
vùng dậy, vớ ngay súng đạn chạy ra các hố cá nhân,
đạn lên nòng, chăm chú nhìn xuống đồi, theo dõi những
bóng đen của những bụi cây hiện lờ mờ dưới ánh
sáng yếu ớt của bầu trời đầy sao. Trong trạng thái
căng thẳng, họ nhìn bụi cây nào cũng có vẻ di động.
Họ biết rằng, ban đêm một bụi cây nào đó trước
mặt, có thể chỉ là một cành cây rậm rạp mà kẻ thù
đã chặt rời khỏi mặt đất, dùng tay dựng đứng,
nương theo đó nhích dần đến vọng gác rồi nhảy xổ
lên với thanh mã tấu bén ngót hay cây súng có cắm lưỡi
lê nhọn hoắt trên tay.
Tân đang ngồi dưới hố cá
nhân, thấy có bóng người tiến tới, cậu hô khe khẽ:
- Ai? Đứng lại. Anh Năm phải
không?
- Không, anh Ba. Trung úy Bá đây.
Chuẩn úy Tân đó phải không?
- Phải. Tiếng nổ ở đâu vậy,
trung úy xác định được chưa?
- Phía trước trung đội Ba, bên
ngoài hàng rào, chắc là mìn của mình gài. Ở đó có cái
khe dẫn nước mưa từ trên đồi xuống và đổ ra suối.
Việt cộng có thể men theo khe nầy để bò lên nên tôi
đã cho gài một quả lựu đạn miểng. Có lẽ quả nầy
đã phát nổ.
- Ngoài tiếng nổ có gì khác nữa
không?
- Người lính gác gần đó bảo,
sau tiếng nổ, hình như có tiếng động sột soạt, nhưng
không rõ lắm.
- Tại sao không cho lính bắn một
loạt về phía đó?
- Vô ích, ban đêm có thấy gì
đâu. Vả lại, hướng đó có thể gần với tiểu đội
tiền đồn của trung đội Ba. Các anh em cũng nhớ lệnh
của tôi là khi nào thấy Việt cộng mới nổ súng, không
được bắn bừa bãi.
- Sợ hết đạn?
- Đạn dự trữ khá dồi dào
nhưng nếu bắn bừa bãi một cách vô ích thì có lúc cũng
cạn. Nhớ là chúng ta phải cố thủ từ bốn tiếng đồng
hồ trở lên, không nên hoang phí đạn dược.
- Bây giờ, chúng ta làm gì đây?
- Không có gì đáng sợ. Nếu có
đông Việt cộng về dưới kia thì tiểu đội tiền đồn
đã bắn hay giật hỏa pháo rồi. Tuy nhiên, cứ để anh
em bố trí tại chỗ độ một giờ đồng hồ, nếu vẫn
yên tĩnh thì vào ngủ lại. Nhớ dặn lính canh cẩn thận;
trung đội trưởng và trung đội phó thay nhau đi tuần tra
nhiều lần cho đến sáng.
Tình hình tiếp tục yên tĩnh đến
hết đêm. Sáng ra, khi tiểu đội tiền đồn của trung
đội Ba vừa lên đến đỉnh đồi, mọi người bu quanh
hỏi han. Giọng hạ sĩ Nhi, tiểu đội trưởng oang oang
trả lời:
- Lựu đạn dưới khe nổ tung
nhưng không biết là thú rừng hay trinh sát Việt cộng
vướng phải dây.
Bính hỏi tiếp:
- Anh có đến xem xét không?
- Dạ có. Tờ mờ sáng là tôi
dẫn tiểu đội đến đó. Thấy có máu đọng một vũng
nhỏ, nhiều giọt máu rải dài về con suối rồi hết. Có
lẽ nó bị thương nhẹ thôi.
- Lúc mìn nổ, các anh có nghe
thấy gì không?
- Không, chúng tôi đóng phía
ngoài cách chỗ đó khá xa, phải đến hơn ba trăm mét,
nên chẳng thấy gì cả. Ban đêm trong rừng, sát một bên
cũng chưa chắc quan sát được rõ.
Sự việc nầy chỉ gây một xáo
trộn nhỏ trong sinh hoạt của đại đội. Vài hôm sau
chẳng ai nhắc đến nữa.
Một buổi sáng, các trung đội
được lệnh xuống bố trí dưới chân đồi để giữ an
ninh cho phi cơ đến tiếp tế. Chiếc trực thăng đáp
xuống khoảng trống trên đỉnh đồi, mang theo gạo, thức
ăn nhưng không có thuốc hút. Buổi chiều, các trung đội
trưởng đồng loạt báo cáo lên đại đội trưởng rằng
lính đều bất mãn. Ở trung đội Một, lính còn dọa bỏ
gác nếu không kiếm ra thuốc hút cho họ. Cuối cùng đại
đội trưởng quyết định cho một trung đội băng rừng
ra ngoài xóm có dân ở cách đó hơn mười cây số để
mua thuốc hút cho lính.
Chuẩn úy Bính tình nguyện đi.
Cả trung đội Ba khởi hành từ
sáng tinh mơ. Suốt ngày, Tân ở nhà lo lắng, đi ra rồi
lại đi vào, lắng nghe tiếng súng nổ từ trong rừng về
hướng đi của trung đội. May thay, đến xế chiều thì
trung đội trở về bình yên. Bính vui vẻ kể lại chuyến
đi của trung đội mình:
- Mấy tháng rồi sống biệt lập
nơi nầy, y như là đi tù cấm cố. Hôm nay ra thấy mặt
người dân thật là vui thích. Dân thấy lính ra cũng mừng
rỡ lắm, hai bên chuyện trò thực rôm rả. Trong xóm chỉ
có một quán nho nhỏ duy nhất, lính mua hết tất cả
thuốc hút và nhiều thứ khác cho vào các bao và thay nhau
vác về.
Tân hỏi:
- Em đi theo con đường hay băng
rừng?
- Đi trên đường vì rừng già
khó đi lắm. Lủi vào trong đó, có lẽ giờ nầy chưa về
tới đâu.
- Em có gặp chỗ đường bị đào
bứt ngang không?
- Có. Một cái hào khá sâu, xe
tăng cũng không thể băng qua được. Đến chỗ đó, em
phải ra lệnh lính dừng lại bố trí, cử trung sĩ Mạnh
và một binh sĩ lên quan sát kỹ, thấy vắng vẻ rồi mới
cho cả trung đội băng qua. Thực là một chuyến đi lý
thú. Tháng sau, em lại xin trung úy cho em dẫn trung đội đi
nữa.
- Em tính ở đây mãi sao? Anh mong
có lệnh đi cho khỏi nơi nầy.
Bính cười to:
- Nhưng chưa được đâu, phải ở
chờ một binh đoàn Việt cộng đến đây mình bàn giao
thì mới đi khỏi đây được.
Hai bạn cùng cười vui vẻ.
Thêm nửa tháng bình yên nữa
trôi qua. Một buổi chiều, trung úy Bá cho gọi các trung
đội trưởng đến gấp và nói ngay:
- Tôi vừa được nhận được
lệnh của sư đoàn, ngày mai đại đội mình rút ra khỏi
nơi đây.
Mọi người hân hoan reo mừng.
Tân hỏi:
- Sư đoàn có giải thích tại
sao cho mình đi khỏi nơi nầy không?
- Không. Trong quân đội chỉ có
ra lệnh thôi, không bao giờ giải thích lý do.
- Có đơn vị nào đến để
chúng ta bàn giao vị trí nầy hay không?
- Về sau nầy thì chưa biết sao
còn bây giờ thì chúng ta được lệnh rút lui mà không
bàn giao cho ai hết.
Trung úy Bá trầm ngâm một chút
rồi bảo:
- Có lẽ bộ tư lệnh sư đoàn
thấy rằng đại đội mình làm mồi để nhử không thành
công nên rút về giao nhiệm vụ khác.
Tân cười to:
- Cục mồi nầy thiu rồi, con
chuột không thèm mò đến ăn. Vứt đi thôi.
Mọi người cùng cười theo vui
vẻ.
Trung úy Bá nghiêm giọng, nói:
- Được đi khỏi chỗ nầy, anh
em chớ vội mừng. Hết đóng đồn thì về đi hành quân.
Cuộc đời lính chiến có chỗ nào sung sướng đâu.
Thượng sĩ Bảo cãi lại:
- Hành quân cũng được. Nguy hiểm
nhưng vui. Nằm ở đây chán lắm rồi. Mà có phải nằm
một cách thoải mái đâu. Lúc nào cũng khắc khoải chờ
đợi Việt cộng dẫn tử thần đến đưa lưỡi liềm
vào cổ mình.
Bính chỉnh ngay:
- Anh phải nói Việt cộng dẫn
tử thần đến đưa búa liềm vào cổ mình thì mới thực
chính xác.
Câu nói làm mọi người cười
ồ. Ở đây quá hoang vu nên người ta sẵn sàng cười vui
với bất cứ câu khôi hài nào.
Trung úy Ba khoát tay:
- Thôi, cười giỡn bao nhiêu đó
đủ rồi. Bây giờ hãy nghiêm chỉnh bàn bạc việc thu
dọn nơi đây để rút lui.
Chuẩn úy Tám hỏi:
- Rút lui bằng cách nào? Có phải
xe đến đón chúng ta như đã đón tiểu đoàn hay không?
- Không. Sư đoàn bảo rằng đưa
xe vào thì phải sửa sang lại đường sá, rồi lại phải
có thiết giáp yểm trợ, lôi thôi lắm. Sư đoàn chỉ xin
cho chúng ta một chuyến trực thăng để chở những thứ
nặng nề. Chỉ vài ba người theo phi cơ, còn lại di
chuyển theo đường bộ, xe sẽ đón chúng ta ngoài kia, chỗ
tương đối an ninh và có thể vào được.
- Chúng ta về An khê hay Qui nhơn?
- Chưa biết. Cứ tới đó lên xe
rồi người ta chở đi đâu mặc họ. Bây giờ, các anh về
tập họp trung đội thu xếp dần đi. Đúng bảy giờ sáng
mai là phải sẵn sàng đón trực thăng đến.
Nghe tin di chuyển, mọi người
trong các trung đội reo hò vang khắp ngọn đồi.
Một đêm bình yên trôi qua. Sáng
hôm sau, khi màn sương trắng xoá còn bao phủ khắp thung
lũng thì đã có tiếng phi cơ văng vẳng từ xa vọng đến.
Không bao lâu, chiếc trực thăng đen ngòm đáp xuống đỉnh
đồi. Người ta hấp tấp mang những thứ nặng nề lên.
Trong các món nầy, quan trọng nhất là hai cây đại liên
và hai súng cối nên bốn xạ thủ được phép đi theo.
Vài phút sau, trực thăng vút lên và nhanh chóng biến mất
trên bầu trời.
Ngay tức thì, đại đội, theo
một hàng dọc, bắt đầu xuống núi. Trung đội Ba của
Bính đi đầu, kế tiếp là trung đội Một của chuẩn úy
Tám, rồi đến ban chỉ huy đại đội và sau cùng trung
đội Hai của Tân đi bọc hậu sẵn sàng bẻ gãy sự truy
kích của địch.
Ở miền Trung, mùa mưa chưa đến
nên đường đi vẫn còn quang đãng, những bước chân dẫm
trên lá khô nghe xào xạc. Vài viên sỏi bị bật ra khỏi
mặt đất lăn lông lốc xuống chân đồi.
Tân tách ra khỏi đoàn quay lại
nhìn lần cuối cái nơi mà cậu đã trải qua những tháng
đầu tiên trong quãng đời binh nghiệp của mình. Trên
đỉnh và trên sườn đồi, những dãy nhà tranh đứng im
lìm một cách buồn bã. Kia kìa, những vọng gác của
trung đội, nơi đêm đêm cậu đã ngồi bên những người
lính, chăm chú nhìn vào màn đêm tối đen bên dưới. Cậu
trở vào hàng, đi sau người lính cuối cùng. Cậu bước
qua dòng suối nước trong veo chảy len lỏi qua những gộp
đá to. Dưới lòng suối những viên sỏi nhỏ trắng tinh,
nằm lẫn trong lớp cát màu vàng phơn phớt. Tân nhớ lại
những buổi trưa nóng nực, cậu xuống đây một mình,
dầm mình trong dòng nước trong veo mát lạnh, tai lắng
nghe tiếng than thở êm êm của núi rừng.
Cậu đưa tay vẫy chào rồi hối
hả theo đoàn quân.
Gần trưa, đại đội ra đến
xóm nhà dân. Đoàn quân xa đã chờ sẵn ở đó. Mọi
người vội vã leo lên, xe bon bon trên đường về Quy nhơn
và vào khu hậu cứ của sư đoàn. Tiểu đoàn trưởng và
một số sĩ quan đã đứng sẵn ở sân để đón tiếp.
Người ta mừng rỡ bắt tay nhau. Đại úy An ôm lấy trung
úy Bá:
- Gặp lại đại đội về đây
an toàn, tôi mừng quá. Hôm qua nhận được lệnh đón đại
đội về, cả đêm tôi không ngủ được, cứ mong cho
trời mau sáng. Từ hơn một tháng nay, tôi sợ có lúc lên
Kannack hốt xác anh em về, trong lòng luôn luôn bồn chồn
không yên. Bây giờ thì ổn cả rồi, đại đội lại trở
về với tiểu đoàn. Cậu vào nhận chỗ ở cho đại đội
rồi lên văn phòng nhận lệnh.
Chỗ ở tạm của đại đội là
một khu nhà trống, nền xi măng, không có giường chiếu
gì cả. Mọi người phải trải tấm vải nhựa xuống nền
nhà mà ngủ. Tuy thế, ai cũng tỏ vẻ hài lòng vì chỗ ở,
tuy không sang trọng nhưng rộng rãi và sạch sẽ, lại nằm
trong khu an ninh và đông đúc của vùng ngoại ô thành phố.
- Chuẩn úy Tân!
Cậu quay lại thấy thuợng sĩ
Lập đứng ở bệ cửa ra vào, nét mặt tươi cười. Cậu
bước tới bắt tay:
- Chào anh Lập, anh mạnh khoẻ
không?
- Cám ơn chuẩn úy. Gặp lại
chuẩn úy, tôi mừng quá. Tôi chỉ sợ….
Tân cười:
- Anh sợ gì? Sợ tôi chết về
tay các đồng chí cũ của mình phải không?
Lập gật đầu:
- Ra trận thì ai cũng có thể
chết nhưng cái chết của chúng mình thì bi thảm hơn các
cái chết khác. Thôi bây giờ về tới chỗ bình an, ít
nhất trong vài ngày sắp tới. Cuộc đời chiến binh thì
tính từng ngày. Trung úy Bá mời các trung đội trưởng
đến gặp gấp.
- Vâng, anh đi mời các người
khác đi, tôi phân chỗ ngủ cho anh em trong trung đội rồi
lên ngay.
Cậu bước ra sân và đến gian
nhà dành cho ban chỉ huy đại đội. Các trung đội trưởng
đã có mặt, ngồi quanh chiếc bàn nhỏ, trên có bình trà,
vài cái ly và một đĩa bánh ngọt. Cậu cười vui vẻ:
- Trung úy Bá ăn mừng anh em mình
được trở về với tiểu đoàn bằng trà và bánh ngọt
đây phải không?
Trung úy chỉ chuẩn úy Bính ngồi
ở cuối bàn:
- Không phải của tôi. Chuẩn úy
Bính mới mang về tức thì đây.
Tân ngạc nhiên:
- Ở đâu mà Bính có những thứ
nầy đây?
Bính cười:
- Vừa xuống xe, em giao việc sắp
xếp cho trung đội phó rồi chạy ngay ra dãy hàng quán bên
kia đường. Anh Tân có nhớ cái quán tạp hóa có cô bé
xinh xinh không?
Tân đáp:
- Nhớ rồi, cô bé tên Duyên. Lúc
về đây chờ đợi trình diện đại tá tham mưu trưởng,
chiều nào hai anh em cũng ghé qua mua một món gì đó. Cô
bé đó còn nhớ Bính không?
- Nhớ ngay. Duyên còn nhớ tên
anh là Tân nữa. Cô ấy hỏi sao em đi một mình, còn anh
Tân đâu rồi.
- Chú trả lời là anh Tân chết
rồi phải không?
- Anh đừng nói bậy. Em bảo anh
Tân về quê cưới vợ rồi.
- Cô ấy bèn bưng mặt khóc nức
nở?
- Đừng có ham. Cô ấy vẫn tỉnh
bơ một cách đáng ghét.
Trung úy Bá nói to:
- Thôi, để mấy chuyện lăng
nhăng đó lại chốc nữa bàn tiếp. Bây giờ tới chuyện
nhà binh. Các anh chú ý nghe tôi trình bày đây.
Mọi người ngồi ngay ngắn lại,
lắng tai nghe. Trung úy nói tiếp:
- Tôi vừa gặp đại úy tiểu
đoàn trưởng. Tin tình báo cho hay ít nhất có một trung
đoàn chính quy của Việt cộng vừa được đưa từ miền
Bắc vào, còn lực lượng vũ trang của chúng nó ở đây,
gom lại độ một tiểu đoàn. Vài ngày sau khi tiểu đoàn
rút ra để đại đội chúng ta ở lại Kannack thì có dấu
hiệu địch đang chuyển quân. Sư đoàn nghĩ rằng địch
sẽ tràn ngập tiêu diệt đại đội mình. Bộ tư lệnh
sư đoàn đã chuẩn bị quân tham chiến và đã xin Quân
đoàn Hai dành sẵn cho một số trực thăng. Khi nghe tin đó,
đại úy An không dám nói với ai và lo lắng đến bỏ ăn
bỏ ngủ. Đại úy ưá nước mắt khi nghĩ đến cảnh vào
hốt xác anh em mình về chôn. Vì vậy, chiều hôm qua, được
tin anh em mình về đây, đại úy mừng rỡ vô cùng.
Trung úy ngưng lại, lấy bình trà
rót vào các ly. Tân hỏi:
- Anh em mình vẫn thắc mắc là
sau khi mình rút ra rồi thì căn cứ Kannack còn giữ hay
không và chuyện làm mồi nhử Việt cộng tập trung có
còn tiếp tục hay không?
- Tôi có hỏi nhưng đại úy nói
không rõ chuyện đó. Tuy nhiên, có tin là căn cứ giao cho
sư đoàn Hai mươi lăm Bộ binh, họ tiếp tục giữ hay bỏ
thì không biết được.
- Bây giờ, số phận tiểu đoàn
mình thế nào? Liệu sư đoàn có trả mình về với trung
đoàn Mười lăm hay không?
- Sẽ trả chúng ta về với trung
đoàn, nhưng chưa trả ngay đâu. Mình còn phải tham gia một
cuộc hành quân hỗn hợp cấp quân đoàn để lùng cho
được manh mối của trung đoàn chính quy Bắc Việt. Dùng
củ khoai nhử cho con chuột đến, nhưng nó khôn quá cứ
lẫn tránh đi mãi, quân đoàn Hai hết kiên nhẫn rồi nên
dẹp củ khoai đi để tập trung lùng sục cho ra nơi ẩn
núp của nó.
- Chúng ta sẽ tham gia cuộc hành
quân truy lùng đó?
- Đương nhiên rồi. Nhưng bao giờ
bắt đầu thì thưa biết được. Tiểu đoàn trưởng nói
thương đại đội mình lắm. Trong khi chờ đợi hành
quân, tiểu đoàn cho đại đội mình nghỉ ngơi hoàn toàn
tại chỗ. Lính thì khỏi canh gác, muốn đi chơi đâu thì
đi nhưng chiều tối phải về, các trung đội trưởng
kiểm tra quân số mỗi ngày một lần trước giờ đi ngủ
là được rồi. Riêng sĩ quan thì tiểu đoàn đã mượn
được một xe Jeep để cùng nhau về Quy nhơn, ăn chơi cho
thỏa thích.
Trung úy đốt thuốc hút rồi nói
tiếp:
- Đó, tôi họp với tiểu đoàn
có bấy nhiêu chuyện. Bây giờ tôi đi lãnh xe còn anh em
về chuẩn bị đi thành phố chơi. Nhớ mang tiền lương
đi theo. Mai mốt lại vào rừng thì chẳng biết tiêu pha
vào đâu. À, tiểu đoàn có nhắc nhở anh em mình điều
nầy. Quy nhơn bây giờ là nơi tập trung rất nhiều sắc
lính, nhà hàng quán rượu nhiều vô số. Anh em có uống
rượu say thì về doanh trại mình mà nghỉ. Nếu anh em nào
sanh sự đánh nhau với lính các đơn vị khác, bị quân
cảnh còng tay nhốt vào nhà giam thì tiểu đoàn sẽ lãnh
về phạt nặng. Còn về chuyện chơi bời thì ở thành
phố Qui nhơn ổ điếm lu bù khắp nơi, các em ngồi đầy
trước các khách sạn để đón khách. Nhưng coi chừng,
rất nhiều em mang sẵn đủ thứ vi trùng hoa liễu để
tặng cho khách mua hoa. Nhớ, sau khi chơi xong rồi thì mua
thuốc uống ngừa ngay. Nếu không ngừa, mai mốt đi hành
quân mang theo cả ổ vi trùng ngày đêm cấu xé cơ thể
mình thì thà lãnh viên đạn của Việt cộng còn sướng
hơn!
Trung úy cười ha hả và nói
tiếp:
- Thôi về chuẩn bị đi. Mặc
quân phục hay thường phục cũng được. Có mấy sĩ quan
bên đại đội Hai và đại đội Ba xin tháp tùng. Được,
càng đông càng vui. Tôi đi lấy xe và đợi anh em trước
cổng trong mười phút thôi, nghe rõ chưa?
Mọi người đứng dậy, vội vã
bước ra khỏi phòng.
Vài phút sau, gần một chục sĩ
quan, hầu hết là chuẩn úy trẻ tuổi chen chúc nhau trên
một xe Jeep, phóng nhanh về thành phố Quy nhơn. Màn đêm
bắt đầu buông xuống nhưng đường phố vẫn sáng choang
trong ánh đèn điện đủ màu. Phố xá tấp nập, người
đi kẻ lại nhộn nhịp.
Xe lượn qua nhiều con đường và
dừng lại trước một nhà hàng và khách sạn sang trọng.
Mọi người lên lầu ngồi quanh một bàn dài. Rượu và
thức ăn được mang lên, anh em ăn uống vui vẻ. Ăn xong,
thiếu úy đại đội trưởng đại đội Hai vừa cười
vừa nói;
- Tôi là thổ công xứ nầy. Bây
giờ, no say rồi, anh em nào cần gái để “xả xui” thì
theo tôi vào trong kia, tha hồ chọn. Ở đây giá tương đối
rẻ, anh em đừng ngại. Ai không thích món đó thì cứ
ngồi tại đây nhậu tiếp.
Thiếu úy nói xong, có sáu người
đứng dậy, cười hô hố, buớc ra khỏi bàn và đi vào
một hành lang nhỏ hẹp. Trên bàn ăn chỉ còn lại ba
người, trung úy Bá, Tân và Bính. Tân mỉm cười hỏi
trung úy:
- Sao trung úy ngồi đây? Không
thích món đó à?
- Thích thì có thích nhưng sợ
lắm. Nghe nói vi trùng giang mai ở đây di chuyển từ người
nầy sang người khác, từ lính nội địa đến lính ngoại
quốc cho nên nó lờn thuốc rồi. Vướng vào nó thì phải
dùng liều rất mạnh mới trị được. Trị không hết
mang về tặng cho vợ thì tội lắm. Còn anh Tân, chưa có
vợ mà cũng sợ à?
- Sợ chứ. Vả lại, cứ nghĩ
một món đồ qua tay người nầy đến người khác, xài
cho chán chê mới đến phiên mình thì chẳng còn thích thú
gì nữa.
- Hay, nghe được lắm. Còn Bính,
chú cũng sợ chứ?
- Em thì chẳng biết sợ gì cả.
Nhưng em vốn trọng người đàn bà. Dùng đồng tiền để
biến thân xác họ thành đồ chơi cho mình thì em kinh tởm
lắm.
Trung úy cười khì khì:
- Chà, chà, đại đội nhận về,
không phải hai sĩ quan tác chiến mà hai nhà đạo đức,
hai triết gia.
Bính cười theo:
- Chẳng phải vậy đâu. Mỗi
người có một quan niệm sống riêng tư, chưa chắc ai đạo
đức hơn ai. Mấy anh em kia có vẻ dễ dãi với cuộc sống
nên thường họ có tính khoan dung hơn chúng em. Vả lại,
biết đâu trong số những người con gái đáng thương đó,
có người cần tiền nuôi mẹ nuôi cha mà không biết làm
gì khác trong thời buổi chiến tranh nầy. Nếu ai cũng như
anh em chúng mình thì cha mẹ những cô gái ấy ắt phải
chết đói.
Bính đứng dậy nói tiếp:
- Hai anh ngồi đây, em xuống phố
một chút rồi lên ngay.
Bính đi và độ mười lăm phút
sau trở lên, thấy bên bàn ăn cũng chỉ có hai người.
Cậu ngồi xuống, hỏi:
- Mấy ông tướng đó vẫn chưa
ra à? Làm gì mà lâu vậy?
Trung úy Bá lắc đầu:
- Chúng nó chiến đấu hăng quá
quên cả rút lui.
- Vậy thì trung úy vào cho lệnh
họ rút lui đi.
- Kệ, chừng nào tác xạ hết
đạn thì chúng nó phải rút lui thôi.
Bính vừa cười vừa nói:
- Em xuống phố thấy vui lắm.
Người ta bảo ban đêm ra ngồi ngoài bờ vịnh cũng thích
lắm. Anh Bá ngồi đây đợi đồng đội rút lui, em cùng
anh Tân ra bãi biển, anh nhé.
- Được, cứ đi, chốc nữa khi
nào về, tôi lái xe ra đón.
Tân chỉ thức ăn trên bàn. Trung
úy hiểu ý, nói:
- Cứ đi chơi đi. Tôi trả hết
tiền rồi về nhà, anh em góp lại.
Tân và Bính đứng dậy bước
xuống cầu thang rồi ra phố. Đi được một đoạn ngắn,
Bính bảo:
- Anh đợi em một tí, em lấy món
hàng trong nầy.
Nói xong, cậu bước vào cửa
tiệm treo rất nhiều đàn, hầu hết là guitare và
mandoline. Bính đến thẳng quầy bên trong cùng và trở ra
với cây đàn guitare trong bao vải mới toanh. Tân ngạc
nhiên:
- Đàn của ai vậy?
- Em mới mua.
- Mua tặng cho ai?
- Mua để dùng chớ tặng cho ai ở
đây. Đi ra bờ vịnh, em đàn cho anh nghe.
Hai anh em đi thẳng ra bờ biển.
Đang là mùa hè nóng nực nên ở đây khá đông đúc.
Người ta chiếm hết các băng đá, một số trải khăn
trên cát khô. Hai anh em ngồi trên thành một bồn cỏ,
nhìn ra khơi. Mặt biển đen ngòm, rải rác lấp lánh ánh
đèn nhỏ xíu của những chiếc thuyền câu.
Bính mở bao rút cây đàn ra, gảy
thử các dây rồi đàn một bản tình ca khá phổ biến.
Tiếng đàn thực du dương làm cho những người chung quanh
quay lại lắng tai nghe. Bản nhạc chấm dứt, Tân quay sang
nói:
- Hay lắm. Em học đàn từ lúc
nào vậy?
- Lâu lắm, từ năm mới bước
chân vào trường trung học.
- Lúc ở nhà, em có hay đàn
không?
- Có chứ. Đối với em, tiếng
đàn gần như là nhu cầu không thể thiếu được. Làm
việc mệt, em đàn lên một bản là tinh thần như được
bồi dưỡng bằng một thang thuốc bổ kỳ diệu.
- Em có thích nghe nhạc của đài
phát thanh hoặc trong băng ghi âm hay không?
- Thích nhưng không bằng tiếng
đàn của chính mình. Về giá trị nghệ thuật thì chắc
chắn tiếng đàn của mình không thể sánh nổi với tiếng
nhạc của những nghệ sĩ đã thành danh nhưng tiếng nhạc
của người khác không thể gây được cảm xúc rất đặc
biệt như tiếng đàn của mình được. Khi mình đàn thì
tâm hồn mình như quyện vào âm thanh phát ra. Cả hai hợp
thành một khối duy nhất chơi vơi trong không gian. Còn khi
mình nghe âm nhạc phát ra từ một chiếc loa thì tâm hồn
mình vẫn ở yên một chỗ để thưởng thức. Lúc bấy
giờ, tiếng nhạc dù hay, dù đẹp đến đâu cũng vẫn ở
ngoài tâm hồn mình. Trong trường hợp nầy, âm nhạc và
tâm hồn vẫn là hai thực thể rời nhau.
- Rất tiếc, anh không biết đàn
cũng chẳng có tâm hồn nhạy cảm như em nhưng khi nghe
tiếng đàn, anh cũng thấy đầu óc mình thư thái lắm.
Bính có vẻ mừng rỡ:
- Vậy hả. Thế thì, trong các
cuộc hành quân, khi nào dừng lại, em sẽ đàn cho anh
nghe để anh em mình cùng được vài phút quên đi nỗi cay
đắng trong chiến tranh.
Tân ngạc nhiên:
- Em tính mang đàn đi theo trong
các cuộc hành quân sao?
- Mua thì đem ra chiến trường
chứ để đâu bây giờ. Cây đàn nầy khá lắm, như anh
vừa nghe em đàn đó. Tiếng nó ấm cũng gần bằng tiếng
của cây đàn ở nhà em vậy.
Tân vẫn chưa hết băn khoăn:
- Ra mặt trận thì chỉ mang theo
súng đạn, chứ ai lại mang theo đàn.
Bính cãi lại:
- Nhưng đâu có luật lệ nào cấm
mang đàn theo trong các cuộc hành quân. À có một chuyện
chiến trường rất cảm động về cây đàn, em nghe chị
Mai kể lại hôm đi phép mãn khóa vừa rồi.
Tân lại ngạc nhiên:
- Sao? Chị Mai của em kể chuyện
chiến trường à?
Bính cười ngất:
- Chị Mai lặp lại câu chuyện
mà đại úy Thế đã kể cho chị ấy nghe.
- Đại úy Thế là ai?
- Là cái ông đại úy ở tổng
tham mưu, đang theo đuổi chị Mai; em đã nói cho anh nghe
rồi lúc còn học trong quân trường, anh không nhớ sao?
- Nhớ rồi, nhưng em chưa hề nói
ông ta tên Thế.
- Ừ, ông ta là đại úy Thế.
Cách đây hơn một năm thì ông ấy là trung úy đại đội
trưởng của sư đoàn Một ở mãi tận Quảng trị, Thừa
thiên lận. Sau khi bị thương, ông ta được lên đại úy
và được về tổng tham mưu làm ở phòng chiến tranh
chính trị. Ông ta kể rằng, trong một trận đánh ngoài
đó, Việt cộng rút lui để lại mấy chục xác chết
trong đó có một xác nằm gối đầu lên một chiếc đàn
guitare.
Tân thoáng sửng sốt:
- Thế à, tội nghiệp!
- Tội nghiệp thực. Đại úy Thế
bảo rằng cái xác đó còn trẻ lắm và có dáng học
sinh. Có lẽ là học sinh bị cộng sản miền Bắc đưa
vào trong những tốp đầu tiên để xâm lăng miền Nam.
- Từ ngoài Bắc vượt Trường
sơn vào Nam mà còn mang theo cây đàn thì thực là đáng
thương.
- Đáng thương và đáng phục
nữa. Đường Trường sơn đâu phải dễ đi như đường
đồng bằng. Leo núi, xuyên rừng, lội suối, băng qua vực
sâu, biết bao gian lao, lại phải mang nặng trên lưng. Thế
mà cũng đem theo được cây đàn. Có phải cực nhọc thôi
đâu. Còn khổ với cấp chỉ huy của họ nữa chứ. Sĩ
quan của cộng sản thì phải thuộc thành phần bần cố
nông thì có biết chi là âm nhạc, là cảm xúc, là nghệ
thuật. Mấy ông đảng viên đó hẳn là rất xốn mắt
khi thấy cậu lính oắc con vào Nam “giải phóng” mà còn
mang theo đàn. Hơn nữa, em nghe nói Việt cộng không ưa
đàn guitare. Chúng bảo tiếng đàn nầy ủy mị. Các ban
văn công của họ chơi toàn accordéon, nghe dồn dập dễ
kích thích lòng người.
- Đại úy Thế có kể gì thêm
về cậu lính chết với cây đàn không?
- Có, đại úy kể với chị Mai
rằng thấy nó nằm chết đầu gối lên cây đàn, ai nấy
đều sững sờ. Đại úy nhẹ nhàng nâng đầu nó lên,
rút cây đàn ra gảy thử. Các dây đều đúng thanh, chứng
tỏ cậu lính Việt cộng nầy thường chơi đàn trên
đường hành quân.
- Đại úy Thế biết đàn sao?
- Biết. Chị Mai bảo rằng ông
ta đàn khá lắm. Để em kể tiếp anh nghe. Đại úy cúi
xuống vuốt mắt cho thằng bé và ra lệnh lính đào cho nó
một cái huyệt khá sâu. Có một cậu lính của mình xin
đại úy cây đàn nhưng đại úy không cho. Đại úy úy
chôn cây đàn theo với thằng bé.
- Cảm động nhỉ.
- Thực là cảm động. Xua những
đứa bé như thế vào xâm lăng miền Nam, thực là một
tội ác khủng khiếp trong lịch sử loài người.
Tân thở dài:
- Thôi đừng nói chuyện chiến
tranh và tội ác nữa, nghe buồn lắm. Em đàn cho anh nghe
một bản nào thực êm đềm đi.
- Được, em đàn bản Suối mơ,
vừa đàn vừa hát anh nhé.
Sau khúc dạo đầu, tiếng đàn,
tiếng hát quyện và nhau, lúc trầm, lúc bổng, lúc dìu
dặt, lúc du dương. Khúc ca chấm dứt một cách êm đềm.
Tân bảo:
- Em đàn và hát hay lắm.
- Em rất thích bản nầy. Cứ mỗi
lần hát lên, em lại nhớ ông nhạc sĩ tài ba đang sống
ngoài miền Bắc. Anh có biết tác giả bản nhạc nầy
không?
- Biết. Ông ấy cũng là tác giả
của bản “Tiếng quân ca” mà Bắc Việt lấy làm quốc
ca. Không rõ về sau nầy ông ấy có sáng tác gì nữa
không?
- Sáng tác gì nỗi nữa. Em nghe
nói ông ấy vướng vào vụ Nhân văn giai phẩm và bị
liệt vào “bọn phản động, tay sai của giai cấp tư
sản”.
- Có lẽ ông ta đau khổ lắm.
- Không đau khổ sao được. Bao
nhiêu hùng tâm dũng khí đem trút cả vào những nốt nhạc
tuyệt vời của những ngày đầu cách mạng Mùa Thu. Bây
giờ rõ lại mới thấy tài năng và tấm lòng yêu nước
của mình đã bị lợi dụng vào một mục đích xấu xa.
Với tâm trạng như thế thì còn sáng tác sao nổi nữa.
Thực đáng tiếc cho một tài năng hiếm có của dân tộc
mình.
Bính cho đàn vào bao và kéo dây
cài lại. Cậu nói:
- Ở đây gió lộng, tiếng đàn
nghe loãng quá. Hôm nào hành quân vào trong vùng núi, em sẽ
ngồi trên một bờ suối, đàn và hát lại bản Suối mơ
cho anh nghe. Dài theo dãy Trường sơn của mình, có rất
nhiều con suối đẹp tuyệt vời phải không anh?
- Nghe em nói, anh nhớ lại con
suối ở Kannack, ngay dưới chân ngọn đồi mà mình đóng
quân. Con suối đẹp làm sao!
- Em cũng nhớ lắm. Cứ mỗi lần
dầm mình trong dòng suối đó, giữa khung cảnh u tịch của
núi rừng, em luôn luôn lắng nghe tiếng nước chảy róc
rách qua khe đá, cùng với tiếng chim hót líu lo trong vòm
lá dày đặc che kín bầu trời. Ước chi lúc đó em có
cây đàn để hòa theo tiếng suối và tiếng chim.
Tân hỏi:
- Trước khi đến Kannack, mình đã
có dịp dừng lại ở thành phố nầy và ở Tuy hòa, tại
sao em không mua một cây mang theo?
- Lúc đó, mình đã biết đơn vị
mình ra sao đâu. Hơn nữa, đi trình diện đơn vị tác
chiến mà xách theo đàn, đơn vị trưởng sẽ nhìn mình
với cặp mắt thế nào?
- Thế còn thời gian sống ở
quân trường, có thể chơi nhạc vào buổi nhiều lúc học
xong, sao em không mang đàn vào?
- Ở trong quân trường, em cũng
thèm cây đàn lắm. Đi bãi tập suốt ngày mệt nhọc,
chiều về chơi vài khúc nhạc là khỏe ngay. Nhưng ở quân
trường thì giấu cây đàn vào đâu được. Nghĩ tới
việc sĩ quan cán bộ ngày nào cũng đi xét phòng thì đâu
còn dám đem đàn vào nữa. Bây giờ thì mình là lính có
đóng dấu hẳn hòi rồi thì chẳng sợ ai nữa. Từ nay,
đi hành hành quân, một vai mang súng, một vai mang đàn.
Gặp giặc thì hạ súng xuống “pằng, pằng, pằng”.
Giặc chạy rồi thì hạ đàn xuống “từng tứng tưng”.
Cuộc đời lính chiến như thế không thú vị sao?
Bính ngưng nói, vụt đứng lên:
- Em nghe tiếng còi xe Jeep của
đại đội mình. Anh em đi tìm mình đó.
- Ối, thành phố nầy có biết
bao nhiêu là xe, xe nào cũng có còi cả mà.
- Chắc chắn xe của mình. Tai em
nghe nhạc quen rồi. Chỉ cần nghe âm thanh nào đó một
lần là em ghi nhớ và sau đó nhận ra được ngay, ít khi
sai lầm. Kìa đúng rồi, chiếc xe đang đi tìm anh em mình.
Thôi chúng mình về.
Hai anh em phóng ra lề đường.
Chiếc xe ngừng lại. Tân cố chui vào, còn Bính vai mang
cây đàn phải đứng bên ngoài bấu chặt vào sườn xe.
Chiếc xe rú máy lao vút tới trong phố xá đông người,
kèn xe vang lên inh ỏi cho đến khi ra khỏi thành phố.
Sáng hôm sau có lệnh tiểu đoàn
trưởng gọi trung úy Bá lên trình diện. Tân nói với
Bính:
- Có lẽ anh Bá lên nhận lệnh
hành quân rồi. Thôi từ giã phố phường.
Mười phút sau, thấy trung úy Bá
trở về, Tân và Bính vội đi nhanh đến hỏi:
- Chuẩn bị hành quân phải không
trung úy?
Bá lắc đầu:
- Chưa, hôm nay còn được nghỉ.
- Thế, tiểu đoàn gọi trung úy
lên làm gì?
Bá cười:
- Lên nhận giấy phạt của quân
cảnh.
Bính reo lên:
- Đúng rồi, phạt vì vi phạm
luật giao thông. Đêm hôm qua, lúc xe đi ngang qua trung tâm
thành phố, em có nghe nhiều tiếng còi của quân cảnh
nhưng trung úy tiếp tục phóng xe nhanh như bị ma đuổi.
Trung úy Bá cười:
- Lúc đó có nghe gì đâu. Trước
đó, hai cậu bỏ đi ra bãi biển, bọn kia tác xạ trong
các phòng lâu quá không chịu ra, tôi ngồi một mình uống
hết chai nầy đến chai khác. Lúc ngồi vào tay lái thì
say quá chừng, mình không lái nữa mà giao cho rượu lái.
Thế mà cũng về được đến đây, rượu lái tài thật.
Đây nầy, quân cảnh lập biên bản gởi giấy phạt về
đây.
Trung úy móc túi lấy mảnh giấy
bị xé làm đôi, ráp lại đọc to:
- Xe chạy quá tốc độ cho phép
trong thành phố, bóp kèn liên tục gây náo loạn, chở quá
số người cho phép, có người đứng bên ngoài chỗ ngồi,
không dừng lại khi có hiệu lệnh.
Bá thôi đọc, nhét mảnh giấy
vào túi:
- Bao nhiêu đó lý do, nguyên một
tháng lương cũng không chắc đủ để đóng phạt.
- Chừng nào trung úy đi nộp phạt
để anh em hùn tiền, mọi người đều phải chịu chung.
- Khỏi phải nộp phạt. Đại úy
tiểu đoàn trưởng đọc cho tôi nghe rồi xé giấy quăng
xuống đất. Đại úy nói: “Mình có ở đây đâu mà sợ.
Vài bữa nữa trả xe rồi vô rừng thì quân cảnh có vào
đến trong đó tìm mình để đòi nợ được sao? Nhưng
các cậu cũng nên bỏ cái tính lái xe ẩu đi, gây tai nạn
cho dân thì phiền phức lắm”. Nghe đại úy nói xong, tôi
lượm hai mảnh giấy phạt cất làm kỷ niệm về một
đêm ăn chơi trong những ngày làm lính chiến của mình.
- Đại úy tiểu đoàn trưởng có
nói gì nữa không?
- Có, ông ấy bảo mình còn nghỉ
ngơi được một hay hai ngày nữa thôi rồi hành quân.
- Tại đâu?
- Làm sao biết trước được,
tối mật quân sự mà. Tôi nghĩ rằng mình sẽ lùng sục
trong rừng, ở địa điểm nào thì chỉ có phòng hành
quân sư đoàn mới biết.
Quả thực, ba ngày sau, một buổi
chiều, tiểu đoàn nhận được lệnh hành quân. Mỗi
người được cấp phát bảy ngày lương khô để mang
theo.
Sáng hôm sau, khi mọi người đã
sẵn sàng thì đại đội trưởng được gọi lên họp
khẩn với tiểu đoàn trưởng. Khi trở về, anh mời các
trung đội trưởng vào phòng. Trung úy trải một tấm bản
đồ quân sự trên bàn, chỉ vào một nơi trên bản đồ
rồi nói:
- Chúng ta sẽ hành quân trong vùng
An lão, vùng có những đỉnh núi rất cao. Chắc chắn địa
thế vô cùng hiểm trở và việc định tọa độ sẽ rất
khó khăn.
Chuẩn úy Tám ngắt lời:
- Có bản đồ thì lo gì?
Trung úy Bá lắc đầu:
- Bản đồ quân sự nầy là của
người Pháp để lại. Vì vùng nầy quá hiểm trở, các
nhân viên địa dư chưa đặt chân đến được để vẽ
lại, nên nhiều nơi bản đồ chỉ dựa trên không ảnh,
vẽ một cách sơ sài với những vạch đen chạy dài chỉ
hướng của những dãy núi mà chẳng có vòng cao độ,
chẳng có hình ảnh của suối khe gì cả. Việc định
tọa độ điểm đứng của chúng ta sẽ rất khó khăn.
Tôi nói trước như thế để các trung đội trưởng hiểu
rõ tình hình mà chúng ta sẽ gặp.
Tân góp ý:
- Mình cứ đi theo tiểu đoàn thì
lo gì chuyện định tọa độ.
- Không, từ trước đến nay,
luôn luôn đại đội chúng ta đi theo một mũi riêng để
bao vây hay ngăn chận đường rút lui của địch nên tôi
cũng phải lo việc định điểm đứng của mình trước
hết. Đụng trận mà chấm sai tọa độ, gọi pháo binh
yểm trợ thì mình sẽ ăn đạn của phe mình.
Trung úy lấy cây thước nhỏ
trong túi áo đo vào bản đồ và nói tiếp. Chỗ nầy là
điểm xuất phát cách chúng ta đúng tám mươi cây số
theo đường chim bay.
- Mình sẽ đến đó bằng cách
nào?
- Trực thăng vận. Bây giờ,
chúng ta ra tập họp trên sân vận động của sư đoàn.
Trực thăng sẽ đáp xuống chở chúng ta đi. Đại đội
mình đi trên bốn chiếc. Trung đội Hai của anh Tân đi
đầu, thứ nhì là trung đội Ba của anh Bính, thứ ba là
ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng, cuối
cùng, trung đội Một của anh Tám. Các trung đội trưởng
hãy tập họp trung đội mình, phổ biến lại thể thức
hành quân trực thăng vận. Lưu ý anh em là từ trực thăng
nhảy xuống, tìm ngay chỗ ẩn núp cho an toàn, không ai
được nổ súng khi chưa có hiệu lệnh. Trung đội trưởng
phải nhìn bao quát các tiểu đội và luôn luôn giữ được
sự liên lạc với tôi. Nên nhớ điều quan trọng nhất
của hành quân trực thăng vận là giữ vững được hệ
thống chỉ huy hàng dọc ngay khi vừa đổ bộ. Nếu rơi
trúng vào điểm nóng thì giây phút đầu tiên có tầm
quan trọng rất lớn cho kết quả của cả trận đánh.
Tân nói:
- Tôi nghĩ rằng điểm đổ bộ
phải được dọn sạch trước cho an toàn để tránh thiệt
hại cho phi đoàn chứ.
- Thông thường là như thế nhưng
có khi cũng phải nhảy ngay sau lưng địch hoặc vào ngay ổ
để bất ngờ tiêu diệt địch. Đó là điểm nóng mà
tôi vừa mới nói. Thôi, các anh đưa trung đội mình ra
sân đi, kiểm tra quân số, vũ khí đạn dược. Trong nửa
giờ nữa chúng ta lên đường.
Sân vận động của sư đoàn là
một khu đất rộng, cách đường lộ khoảng ba trăm mét.
Nắng trong mấy tháng liên tiếp vừa qua làm cho cỏ cháy
khô, trơ ra mặt đất màu vàng xám. Cả tiểu đoàn đứng
lố nhố.
Có tiếng động cơ máy bay rõ
dần rồi một đoàn trực thăng vận tải ào ào bay đến,
cánh quạt quay vù vù làm cho bụi đất trên sân tung lên
mù mịt. Mỗi trung đội vội vã chui vào bụng một chiếc.
Lập tức các phi cơ bốc lên cao và lao về phía những
dãy núi xanh lơ. Bên cánh cửa mở rộng, một xạ thủ
đại liên lom lom nhìn xuống mặt đất.
Phía dưới, những ngôi nhà nhỏ
dần và mỗi lúc càng ít đi. Không bao lâu, chỉ còn những
đỉnh đồi nối tiếp nhau, có nơi cây cối um tùm, có
nơi lởm chởm đá. Máy bay lướt qua một thung lũng khá
sâu, dưới đáy lấp lánh một dòng suối bạc đổ vào
một thác trắng xóa.
Đang bay trên cao, trực thăng bỗng
sà xuống thấp, những ngọn cây to ra một cách nhanh
chóng, chạy giật lùi đến chóng mặt. Bên dưới hiện
ra một khoảng đất trống. Trực thăng hạ xuống lơ lửng
cách mặt đất độ hai mét. Anh xạ thủ đại liên thét
to:
- Nhảy xuống, nhảy xuống.
Vừa hét, anh vừa đẩy mạnh vào
lưng những người ở sát cửa. Cả trung đội lần lượt
phóng xuống. Vừa chạm đất, nhiều người ngã nhào vì
gió của cánh quạt. Lập tức, họ nhỏm dậy, phóng tới,
tìm một mô đất cao nằm mọp xuống, súng chĩa thẳng về
phía trước.
Đổ quân xong, đoàn trực thăng
vội vã bay lên và vút đi, không bao lâu chỉ còn là những
đốm đen nhỏ in hình trên nền trời trắng bạc.
Tân nằm im phía sau một gò mối,
cảm thấy đau rát ở đầu gối bên phải. Cậu nhớ, lúc
nhảy từ trực thăng xuống, cậu té sấp, đầu gối cụng
mạnh vào một tảng đá. Cậu nhìn thung lũng sâu, bên kia
là quả núi cao nghều nghệu. Cậu biết mình cùng với
đại đội sắp phải lao vào những đoạn đường gian
nan hiểm trở. Nếu cái đầu gối bị thương thì quả là
điều rất đáng lo.
Cậu nhìn quanh một lượt, thấy
hoàn toàn yên tĩnh, mọi người trong trung đội của mình
và của cả đại đội đang nằm bố trí đợi lệnh.
Cách xa hơn một trăm mét, trung úy Bá ngồi dưới một
gốc cây to đang nói trong máy truyền tin. Cậu đứng dậy,
bước tới vài bước. Đầu gối hơi đau, nhưng bước
chân vẫn còn vững. Nhiều người khác cũng đứng lên
phủi bụi và sửa lại quần áo cùng ba lô trên vai.
Bính chạy đến hỏi với giọng
lo lắng:
- Anh Tân, có bị thương không?
- Không, sao em hỏi vậy?
- Em nhảy xuống sau anh, thấy anh
té nhào, em lo quá.
- Không sao, chỉ hơi ê ẩm thôi.
Lần đầu tiên nhảy trực thăng, chưa có kinh nghiệm. Lần
sau sẽ khá hơn. Hôm nay, may mắn nhảy xuống vùng an toàn.
Rơi vào điểm nóng thì đâu được đứng mà trò chuyện
thế nầy.
Bính cười một cách hồn nhiên:
- Em thì thích nhảy vào điểm
nóng hơn. Trên trời sà xuống, được đón tiếp bằng
những loạt súng và mình cũng lịch sự đáp trả thì quả
thực là lý thú.
- Lúc nào anh cũng thấy em lạc
quan yêu đời. Kia kìa, đại đội trưởng gọi mình đến
nhận lệnh.
Hai anh em bước vội về phía
trung úy Bá. Anh đưa ống nhòm lên mắt và hướng về
phía ngọn đồi bên cạnh. Trung úy bỏ ống nhòm xuống,
mở la bàn và bản đồ ra ngắm một lúc rồi nói với
Tân và Bính:
- Hai anh đưa thẳng tay ra trước,
từ đỉnh đồi, nơi cao nhất, qua trái một ngón tay thì
thấy một cây cao có tàn lá tròn như cái bát. Thấy chưa?
Hai người làm theo lời trung úy
và cùng trả lời:
- Thấy rồi, sao nữa?
- Mình lấy cây đó làm chuẩn để
nhắm đi. Từ đây đến cây ấy ước lượng ba ngàn mét.
Nếu không gặp địch chận đánh thì chúng ta có thể sẽ
nghỉ trưa tại đó để dùng cơm. Sau đó tôi sẽ gióng
hướng để đi tiếp. Anh em cho trung đội mình chuẩn bị
lên đường. Trung đội Hai của anh Tân đi trước mở
đường, sau cùng là trung đội Ba của anh Bính. Tôi đi
chung với trung đội Một của anh Tám. Nếu gặp địch
thì anh Tân nhớ bố trí lại và liên lạc ngay với tôi.
Lính không được nổ súng nếu chưa có lệnh vì hai bên
chúng ta có hai cánh quân của hai đại đội khác. Phải
cố gắng giữ cho đúng hướng tiến quân để khỏi đụng
với hai mũi kia. Nếu gặp trở ngại không thể theo đúng
hướng được thì báo cho tôi biết. Thôi, bắt đầu tiến
quân.
Đại đội theo hàng dọc nối
đuôi nhau xuống đồi. Lúc đầu đường còn quang đãng
dễ đi nhưng mỗi lúc một rậm rạp và đầy gai góc. Đến
chân đồi thì một con suối hiện ra với dòng nước
trong veo mát lạnh. Đoàn người lội ngang qua dòng nước,
xuyên qua một đám cây rậm rạp và bắt đầu leo lên
dốc. Qua một vài chỗ trống, ánh nắng rọi thẳng xuống
lưng làm cho mặt mày người nào cũng mồ hôi nhễ nhại,
hơi thở phì phò.
Đang đi Tân dừng lại vì tiếng
gọi í ới từ phía sau. Cậu ngoảnh đầu lại hỏi to:
- Chuyện gì vậy?
Có tiếng đáp lại:
- Có lệnh dừng lại nghỉ một
chốc. Chuẩn úy trở lại gặp trung úy.
Tân ra lệnh cho trung đội dừng
lại rồi quày quả quay lui.
Trung úy Bá đang đứng dưới một
gốc cây to, ngửng mặt nhìn lên. Bên trên một người
lính đang bám vào một cành cây khá cao. Trung úy hét to:
- Thấy chưa, một gộp đá thực
to, màu trắng, nằm chồng lên một khối khác.
Tiếng người lính trên cao vọng
xuống:
- Chưa thấy, phải leo lên thêm
nữa. Vài phút sau, tiếng nói lại vọng xuống:
- Thấy rồi. Nó nằm phía nầy
nè.
Trung úy hét to:
- Thằng ngu, phía nầy là phía
nào? Mày đứng trên đó chỉ, dưới nầy tao đâu có thấy
được. Lấy la bàn, mở nắp ra. Xoay cho kim chỉ vào số
không. Dóng xem cái khối đá đó chỉ về số mấy trên
la bàn. Được chưa?
- Được rồi, khối đá, hướng
số 35. Không, số 32 thì đúng hơn.
-Thôi được rồi. Trong khoảng
từ 32 đến 35 độ kinh đông. Ước lượng khoảng cách
từ đây đến đó là bao nhiêu?
- Dạ khoảng hai ngàn mét.
- Tốt, xuống đi.
Trung úy quay lại Tân đang đứng
chờ:
- Qua đoạn đường vừa rồi
chúng ta đã đi lệch hướng. Tôi vừa liên lạc với tiểu
đoàn để nhờ tiểu đoàn định tọa độ cho chúng ta.
Tôi đề nghị xin pháo binh bắn đạn khói nhưng đại úy
An không cho. Ông lấy cái mốc là gộp đá màu trắng, may
mà thằng binh nhì Thà nhận ra được. Bây giờ chúng ta
đang ở chỗ nầy.
Trung úy lấy tay chỉ vào bản đồ
và nói tiếp:
- Chúng ta phải đi đến địa
điểm nầy để nghỉ lại đêm nay. Muốn đến đó phải
đi theo hướng 60 độ so với phương bắc từ. Bây giờ,
anh đi đầu thì cầm la bàn nầy. Nhớ là chúng ta không
thể đi thẳng một hướng được mà phải nhích qua nhích
lại để tránh chướng ngại vật. Vì vậy anh phải xem
la bàn cho thường để chỉnh hướng đi. Trên bản đồ,
chúng ta còn cách mục tiêu sáu cây số nữa. Đó là đường
thẳng, chiếu trên mặt phẳng nằm ngang. Trên thực tế,
chúng ta đang lên dốc và sẽ xuống dốc, đường đi lại
quanh co liên tục nên đoạn đường mà chúng ta phải vượt
qua là gấp đôi khoảng cách theo đường chim bay trên bản
đồ.
Anh vén tay áo nhìn đồng hồ và
nói:
- Anh cho anh em dừng lại ăn trưa
trong vòng một giờ rồi tiếp tục lên đường. Bảo anh
em cố gắng đi nhanh để đến đó vào xế chiều, còn
thì giờ tắm rửa và nấu cơm.
Tân quay trở lại truyền lệnh
cho trung đội rồi ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào
một tảng đá, lấy phần cơm mang theo ra ăn.
Đúng một giờ sau, cậu đứng
dậy, khoác ba lô lên lưng, mang súng vào vai và hối thúc
trung đội lên đường. Đại đội tiếp tục leo lên đỉnh
đồi rồi đi xuống.
Buổi chiều, khi mặt trời ngã
về hướng Tây, những tia sáng lấp ló qua tàn lá thì
trung đội của Tân đến bên một dòng suối khá to. Những
người đi đầu vội nhảy xuống đưa cả hai tay vốc
nước khỏa lên mặt một cách khoan khoái. Tân cũng nhào
xuống, nhúng cả đầu trong nước rồi ngẩng lên, nước
chảy xuống cổ, xuống ngực, thấm vào chiếc áo đẫm
mồ hôi. Một người lính đứng kế bên nói:
- Chỗ nầy có nước tốt quá.
Cho dừng đêm lại đây đi chuẩn úy. Gần tối rồi, tiếp
tục đi, rủi không gặp nước thì không nấu được cơm.
Tân đáp:
- Hi vọng đây là mục tiêu nghỉ
đêm của chúng ta. Anh em ngồi tại chỗ, đừng rời súng
đạn, chờ trung úy đại đội trưởng đến mới biết
được.
Cậu ngoắt một binh sĩ đến và
bảo:
- Chú quay lui báo cáo với trung
úy rằng chúng ta đã tới con suối khá lớn có nước.
Ban chỉ huy đại đội có súng cối và đại liên đi kèm
nên tiến chậm, có lẽ còn cách chúng ta khá xa. Chú quay
lại tìm nhanh lên. Nói với trung úy là trung đội mình
đang dừng quân lại chờ lệnh.
Cậu binh sĩ vâng dạ rồi chạy
ngay trở lại lên đồi.
Không lâu sau, trung úy Bá đến
nơi. Từ trên cao, anh chạy vội xuống và cũng như mọi
binh sĩ khác, trung úy cúi mặt xuống suối uống nước
một cách ngon lành. Lúc ngẩng lên, trung úy ngoắt cậu
lính mang máy truyền tin lại. Sau vài phút nói chuyện
trong máy với tiểu đoàn, trung úy cho lệnh dừng quân.
Anh đi một vòng quanh bờ suối, phân vị trí đóng quân
cho từng trung đội.
Mọi người vui vẻ cởi ba lô,
cởi súng treo lên cây rồi đi nhặt cành khô về nhóm
bếp. Tiếng nói, tiếng cười đùa râm ran cả một vùng,
ánh lửa bập bùng rải rác khắp nơi.
Tân nhận vị trí cho trung đội,
đặt ba vọng gác cho ba tiểu đội xong, vừa quay lại thì
thấy Bính đi đến với vẻ mặt tươi cười:
- Anh Tân, ở đây đẹp quá. Đêm
nay, lần đầu tiên được ngủ trong rừng già thực là
thú vị.
- Sao lại là đêm đầu tiên? Hơn
hai tháng sống ở Kannack không phải là rừng già sao?
- Không, ở Kannack có nhà cửa,
có giường chiếu hẳn hòi. Ở đây, ngủ qua đêm trên
chiếc võng căng giữa hai thân cây, trong khung cảnh thiên
nhiên hoang sơ nầy, đúng là ước mơ của em từ thuở
còn ngồi trên ghế học đường. Chốc nữa, anh đến xem
chỗ ngủ của em. Nơi đó có hai gộp đá nhô ra, làm cho
dòng suối hẹp lại chảy ồ ồ. Em căng võng vào hai gốc
cây hai bên dòng suối. Tối nay, em sẽ ngủ ngay trên dòng
suối hẹp đó. Tiếng nước chảy đều đều sẽ là khúc
hát tuyệt vời và bất tận ru ngủ em đêm nay. Đó anh
thấy chưa, thực là thi vị.
Bính chỉ tay vào dòng suối:
- Con suối nầy thực đẹp.
- Có phải chính là con suối mà
sáng nầy chúng ta đã qua không?
- Đúng nó đó. Em mới gặp trung
úy Bá và xem trong bản đồ. Đoạn mà mình gặp sáng nay
là phía thượng nguồn nằm bên kia đồi.
Tân thắc mắc:
- Tại sao khi sáng mình không men
theo dòng suối đến đây có phải là đỡ vất vả hơn
leo lên đỉnh núi rồi tuột xuống?
- Khi nãy em có hỏi đúng câu mà
anh vừa nói. Quả thực, đi men theo dòng suối thì thích
hơn vượt núi nhiều. Đoạn đường tuy có dài hơn chút
ít nhưng dễ đi, cảnh vật xinh đẹp, sẵn nước uống
bất cứ lúc nào cũng có, và đỡ tốn năng lượng leo
lên rồi tụt xuống với khối hành trang nặng nề trên
lưng.
- Trung úy trả lời thế nào?
- Trung úy cười bảo rằng anh em
mình mới ra đơn vị nên chưa rõ luật lệ hành quân. Sĩ
quan soạn lệnh hành quân luôn luôn vạch một đường
thẳng trên bản đồ, từ điểm xuất phát tới điểm
đến. Đơn vị buộc phải đi theo con đường thẳng đó,
nếu gặp địch thì bộ chỉ huy hành quân có thể yểm
trợ bằng pháo binh một cách nhanh chóng. Hơn nữa, mỗi
cuộc hành quân thường gồm nhiều mũi tiến công; nếu
không theo đúng lộ trình chỉ định thì có thể gặp một
cánh quân khác, thuộc phe mình, hai bên có thể choảng
nhau và bên đi bậy sẽ được thưởng vài chục quả đại
bác hay có khi cả bom và hỏa tiễn của không quân mình
nữa. Nhưng thôi, dẹp chuyện đánh nhau đi. Một buổi
chiều đẹp như thế nầy, nên quên cuộc chiến đi cho
tâm hồn thảnh thơi để thưởng thức cảnh đẹp như
tranh như vẽ ở đây. Anh đến chỗ ngủ đêm nay của
trung đội em; em sẽ đờn và hát cho anh nghe.
- Bính sẽ đàn bản Suối mơ
nhé?
- Phải rồi, đây chính là dòng
suối mơ của chúng ta.
Hai bạn men theo dòng suối về vị
trí của trung đội Ba. Bính lấy cây đàn treo trên cành
cây xuống. Hai người ngồi trên hai gộp đá đối diện
nhau qua con suối. Cậu nói:
- Sáng nay nhảy từ trực thăng
xuống, em lo cây đàn bị rớt bể. May mà còn nguyên.
Cậu nói xong thì bắt đầu dạo
nhạc rồi cất tiếng hát theo tiếng đàn. Những người
lính chung quanh ngẩng đầu lên lắng nghe. Có người bỏ
cả công việc đến gần chăm chú nhìn theo những ngón
tay nhảy nhót trên những phím đàn. Tiếng đàn, tiếng
hát dìu dặt hòa với tiếng gió vi vu trên cành lá, tiếng
nước róc rách chảy qua hốc đá; tất cả những âm
thanh êm đềm đó đang đưa tâm hồn những chiến binh ra
khỏi cuộc chiến huynh đệ tương tàn để đi vào một
thế giới chỉ có tình yêu giữa con người với thiên
nhiên.
Bản nhạc dứt, nhiều tiếng vỗ
tay đồng loạt vang lên. Một người lính la to:
- Hay lắm chuẩn úy ơi, chơi một
bản nữa đi.
Tân nói với Bính, giọng đầy
cảm xúc:
- Bọn lính mình cũng biết thưởng
thức lắm. Lúc em đàn và hát, ai cũng im lặng lắng nghe.
Tội nghiệp, những con người đáng yêu như thế nầy mà
không được sống bên gia đình, bên vợ con để hưởng
hạnh phúc mà phải lăn thân vào cuộc chiến tranh tàn
khốc không biết bao giờ mới chấm dứt. Em đàn và hát
cho anh em nghe tiếp đi. Đó cũng là một sự an ủi cho
đồng đội đáng thương của mình.
Tiếng đàn, tiếng hát lại tiếp
tục và kéo dài đến lúc bóng đêm bao trùm cảnh vật,
những đỉnh núi hiện lờ mờ dưới ánh trăng thượng
tuần.
Một đêm bình yên trôi qua. Khi
những vì sao cuối cùng biến mất trên nền trời xám
bạc, núi rừng thức giấc vì tiếng vượn hú mỗi lúc
một dồn dập, âm thanh cao dần và cuối cùng như những
mũi tên vút lên tận trời xanh.
Tân mở mắt nhìn lên, vòm lá
bên trên nhè nhẹ lay động trong gió sớm. Cậu lắng tai
nghe tiếng nói chuyện khe khẽ rì rầm. Cậu nhìn quanh
thấy có nhiều bếp lửa đang cháy đỏ, lính trong trung
đội đã thức dậy nấu ăn buổi sáng và bới theo cho
bữa ăn trưa. Cậu bước xuống võng, rùng mình vì cái
lạnh từ vách núi dội ra.
Một binh sĩ gọi, với giọng
thân mật:
- Chuẩn úy lại đây ngồi sưởi
cho ấm.
Cậu nhìn kỹ rồi hỏi:
- Thằng Tá đó hả? Mày dậy lâu
chưa?
- Dạ, từ ba giờ khuya. Em gác
phiên chót mà. Ngồi gác ngoài bờ suối lạnh quá. Hết
phiên gác, em vào đây đốt lửa sưởi cho ấm. Trung úy
sĩ Hy đi đâu ra ngoài về kìa.
Tá gọi to:
- Trung sĩ lại đây ngồi chơi
với chuẩn úy. Nước sắp sôi rồi, em sẽ mời mỗi vị
một ly cà phê. Xua cái lạnh buổi sáng không gì hơn cà
phê.
Trung sĩ đến gần. Tân hỏi:
- Tình hình có gì lạ không?
- Bình yên vô sự.
- Các toán gác đêm thế nào?
- Tốt cả. Tôi có đi tuần ba
lần, thấy chuẩn úy ngủ say quá nên tôi không gọi.
- Hôm qua leo núi suốt ngày, mệt
mỏi quá tôi ngủ say như chết.
- Vì chuẩn úy chưa quen đó thôi.
Chuẩn úy đừng lo. Các tiểu đội trưởng của mình thạo
việc và cẩn thận lắm, nhận vị trí đóng quân xong là
họ tự lo địa điểm phòng thủ và phân công gác ngay.
Mình chỉ còn việc đi kiểm tra thôi.
Tá chen vào:
- Ở đây có lẽ nhiều thú rừng
lắm?
Trung sĩ Hy hỏi:
- Sao mày biết?
- Em gặp. Khuya nay, ngồi gác được
khoảng nửa giờ thì em nghe sột soạt trước mặt. Em
ngồi núp sau một tảng đá, kê súng lên, mở khóa an
toàn, cố nhướng mắt nhìn nhưng không thấy gì cả.
Trong rừng tối đen. Trăng lặn từ lâu, còn ánh sáng của
sao thì quá mờ không xuyên qua nổi tàn lá trên cao.
- Lúc đó mày có sợ không?
- Không sợ lắm, nhưng hồi hộp.
Phải đề phòng chứ. Nếu nhận ra là Việt cộng hay thú
dữ là em nổ súng ngay. Tiếng sột soạt tiếp tục từng
chặp, vẫn trước mặt với một khoảng cách không thay
đổi nhiều. Em mò lấy cái đèn pin trong túi quần và rọi
về hướng đó. Em thấy đôi mắt thú rừng phản chiếu
ánh đèn. Đôi mắt ngẩng lên bất động trong vài phút.
Em thèm nổ súng quá mà không dám, sợ bị kỷ luật. Nếu
lúc đó em nhắm vào giữa hai mắt nó mà bóp cò thì sáng
nay cả đại đội có thịt nướng ăn để leo núi một
ngày nữa rồi.
Tá vừa cười ha hả, vừa nói
tiếp:
- Tiếc quá, tiếc quá. Chuẩn úy
Bính đến kìa. Mời chuẩn úy tới uống cà phê. Nước
sôi rồi, em bắt đầu pha đây.
Bính vừa ngồi xuống vừa nói:
- Có chuyện gì vui dữ vậy?
- Thằng Tá kể chuyện hồi khuya
ngồi gác gặp thú rừng mò tới mà không dám bắn.
Bính cười:
- Con thú gì vậy?
- Đâu có biết con gì?
- Sao không rọi đèn?
- Có chứ, nhưng không thấy gì
hết ngoài hai con mắt phản chiếu ánh sáng mà thôi.
Trung sĩ Hy chen vào:
- Thằng Tá nói đúng đó. Ban đêm
trong rừng, rọi đèn pha cũng chẳng thấy rõ. Hình như lá
cây rừng hấp thụ hết ánh sáng, nhưng đôi mắt thì
hiện ra rất rõ. Những người thợ săn có kinh nghiệm
nhìn màu sắc và khoảng cách của đôi mắt thì có thể
biết được đó là con gì.
Tá gật đầu:
- Quả thực em chẳng thấy con
gì, nhưng em đoán nó khá lớn, có thể bằng con mển hay
con nai.
Bính có vẻ hứng thú:
- Sao anh không bắn đại đi?
- Đâu có được chuẩn úy. Quân
lệnh mà. Trong lúc hành quân, chỉ được nổ súng khi nào
có lệnh hoặc thấy Việt cộng rõ ràng. Nếu bắn bậy
có thể bị thi hành kỷ luật, em đâu có dám.
Tân bâng khuâng hỏi:
- Mày có thích gặp Việt cộng
để bắn giết không?
- Để làm gì hả chuẩn úy?
- À, thì để lập công, lên lon.
- Em chẳng thích lập công bằng
cách giết chết người khác đâu. Lập công để làm gì?
Lên lon để làm gì? Em đi lính cho hết mấy năm quân dịch
rồi về quê làm ruộng, chứ em đâu có thích lập công
trên chiến truờng.
- Nhưng khi vào quân đội thì
đương nhiên Việt cộng là kẻ thù của mình rồi. Mày
phải tìm cách tiêu diệt kẻ thù càng nhiều càng tốt
chứ.
- Không, em chẳng coi Việt cộng
là kẻ thù của em đâu. Họ sống ở miền Bắc hay trong
vùng kiểm soát của Việt cộng ở miền Nam thì họ cũng
bị bắt buộc đi quân dịch và cầm súng như em thôi.
Bính chen vào:
- Anh không coi họ là kẻ thù
nhưng họ coi anh là kẻ thù. Khi một thanh niên được đẩy
vào bộ đội của cộng sản thì điều quan trọng nhất
là họ được nhồi nhét một ý thức căm thù đến độ
trở nên khát máu, hừng hực khí thế bắn giết chúng
ta. Anh không biết điều đó à?
- Có, em có nghe nói và em cũng có
dịp thấy họ hăng hái bắn giết lắm. Em lấy làm lạ,
cùng là đồng bào với nhau, tại sao bỗng dưng họ xem
mình như kẻ thù không đội trời chung? Họ sống ngoài
Bắc, dân miền Nam mình có đụng chạm gì đến họ đâu
mà họ lại vác súng vào đây mà bắn giết, không để
cho mình yên ổn làm ăn.
Tân đáp:
- Nhưng họ nói vào đây với
chính nghĩa là “giải phóng miền Nam”.
- Chính nghĩa cái con khỉ. Ai cần
họ giải phóng? Họ cứ ở yên ngoài Bắc lo kiến thiết
miền Bắc, để cho trong Nam mình sống yên ổn kiến thiết
miền Nam. Nếu họ không bày cái trò giải phóng thì giờ
nầy em đang làm ruộng để cho ba má em đỡ cực nhọc.
Giải phóng, giải phóng cái gì, ai cần họ giải phóng?
Tá đứng dậy, nói tiếp:
- Thôi, hai chuẩn úy và trung sĩ
ngồi tiếp tục uống cà phê và nói chuyện đi. Em đi dẹp
chỗ ngủ khi đêm. Gác từ khuya đến giờ chưa dọn dẹp
gì cả. Phải chuẩn bị sẵn sàng để lên đường.
Nói xong, người binh nhì bỏ đi.
Trung sĩ Hy nói:
- Hai chuẩn úy nghe thằng Tá nó
nói đó. Tâm trạng của hầu hết binh lính mình đều như
thế cả. Mang súng ra chiến trường để đánh nhau với
những người mà mình không hề coi là kẻ thù. Kẻ thù
đích thực cần phải tiêu diệt thì không thể nào gặp
mặt được. Chúng nó đang ở quá xa, trong những dinh thự
to lớn và kiên cố ở các thành phố ngoài miền Bắc.
Bính gật đầu:
- Những người lính miền Nam vẫn
sáng suốt nhận ra kẻ thù của mình không phải là những
người mà mình đối đầu trên chiến trường. Cái điều
bi đát vô cùng của cuộc chiến nầy nằm trong lòng của
những binh sĩ miền Nam. Họ không coi đối phương là kẻ
thù nhưng phải nổ súng khi gặp nhau ngoài chiến địa.
- Vì không bắn Việt cộng thì
chúng cũng giết mình.
- Đúng vậy. Chúng ta đau khổ vì
ra chiến trường mà còn mang theo tấm lòng nhân ái với
đối phương. Còn lính Việt cộng thì giản dị hơn
nhiều. Bao nhiêu năm sống ngoài miền Bắc, người ta đã
đem lập trường giai cấp để tẩy sạch lòng nhân ái
cho họ rồi, nên khi vào Nam, họ chỉ biết xốc tới bắn
giết, chẳng phải vướng bận thắc mắc gì.
Trung sĩ Hy thở dài:
- Càng bàn sâu về cuộc chiến
nầy càng thêm buồn. Thôi cứ nhắm mắt mà thi hành lệnh
trên đưa xuống, đừng nghĩ ngợi gì cho thêm mệt óc.
Đằng xa, có tiếng la thực to:
- Chuẩn úy ơi, trung úy đại đội
trưởng mời đến nhận lệnh.
Mọi người lập tức đứng lên.
Tân nói với trung sĩ Hy:
- Anh Hy về cho lệnh anh em chuẩn
bị lên đường. Nhớ tắt tất cả bếp lửa. Đang cuối
mùa nắng rồi, dễ cháy rừng lắm.
Nói xong, Tân nắm tay Bính kéo
đi. Trung úy Bá đón họ ở cạnh bờ suối:
- Tiểu đoàn cho lệnh lên đường;
đại đội giữ đội hình như hôm qua. Trung đội anh Tân
dẫn đầu, Trung đội chú Bính bọc hậu.
Trung úy đưa tấm bản đồ ra
trước mặt, dùng một ngón tay chỉ vào một điểm rồi
nói tiếp:
- Đây, chúng ta đang ở tọa độ
nầy. Chúng ta phải đi đến địa điểm nầy, có dòng
suối và nghỉ đêm tại đây.
Trung úy xếp bản đồ lại, cởi
một hột nút áo để nhét bản đồ vào trước bụng.
Anh đưa tay chỉ về trước mặt:
- Chúng ta phải vượt qua đỉnh
núi cao đó rồi đi xuống chân núi thì đến vị trí dừng
quân ban đêm. Bây giờ chúng ta đi men theo dòng suối nầy
độ hai ngàn mét thì bắt đầu leo lên. Nếu đường đi
suôn sẻ và không quá khó khăn thì xế chiều chúng ta sẽ
đến chân núi bên kia. Theo bản đồ, bên đó có dòng
suối lớn mà dòng suối trước mặt ta đổ vào. Thôi,
cho anh em xuất phát đi.
Tân trở về trung đội và cho
lệnh lên đường. Họ đi men theo dòng suối. Đường đi
mỗi lúc một khó khăn hơn. Hai bên bờ suối lúc đầu
thoai thoải nhưng nhanh chóng trở thành hai bờ dốc của
một vực sâu, đáy ngổn ngang những khối đá to, dòng
nước bạc chảy qua khe những khối đá đó.
Đoàn người men theo bờ dốc để
tiến tới. Họ phải bám vào từng gốc cây mọc chìa ra
từ bờ dốc. Những cây nầy hầu hết thân nhỏ bé nhưng
rất rắn chắc, rễ bám sâu vào kẽ đá. Cứ thế, họ
cẩn thận tiến tới rất chậm chạp. Ngước đầu nhìn
lên, qua những lá cây lưa thưa, họ thấy bầu trời thu
hẹp lại thành một dải dài, chạy giữa hai bờ vực.
Nhìn xuống dưới, họ thấy ngợp vì bề sâu của vực
với những tản đá to, đá nhỏ chồng chất lên nhau, nếu
sẩy tay rơi xuống thì mạng sống ắt chẳng còn.
Có tiếng gọi í ới phía sau.
Tân dừng lại, chân đạp lên một mỏm đá, hai tay nắm
chặt vào một thân cây. Bên trên, mặt trời vừa ra khỏi
đám mây, ánh nắng chói chang in bóng của cậu dài ngoằng
và cheo leo trên bờ vực. Cậu cố ngoái cổ nhìn lui.
Tiếng la chuyền dần từ phía sau đến, nghe đã rõ:
- Chuẩn úy Tân, trung úy ra lệnh
bỏ bờ vực, bắt đầu leo lên núi. Nghe không?
Tân hét to:
- Nghe rồi.
Cậu quay về phía trước, hít
hơi đầy lồng ngực, rống lên hết sức:
- Gọi chuyền ra phía trước, bảo
tiểu đội Một quẹo thẳng góc về bên trái, nhắm đỉnh
núi leo lên.
Tân trở lại bám vào bờ vực
tiến dần tới. Đến một quảng trống, cậu dừng lại,
thẳng người quan sát, nhìn thấy hai tiểu đội Một và
Hai đang bò lên, áo quần nhà binh màu xanh sẫm của họ
in rõ trên sườn núi, trên lưng mỗi người một ba lô
hành trang nặng trĩu, cây súng lắc lư trên vai. Trái núi
cao và to ngất nghểu, đỉnh núi không còn nhìn thấy được
vì khuất sau một vùng rừng lá xanh um.
Tân bỏ bờ vực và bắt đầu
bò lên. Đường đi bớt nguy hiểm vì không còn nằm kế
cận vực sâu nhưng nhọc nhằn hơn vì phải leo lên mỗi
lúc một cao.
Lại có tiếng la léo nhéo từ
phía sau. Tân lắng tai nghe:
- Trung đội Hai dừng lại.
Tân quay ra phía trước, chụm hai
tay lại làm loa:
- Tiểu đội Một dừng lại tìm
chỗ nghỉ.
La xong cậu tiếp tục bò lên,
ngang qua nhiều người. Đến người đầu tiên, cậu dừng
lại, bước trên một gộp đá, nhìn lên vẫn chưa thấy
đỉnh núi, nhìn xuống thì cái vực vừa trải qua hiện
ra rõ ràng. Bên kia vực là vài ngọn đồi trọc rồi đến
những ngọn núi cao, vài đỉnh núi chìm mất trong làn mây
trắng xóa.
Cậu hướng mắt trở xuống,
chăm chú nhìn và nhận ra trung đội cuối cùng của Bính
cũng đã rời khỏi bờ vực và đang rải rác bò lên sườn
núi.
Cậu bước vào dưới bóng mát
của một cây to, cởi ba lô và súng ra, rồi ngồi bệt
xuống đất, dựa lưng vào gốc cây. Cậu cảm thấy mệt
mỏi, bắp chân cứng lại và đau nhức. Cậu cởi mũ sắt,
tựa đầu vào thân cây, nhắm mắt lại, thở dài hơi, hy
vọng giảm bớt mệt nhọc để sẵn sàng tiếp tục con
đường lên đỉnh núi.
- Anh Tân mệt lắm hả?
Tân giật mình mở mắt ra, trông
thấy trung úy Bá, mặt mày đỏ gay, đầy mồ hôi. Trung
úy nói tiếp:
- Trung đội Ba có một người bị
thương.
Tân hoảng hốt:
- Ai đó? Tại sao bị thương?
- Cậu Tài, binh nhất. Tài đi
ngay phía trước chuẩn úy Bính. Bính thấy Tài trượt
chân rơi xuống mà không sao cứu được. May cách phía
dưới khoảng hai mét có một cái cây chận lại, nếu rơi
trên mấy tảng đá dưới đáy vực thì khó sống.
- Tài bị thương thế nào?
- Sưng chân phải, bầm tím ở
hông, chưa biết có gãy xương sườn hay không. Cậu ấy
không thể nào tiếp tục đi được.
- Có thể gọi trực thăng tải
thương không?
- Không, địa hình nầy, làm sao
trực thăng đáp được. Vả lại, chưa đụng trận, khó
gọi trực thăng lắm.
- Thế làm sao?
- Dùng võng và đòn bằng cây
rừng, hai người cáng đi. Vũ khí, đạn dược và ba lô
của ba đứa chia cho những đứa khác mang giùm.
- Bính thế nào?
- Khỏe lắm. Cu cậu thực là
khá. Khi tôi được tin, trở lui đến nơi thì Bính đã
giải quyết xong cả và tiếp tục lên đường.
Tân chặc lưỡi:
- Riêng lẻ từng người đi men
theo bờ vực đã là điều rất khó khăn. Làm sao có thể
khiêng một người bị thương qua đó được?
- Trong chiến tranh, việc gì người
ta cũng làm được.
Trung úy Bá nhìn lên phía trên,
rồi nói tiếp:
- Nhưng cái việc nội trong ngày
nay phải bò qua đỉnh núi nầy rồi xuống đến chân núi
bên kia thì có lẽ không thể nào làm nổi dù chúng ta có
tận lực cố gắng đi nữa.
- Nhưng tại sao cấp trên có thể
ra lệnh cho chúng ta đi cho hết đoạn đường như thế
nầy trong một ngày?
Trung úy cười:
- Mấy ông sĩ quan ở phòng hành
quân chỉ nhìn thấy bản đồ chứ đâu có nhìn thấy
thực địa. Họ cho rằng chúng ta đi bộ mỗi giờ được
bốn cấy số, một ngày tám giờ đi được ba mươi hai
cây số. Họ giảm đi cho mình phân nửa, còn lại mười
sáu cây số rồi đo và gạch trên bản đồ một đường
thẳng ứng với khoảng cách đó. Họ đâu có biết rằng
khoảng cách thẳng băng đó trong núi rừng hiểm trở còn
khó khăn hơn năm sáu chục cây số trên đường bằng.
- Bây giờ mình phải tính sao
đây?
- Khỏi tính gì cả, cứ đi tới
theo lệnh. Nếu không đến được địa điểm chỉ định
trước khi trời tối, tôi sẽ báo cáo và tùy cấp trên
giải quyết. Bây giờ, cho anh em một giờ đồng hồ để
ăn và nghỉ trưa rồi tiếp tục leo lên.
Trung úy Bá nói xong, vội vã quay
lui. Tân cho lệnh anh em ăn trưa. Cậu cũng moi ba lô, lấy
vắt cơm mà sáng nay lính nấu và gói cho cậu mang theo.
Cậu cố nuốt hết nắm cơm và miếng cá khô nướng rồi
nhắm mắt dỗ giấc ngủ.
- Chuẩn úy, trung úy ra lệnh lên
đường.
Tân mở choàng mắt. Trung sĩ Hy
đứng trước mặt, ba lô trên lưng, súng trên vai.
- Anh em sẵn sàng chưa?
- Xong cả rồi, chuẩn úy cho lệnh
đi.
Tân đứng dậy, vừa mang ba lô
và súng, vừa la to.
- Đi, anh em ơi.
Đoàn người lên đường, cúi
gập về phía trước dưới sức nặng của hành trang trên
lưng. Ai cũng thở phì phò, nặng nề cất bước. Rừng
cây nối tiếp rừng cây, đỉnh núi như cao mãi lên vô
tận.
Mặt trời ngã dần về hướng
Tây. Qua những khoảng trống, đoàn người khổ sở vì
những tia nắng cháy bỏng rọi thẳng vào lưng làm bốc
hơi lớp mồ hôi liên tục thấm ra áo.
Mặt trời tiếp tục hạ xuống
và sắp chạm vào đỉnh núi cao phía xa. Tân được lệnh
dừng quân và quay xuống gặp đại đội trưởng. Trung úy
cùng các trung đội trưởng ngồi quây quần trên phiến
đá to. Bá lên tiếng:
- Tôi vừa liên lạc với tiểu
đoàn và báo cáo chúng ta còn cách đỉnh núi hơn một cây
số theo đường thẳng trên bản đồ và chúng ta không
kịp leo lên đến đó, nói chi đến việc xuống núi để
nghỉ đêm ở tọa độ ấn định trong lệnh hành quân.
Bính hỏi:
- Tiểu đoàn quyết định thế
nào?
- Cho lệnh dừng quân đêm nay tại
đây, không đi tiếp nữa. Bây giờ mình lo bố trí chỗ
đóng quân.
Chuẩn úy Tám lo lắng:
- Nhưng ở đây thì lấy đâu ra
nước để uống và nấu cơm?
Tân nói tiếp:
- Cả trung đội tôi không còn
một giọt nước. Anh em lấy nước từ sáng sớm trước
khi khởi hành. Gần suốt buổi sáng, mình men theo suối,
nhưng dòng nước ở dưới vực sâu, chảy qua những gộp
đá chồng chất lên nhau, không ai lấy thêm được chút
nước nào cả.
Chuẩn úy Tám tiếp theo:
- Trung đội tôi và cả đại đội
cũng thế. Hôm nay leo trèo liên tục, nước uống của mọi
người hết từ khi trưa lúc dừng quân. Bây giờ anh em
kêu khát, không thể chịu nổi.
Trung úy Bá lo lắng nhìn đồng
hồ rồi nhìn về hướng mặt trời đã lặn sau đỉnh
núi:
- Bây giờ, các anh cho các trung
đội túa ra chung quanh để tìm mạch nước. Nhanh lên,
phải tìm cho được nước trước khi trời tối.
Chuẩn úy Tám lại hỏi:
- Nếu tìm không ra thì sao?
- Thì đành chịu nhịn đói và
nhịn khát đêm nay.
- Gay lắm đó. Chịu đói đêm
nay thì được chứ chịu khát thì sáng mai không còn ai đủ
sức để đi tiếp.
- Thôi các anh hãy về với trung
đội đôn đốc đi tìm nước đi.
Bỗng có tiếng la ồn ào ở phía
dưới. Trung úy Bá lo lắng:
- Có chuyện gì ở trung đội của
chú Bính đó, xuống xem đi. Anh Tân và anh Tám đứng lại
đây một chút?
Bính vụt chạy đi, vài phút sau,
trở lại nói:
- Con heo rừng. Bọn lính em thấy
nó chạy ra từ lùm cây rậm rạp dưới một cái trũng.
Tụi lính đuổi bắt mà không được.
Chuẩn úy Tám mừng rỡ reo lên :
- Thế thì trong lùm cây dưới đó
có nước. Heo rừng chỉ sống nơi nào có nước mà thôi.
Mau cho anh em vào đó sục tìm.
Nói xong, chuẩn úy phóng xuống,
mọi người đi theo.
- Có nước đây rồi, nhiều lắm.
Nhiều tiếng la tiếp nhau làm ồn
ào cả một vùng núi non.
Tân vội chạy đến. Trước mặt
cậu, một đám đông bu quanh một vũng nước rộng độ
một mét. Nước từ bên dưới trào lên, tràn qua miệng
vũng, chảy vào một rảnh nhỏ và mất hút vào khe đá.
Anh em quỳ xuống thành một vòng tròn chung quanh miệng
vũng, dùng hai tay vốc nước đưa lên miệng uống ừng
ực.
Trung úy Bá thét to:
- Ai uống rồi thì bước ra ngoài
để người khác vào. Uống xong thì lấy nước về nấu
cơm. Các trung đội vào uống đi rồi theo tôi đi nhận vị
trí đóng quân đêm nay.
Không bao lâu, các bếp được
nhúm lên, những ngọn lửa reo vui khắp nơi trên vùng đóng
quân. Trời đã tối hẳn, ánh sáng của những bếp lửa
chập chờn dưới các tàn lá phủ kín bên trên.
Tân dẫn các tiểu đội trưởng
đi sắp đặt các vọng gác đêm. Trên đường quay trở
lại, cậu gặp Bính đến tìm. Tóc Bính ướt đẫm, những
giọt nước lăn xuống hai vai và lưng trần. Cậu cười
rộng miệng:
- Tắm mát quá. Không ngờ ở
lưng chừng núi lại có một giếng nước phun như thế.
Nếu không có chiến tranh, không bao giờ anh em mình có dịp
đến đây để thấy được khung cảnh tuyệt diệu thế
nầy.
Tân hỏi:
- Người bị thương của trung
đội em thế nào rồi?
- Cũng khá, không hề chi. Y tá
của đại đội đã xoa bóp và cho uống thuốc giảm đau.
Có lẽ chỉ bị thương ở phần mềm thôi, không hại gì
đến xương. Hi vọng trong ngày mai có thể gởi nó về
tiền cứ của bộ chỉ huy hành quân.
- Hôm nay thực là một ngày vất
vả.
Bính cãi lại:
- Hai ngày rồi chứ. Cuộc hành
quân có lẽ kéo dài trong nhiều ngày. Em thấy đánh nhau
kiểu nầy, mình hao hơi tổn sức mà hiệu quả chẳng
được bao nhiêu. Rừng thì bao la, núi thì trùng trùng điệp
điệp, địch ẩn núp trong đó còn mình thì mò mẫm đi
tìm, chẳng khác nào mò kim đáy biển.
- Nhưng theo lời trung úy Bá thì
chính biệt kích do bên mình thả vào rừng báo cáo là
thấy lính Việt cộng lẩn trốn đâu đây mới có cuộc
hành quân truy tìm nầy.
Bính cười ha hả:
- Không biết mấy chàng biệt
kích có thấy quân địch thực sự hay lại bịa ra cho có
chuyện để báo cáo. Mà giả dụ họ có trông thấy Việt
cộng đi nữa thì họ phải mất vài ngày để trở về
báo cáo, rồi bộ tư lệnh bàn bạc, viết lệnh hành
quân, điều động lực lượng vân vân…, cả nửa tháng
sau mới đến nơi thì Việt cộng đâu còn nữa để mà
tiêu diệt. Bộ máy chiến tranh của chúng ta quá nặng nề
và chậm chạp, khó thắng được Việt cộng.
Bính ngừng một chút, chăm chú
nhìn một người lính, khom lưng cúi xuống thổi phì phì
vào bếp lửa. Cậu tặt lưỡi và nói tiếp:
- Sáng nay thấy thằng Tài bị
té, em thương quá. Nếu không có cái cây bên dưới chặn
lại thì có lẽ nó chết rồi. Nó bị thương ở chân và
ở hông đau lắm nhưng cố cắn răng chịu đựng không
rên la. Nó tỏ ra rất khổ sở khi nằm trên võng để hai
người khiêng đi. Có lần nó nói với em rằng phải chi
đừng có cái cây chận lại để cho nó vĩnh viễn nằm
dưới đáy vực cho đỡ khổ anh em.
Bính thở dài, nói tiếp:
- Em thương bọn lính quá, Không
biết bao giờ cuộc chiến chấm dứt để chúng nó thoát
khỏi cảnh khổ nầy. Nghĩ đến đó, em buồn lắm. Cuộc
chiến nầy quả là bất lợi cho mình. Mình đi tìm địch
để tiêu diệt thì tìm không ra. Còn địch muốn tìm mình
để đánh thì quá dễ dàng. Họ chẳng cần tốn công dọ
thám, chỉ cần hỏi mấy chị bán hàng rong là biết ngay
nơi đồn trú của ta cùng với quân số bên trong.
Tân vỗ vai bạn:
- Hôm nay, anh thấy em có vẻ bi
quan. Em chán cảnh núi cao rừng rậm nầy rồi phải không?
- Không, em không chán hay sợ chốn
núi rừng hoang dã nầy. Đến đây mới thực sự biết
thế nào là giang sơn gấm vóc của Tổ quốc mình. Được
đặt chân đến chốn nầy là điều may mắn duy nhất mà
em được hưởng từ chiến tranh. Còn bi quan thì em thực
sự có bi quan về cuộc chiến nầy kể từ khi em về đơn
vị. Vào quân đội rồi, em mới nhận rõ được nhiều
điều. Miền Bắc gây ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn
nầy quả thực quá tàn ác còn miền Nam chưa có được
cách nào để đối phó cho hữu hiệu. Em chưa thấy bất
cứ dấu hiệu nhỏ bé nào của sự chấm dứt chiến
tranh. Có lẽ anh em mình cùng với những người lính đáng
thương nầy sẽ tiếp tục lang thang trong vùng rừng núi
Trường sơn nầy cho đến ngày tận thế.
- Cơm chín rồi, mời chuẩn úy.
Tiếng mời cơm của người binh
sĩ cắt đứt câu chuyện của hai anh em. Bính về với đơn
vị mình.
Đêm trôi qua một cách êm đềm.
Hôm sau, trời vừa rựng sáng, trung úy Bá triệu tập các
trung đội trưởng. Trung úy nói:
- Tôi vừa nhận được lệnh của
tiểu đoàn. Chúng ta phải xuất phát ngay từ bây giờ.
- Tiếp tục leo lên đỉnh núi?
- Không, tìm con đường nào dễ
dàng nhất đi qua bên kia rồi xuống núi. Bộ chỉ huy tiểu
đoàn và hai đại đội kia chờ chúng ta bên đó, ở nơi
dự định cho chúng ta nghỉ lại đêm rồi.
Tân nói:
- Ở đó chắc chắn có suối. Hy
vọng chúng ta được dừng lại tại đó.
Trung úy Bá gật đầu:
- Hy vọng thế thôi. Đến đó sẽ
có lệnh tiếp theo. Thôi chúng ta lên đường. Trung đội
anh Tân tiếp tục đi đầu, anh Bính bọc hậu. Chúng ta đi
vòng theo sườn núi. Theo bản đồ, chúng ta chỉ phải
vượt qua một khe khô mà thôi, có lẽ đường không mấy
khó đi.
Mọi người xuất phát. Quả thực
đường khá dễ đi. Không bao lâu họ qua được bên kia
núi và đi xuống. Ở chân núi có một dòng suối khá to.
Anh em mừng rỡ vì gặp lại tiểu đoàn. Tiểu đoàn đã
ở đây suốt đêm và đang chuẩn bị xuất phát. Đại
đội của trung úy Bá được dừng lại dùng bữa trưa.
Ăn xong, Tân đang nằm lim dim thì
Bính đến gọi dậy:
- Anh Tân. Trung úy Bá gọi đến
phổ biến một tin hết sức quan trọng.
Tân vùng dậy, vội vàng đi theo
Bính đến chỗ trung úy đang ngồi chung với chuẩn úy
Tám. Sau khi hai anh em đã ngồi xuống, trung úy Bá nói
ngay:
- Trong nửa giờ nữa, chúng ta sẽ
lên đường ra khỏi núi và chấm dứt hành quân.
Các người nghe đều ngạc nhiên.
Chuẩn úy Tám vội hỏi:
- Thế nào? Chấm dứt hành quân?
Mới đi có ba ngày thôi mà. Chúng ta mang theo đến bảy
ngày lương thực.
Trung úy suy nghĩ một chút rồi
nói:
- Tôi vừa mới gặp đại úy
tiểu đoàn trưởng. Tôi cho các sĩ quan biết tin nầy,
nhưng nhớ đừng phổ biến cho lính vì vẫn còn là kế
hoạch bí mật của sư đoàn. Chúng ta chấm dứt hành quân
truy lùng địch, nhưng sau đó không về hậu cứ nghỉ
ngơi như sau các cuộc hành quân trước đây. Bốn ngày
lương khô còn lại vẫn được sử dụng.
Trung úy dừng một chút để tập
trung sự chú ý của anh em rồi nói tiếp với giọng thực
nhỏ:
- Chúng ta được lệnh di chuyển
vào Nam tăng cường cho đồng bằng sông Cửu long.
Các trung đội trưởng sửng sốt:
- Vào Nam? Riêng đại đội mình
hay cả tiểu đoàn?
- Cả tiểu đoàn và có lẽ cả
sư đoàn Chín luôn. Trước hết, tiểu đoàn mình được
trả về cho trung đoàn Mười lăm.
Bính hỏi:
- Thế là chúng ta trở lại Cung
sơn, lại được nằm ngủ trên nhà sàn?
- Không, trung đoàn cũng bỏ Cung
sơn để di chuyển vào Nam. Chúng ta sẽ cùng đi với trung
đoàn.
- Vậy thì có lẽ sẽ vào phi
trường Tuy hoà để nhập chung với trung đoàn.
- Đúng, đại úy An cũng nói như
thế.
Trung úy lật bản đồ ra, chỉ
vào một chỗ và nói:
- Chúng ta đang đứng tại đây.
Chốc nữa mình sẽ đi trong thung lũng nầy, dọc theo dòng
suối, vượt qua ba ngọn đồi nữa là ra đến chỗ bằng
phẳng. Cách chân đồi cuối cùng vài cây số, có một ấp
chiến lược.
- Mình sẽ nghỉ qua đêm trong ấp
chiến lược đó?
- Chưa, còn phải đi thêm khoảng
sáu cây số nữa mới ra đến đường lộ. Đoàn công voa
chờ tại đó để chở chúng ta thẳng vào Tuy hòa.
Chuẩn úy Tám lo lắng:
- Nhưng quảng đường quá dài,
làm sao đi hết trong ngày?
- Đúng rồi, không chắc đi nổi
nội ngày hôm nay. Để tôi đo xem.
Trung úy móc túi lấy ra một cây
thước nhỏ đặt vào bản đồ rồi nói:
- Từ đây đến chỗ xe đậu là
hai mươi cây số theo đường chim bay. Trên thực tế, có
thể dài đến ba mươi cây số. Khoảng đường rừng núi
dài như thế mà quý ông ở trung tâm hành quân buộc mình
phải đi cho hết nội trong buổi chiều nay thì lạ thực.
Tân nhíu mày:
- Nhưng tại sao các ông ấy quyết
định như thế?
- Theo tôi biết, một số lớn sĩ
quan ở trung tâm hành quân chưa hề biết chiến địa là
gì cả vì chưa có một ngày nào ra chiến trường. Họ về
đó là vì có gốc gác to, chẳng có kinh nghiệm chiến đấu
mà chỉ có một mớ kiến thức lý thuyết của quân
trường mà thôi.
Chuẩn úy Tám thở dài:
- Tôi có gần mười lăm năm vác
súng đi đánh nhau nên tôi hiểu rõ. Trong chiến tranh,
những kẻ phải chịu hi sinh thì không có một chút quyền
quyết định nào cả.
Trung úy đứng dậy, nói tiếp:
- Đúng vậy, chúng ta là vật hi
sinh của chiến tranh và chúng ta không thể làm gì khác
được. Thôi anh em hãy về cho lệnh các trung đội chuẩn
bị lên đường. Bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội
kia đã đi trước rồi. Họ đến đây từ chiều hôm qua
vì đường đi ngắn và dễ dàng hơn chúng ta. Họ lại
được nghỉ từ sáng đến giờ nên chắc họ sẽ đến
trước chúng ta.
Mọi người khoác ba lô và súng
lên vai, nối đuôi nhau thành hàng một đi dài theo bờ
suối. Sau khi vượt qua ba ngọn đồi phủ đầy cỏ tranh,
họ vào một khu rừng chồi. Đường khá dễ đi và thoai
thoải xuống dốc nên không cần nhiều sức lực như khi
leo núi. Nhưng cơn khát bắt đầu làm cho cổ họng họ
khô khốc, nước miếng dẻo lại như chất keo. Mặt trời
nghiêng, dội lửa xuống lưng làm cho cơn khát hành hạ
càng dữ dội. Con đường như cứ dài mãi ra, những lùm
cây xa xa trước mặt chờn vờn nhảy múa, óng ánh như
nhìn qua một lớp nước trong suốt. Đoàn người cắm cúi
đi tới bằng những bước chân nặng nề.
Có tiếng la to khàn khàn của
người đi đầu:
- Sắp tới ấp chiến lược rồi.
Vài người dừng lại đưa tay áo
lên lau mồ hôi trên mắt, chăm chú nhìn về phía trước.
Trên một khoảng trống, hiện ra rõ ràng một bờ đất
trắng phau, bên trên lờ mờ một hàng rào cây màu vàng
sẫm. Mọi người mừng rỡ, cố thu hết sức lực còn
lại, rảo bước về trước.
Hàng rào ấp chiến lược rõ dần
với những cọc nhọn tua tủa chĩa lên trời. Cổng ấp
mở toang, mọi người bước nhanh vào. Rải rác trong ấp
là những gian nhà lá đơn sơ, vài người đàn bà và trẻ
em đứng tựa cửa, tò mò và lý thú nhìn lính đi vào.
Không khí dịu hẳn lại vì mặt trời khuất sau rặng núi
xanh lơ, ánh nắng chỉ còn chiếu vào những cụm mây
trắng xoá rực rỡ trên bầu trời quang đãng.
Tất cả đại đội đã vào ấp
chiến lược. Mọi người cởi ba lô và súng ra, ngồi
xuống hoặc nằm dài trên mặt đất. Trung úy Bá thuộc
về trong số những người đi vào sau cùng. Anh hổn hển
la to:
- Chưa đến chỗ nghỉ đâu. Còn
sáu cây số nữa. Xe đang đợi ngoài đó. Anh em rán đứng
dậy đi xin nước của đồng bào uống cho hết khát rồi
tiếp tục lên đường. Nếu anh em ngồi hay nằm lại đây
thì vài phút nữa không thể đứng lên được.
Thấy mọi người có vẻ không
chú ý đến lời nói của mình, anh cố sức hét to:
- Tôi ra lệnh cho tất cả đứng
dậy, có nghe không?
Mặc cho tiếng la đầy giận dữ
của đại đội trưởng, mọi người đều bất động;
người ngồi thì cúi gập đầu xuống hai gối, người
nằm thì nhắm mắt lại.
Tân đang ngồi, chống hai tay
xuống đất và cố đứng lên. Cậu loạng choạng suýt
ngã, vội gượng để lấy thăng bằng. Cậu muốn bước
về phía trung úy Ba nhưng hai chân vẫn đứng yên. Chúng
như hai khối đá nặng nề, không còn thuộc vào cơ thể
của cậu nữa. Tân ngồi xuống, đấm mạnh vào hai chân
rồi cương quyết vụt đứng dậy, bước tới một cách
khó khăn, đến gần trung úy Bá. Cậu nói:
- Trung úy, anh em không thể nào
đi được nữa. Đứng lên được cũng đã là điều gay
go lắm rồi nói chi đến chuyện đi thêm vài cây số nữa.
Trung úy có hò hét gì đi nữa thì đại đội cũng không
thể nào di chuyển đến nơi ấn định được. Đây đến
đó còn những sáu cây số nữa chớ đâu phải ít. Trung
úy nên xin lệnh cấp trên cho đại đội nghỉ đêm tại
ấp chiến lược nầy.
Trung úy Ba đăm đăm nhìn Tân một
chốc, miệng anh méo xệch vì một nụ cười chán nản và
mệt nhọc. Hai đầu gối từ từ khụy xuống, anh ngồi
bệt trên mặt đất. Anh quay lui người lính truyền tin
ngồi sát sau lưng, lấy ống nghe đưa lên miệng:
- Đại bàng, đại bàng, alpha
gọi.
. . . . .
- Đến ấp chiến lược rồi và
không thể đi tới được nữa. Tất cả đều bị chuột
rút, không thể đứng lên được, xin cho nghỉ tại đây.
Trả lời.
. . . . .
- Đúng rồi, đúng là tọa độ
của ấp chiến lược. Xin cho alpha nghỉ qua đêm tại đây.
Trả lời.
. . . . .
- Tuân lệnh, sáng mai sẽ khởi
hành sớm và đến địa điểm trước tám giờ sáng. Tuân
lệnh. Chấm dứt.
Trung úy quay sang Tân:
- Tiểu đoàn đồng ý cho đại
đội mình nghỉ đêm tại đây. Tuy nhiên còn phải xin
lệnh trung tâm hành quân. Trong vòng mười phút nữa, nếu
tiểu đoàn không gọi lại thì đề nghị của anh em mình
đã được chấp thuận.
Trung úy nói xong, vén tay áo xem
đồng hồ và nằm dài xuống. Mười phút trôi qua, anh
nhỏm dậy, nói với thượng sĩ Lập đang ngồi kế bên:
- Anh đi báo cho các trung đội
biết chúng ta dừng quân, nghỉ đêm tại đây. Các trung
đội đóng dọc theo hàng rào ấp chiến lược. Trung đội
Một bên phải, trung đội Hai bên trái trung đội Ba phía
sau, trung đội vũ khí nặng trước cổng . Đóng quân xong
rồi, các trung đội trưởng đến đây báo cáo cho tôi.
Lính chỉ được xin nước giếng của dân để uống, nấu
ăn và tắm rửa. Ngoài ra không được xin hay lấy bất cứ
thứ gì khác. Đêm nay tất cả phải ngủ ngoài trời. Sĩ
quan có thể vào nhà dân nếu người ta cho phép. Anh hãy
đi truyền lệnh đầy đủ như thế cho các trung đội. Ai
vi phạm thì bị thi hành kỷ luật. Thôi đi truyền lệnh
giúp tôi đi.
Sau khi thượng sĩ Lập đi rồi,
trung úy Bá, quay sang Tân, giọng chua chát:
- Chỉ huy thế đó. Lên kế hoạch
hành quân làm cho cấp dưới không thể nào thực hiện
nổi để rồi thay đổi lệnh hành quân một cách dễ
dàng. Những gì chúng ta nhận được trên thực tế khác
hẳn với những gì chúng ta học được trong binh thư ở
quân trường. Đánh nhau thế nầy tôi sợ khó thắng nổi
Việt cộng. Thôi anh Tân về thu xếp chỗ ăn ở của
trung đội đi. Đêm nay chúng ta ở trong ấp chiến lược
không lo về an ninh, nên cho anh em nghỉ để lấy sức. Mỗi
trung đội chỉ cần một người thay nhau thức canh gác
tại chỗ. Vòng ngoài có lính của địa phương lo rồi.
Tân đứng dậy dợm đi thì trung
úy gọi lại:
- Anh về xếp đặt cho trung đội
rồi trở lại đây. Chúng mính sẽ đi quanh ấp một lượt
để quan sát. Sẵn dịp, tìm quán tạp hóa mua một ít trà
và bánh kẹo. Hôm nay, có trăng thượng tuần, sĩ quan mình
liên hoan nhẹ để từ giã Bình định. Nơi đây có thực
nhiều kỷ niệm trong cuộc đời lính chiến của tôi.
Đồng ý nhé.
- Hoan nghênh ý kiến của trung
úy. Tôi đi báo cho hai chuẩn úy Tám và Bính biết luôn.
Sau khi cả đại đội đều ổn
định chỗ đóng quân, Bính trải tấm poncho trên miếng
đất trống kế cổng ấp, đặt bình trà và dĩa bánh kẹo
lên đó. Bốn người ngồi quây quần chung quanh.
Trời không một chút mây. Trăng
nửa vành tròn đã lên đỉnh đầu rọi ánh sáng mờ mờ
xuống mặt đất.
Bính rót nước trà ra bốn cái
ly mượn của dân rồi nói:
- Nào mời các anh nâng ly. Đêm
nay là đêm cuối cùng mình thưởng thức cảnh đẹp của
núi rừng Trường sơn dưới ánh trăng. Ngày mai vào Tuy
hòa, lên phi cơ là bắt đầu những ngày chiến đấu trên
đồng ruộng miền Nam rồi.
Tân hỏi:
- Em không thích vào Nam à?
- Thích lắm chớ. Em sinh ra và
lớn lên ở miền Nam. Trở về nơi chôn nhau cắt rốn,
không thích sao được. Hơn nữa, vào đó có dịp về thăm
ba em, chị Mai và bé Bình. Em nhớ gia đình em quá. Nhưng
vào đó rồi thế nào cũng lại nhớ núi rừng Trường
sơn. Còn anh thì thế nào? Anh có thích vào Nam không?
Tân đáp:
- Anh thì ở đâu cũng như nhau.
- Sao lại như nhau? Hành quân
trong rừng núi miền Trung phải khác hơn trên đồng bằng
miền Nam chứ. Không biết giữa hai miền, nơi nào hành
quân sướng hơn.
- Điều nầy phải hỏi chuẩn úy
Tám vì đã chiến đấu khắp nơi trên Tổ quốc mình,
phải không anh Tám?
Chuẩn úy Tám gật đầu:
- Vâng, vào Nam thì vừa khổ, vừa
sướng hơn ở miền Trung nầy. Khổ là suốt ngày lội
trong bùn sình, chứ không được khô ráo như ở đây. Còn
sướng là không phải vất vả vì leo trèo qua núi cao vực
sâu, không phải lo chết khát như ở đây. Điều thích
nhất trong đó là đi đâu cũng gặp dân, chỗ nào cũng có
chợ hay hàng quán; vì vậy đi hành quân nhẹ nhàng , không
phải mang theo lương thực dùng cho nhiều ngày.
- Còn gì nữa không, anh Tám nói
tiếp cho tụi em phấn khởi đi.
Chuẩn úy Tám cười vui vẻ:
- Với sĩ quan trẻ tuổi như hai
chú thì điều thích thú nhất là gặp mấy nàng thôn nữ.
Nhiều cô xinh lắm, nhất là con gái Bến tre và con gái
Bình thủy Cần thơ thì không chê vào đâu được.
Bính xua tay:
- Thôi đi anh ơi. Em nghe nói ở
nhà quê, Việt cộng ra sức tuyên truyền cho dân chúng căm
ghét lính quốc gia, nhất là sĩ quan Cộng hòa.
- Đúng là Việt cộng tìm đủ
luận điệu xảo quyệt, đặt ra đủ điều dối trá để
bôi nhọ quân đội mình nhưng dân quê vẫn thích sĩ quan
lắm. Nhất là mấy người già, có thằng rể là sĩ quan
thì hãnh diện vô cùng. Nhưng mấy chú phải cẩn thận
nghe chưa. Chớ có ham quá mà mang họa. Chính tôi đã chứng
kiến một cái chết rất thuơng tâm của một sĩ quan mới
ra trường vì một cô thôn nữ rồi đó.
- Thế à, ghê vậy? Chuyện đó
thế nào?
- Chuyện xảy ra một tháng trước
khi tôi được thuyên chuyển về sư đoàn Chín nầy. Lúc
đó tôi còn là thượng sĩ trung đội trưởng ở sư đoàn
Bảy. Chuẩn úy Quang cũng là trung đội trưởng như tôi.
Đại đội tôi đang đóng đồn giữ cho một công trường
ở quận Cái bè. Chuẩn úy Quang quen với một cô thôn nữ
xinh đẹp trong làng. Chiều nào, cơm nước xong, cậu ta
cũng vào làng thăm cô thôn nữ ấy. Cả đại đội khuyên
nên cẩn thận nhưng cậu ta không nghe. Si tình quá cỡ
rồi. Thiếu úy đại đội trưởng rầy la cũng chẳng ăn
thua gì. Có hôm vào đó quên cả giờ, về đến đồn thì
tối om. Đi đêm có ngày gặp ma, không cảnh giác thì có
ngày sự nguy hiểm ắt phải đến. Một đêm, trên đường
về, chuẩn úy Quang bị du kích Việt cộng phục kích giết
chết. Nghe tiếng súng, anh em trong đồn biết nguy rồi nên
cho hai tiểu đội xông ra cứu mà không kịp, đành khiêng
xác chuẩn úy Quang về đồn.
- Còn cô thôn nữ?
- Hôm sau, cô đó vào đồn ôm
xác chuẩn úy Quang khóc đến ngất xỉu. An ninh của Tiểu
đoàn và của chi khu Cái bè đến hỏi cung cô ta vì nghi
là mỹ nhân kế.
- Kết quả thế nào?
- Vài ngày sau, an ninh phải kết
luận là cô ấy vô tội vì cô thực sự yêu chuẩn úy
Quang và cha mẹ chuẩn úy cũng đã đồng ý cho con mình
cưới cô gái quê đó. Ông bà đã xác nhận như thế thì
an ninh còn lý do gì nữa mà nghi ngờ nữa.
- Sau đó đời cô thôn nữ đó
thế nào? Bỏ đi tu phải không?
Chuẩn úy Tám cười:
- Tôi không biết vì sau đó một
tháng tôi được thăng cấp, rời đại đội để ra đây.
Có lẽ bây giờ cô ấy đã quên người tình xưa và đã
đi lấy chồng rồi.
- Nhưng dù sao thì đó cũng là
một câu chuyện tình khá cảm động của thời loạn ly.
- Hai chuẩn úy nhớ rằng đó là
chuyện có thực mà tôi đã chứng kiến. Vào trong đó,
chớ có mê các cô thôn nữ mà chết oan uổng.
Bính cười hềnh hệch:
- Được rồi chúng em xin nghe
lời. Ngoài chuyện yêu đương ra còn gì đáng lưu ý nữa
không?
- Hành quân trong đó, hai chú cũng
phải nhớ đề phòng mìn bẫy, hầm chông, bàn chông của
Việt cộng. Ở ngoài nầy, mấy thứ đó không đáng sợ
vì ít gặp. Núi rừng mênh mông, có thể mở đường mà
đi bất cứ hướng nào thì Việt cộng làm sao gài mìn và
đặt bẫy được. Còn trong Nam, về mùa nước nổi, mặt
nước bao phủ tất cả chỉ còn những bờ kinh hay bờ
ruộng là không ngập nước và gần như bắt buộc phải
di chuyển trên đó. Việt cộng chôn mìn bẫy vào thì vô
cùng nguy hiểm cho chúng ta.
Tân dọ hỏi chuẩn úy Tám:
- Nếu được chọn chiến trường
thì anh chọn ngoài nầy hay trong đó?
Chuẩn úy Tám lắc đầu:
- Tôi không chọn đâu cả. Cái
nghiệp mình là lính chiến rồi thì đưa đi đâu cũng
phải chịu. Ở đâu cũng là chiến trường. Mà đã là
chiến trường rồi thì luôn luôn có thần chết đứng
hờm sẵn, một tay cầm liềm, một tay cầm quyển sổ.
Bính tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Cầm quyển sổ để làm gì?
Tám cười ha hả:
- Để dò tên anh nào tới ngày
tới giờ thì đưa lưỡi hái ngang qua cổ. Chiến trường
nào cũng thế thôi, hơi đâu mà chọn lựa.
Đêm hôm đó, trong vòng rào ấp
chiến lược, mọi người đều ngủ ngon nên sáng hôm
sau, sức khỏe được phục hồi khả quan. Sau bữa ăn
sáng đại đội tập trung và lên đường và không bao lâu
đến địa điểm lên xe, giã từ Bình định và không hẹn
ngày trở lại.
Đến quá trưa, cả tiểu đoàn
vào đến Tuy hòa và được chở đến đóng quân trên bãi
cát rộng mênh mông kế cận sân bay Đổng tác. Những lều
vải được dựng lên san sát nhau.
Tân cảm thấy rất khó chịu
trong người nên chui ngay vào một lều dành cho trung đội
mình, vội vàng trải tấm vải nhựa và nằm xuống. Mặt
trời dội lửa xuống bãi cát, không khí trong lều nóng
hâm hấp. Thỉnh thoảng, ngọn gió tây ào ào thổi tới,
như tạt lửa vào làm rát mặt mọi người.
Tân nằm cuộn mình lại một lúc
khá lâu. Trời nóng như thế mà cậu lại rét run. Cái rét
từ bên trong rét ra, làm cho cậu run lên bần bật. Cậu
cảm thấy hơi thở mình phì phò, cặp mắt nhức nhối,
đầu nặng trĩu, thân mình đau đớn, những đốt xương
như rời nhau ra.
- Anh Tân, sao nằm đây? Mệt lắm
hả? Ra phố chơi được không?
Tân cố mở mắt ra nhìn. Bính
đang đứng trước lều, khom mình nhìn vào. Tân thều
thào:
- Mệt lắm, không đi nổi, anh bị
bệnh rồi.
Bính bước vội vào, ngồi xuống
đặt tay lên trán của bạn rồi rụt tay lại, giọng
hoảng hốt:
- Thôi nguy rồi, anh đang bị sốt
dữ lắm. Anh nằm đây, em đi tìm y tá của tiểu đoàn.
Cậu bước ra khỏi lều, vụt
chạy đi một lát rồi trở lại chui vào, nói:
- Khổ quá, chẳng còn ai. Mọi
người kể cả y tá đều bỏ đi ra phố để tránh cái
nắng của sa mạc nầy. Bây giờ làm sao đây?
Tân nhướng mắt nhìn thấy vẻ
lo lắng của bạn, cậu an ủi:
- Không sao đâu, có lẽ anh bị
nhiễm vi trùng bịnh rét rừng đó thôi.
- Em đưa anh ra bệnh viện của
tiểu khu nhé.
Tân lắc đầu:
- Ra khám bệnh ngoài đó, nếu họ
bắt nằm lại để theo dõi bệnh, xét nghiệm mất nhiều
ngày thì phiền phức lắm. Đơn vị đang chờ đợi chuyến
bay để vào Nam, anh đâu có thể nằm lại đây một mình
được. Em ra phố chơi đi rồi ghé mua cho anh vài viên
thuốc sốt rét. Mới bắt đầu nhiễm vi trùng, uống
thuốc vào sẽ mau lành.
- Nhưng trưa nắng, anh nằm trong
lều làm sao chịu nổi?
Tân trả lời một cách mệt
nhọc:
- Không sao đâu, anh đang lên cơn
rét run, nóng thế nầy mà thấy dễ chịu. Em ra phố chơi
và nhìn lại cảnh cũ trông có thay đổi gì không so với
lúc anh em mình dừng lại đây để chờ đợi chuyến xe
lên Cung sơn.
- Vâng, em đi ra phố mua thuốc
cho anh.
Bính chui ra khỏi lều, Tân dặn
vói theo:
- Em cứ đi chơi, lúc nào về
cũng được. Anh rán chịu đựng. Có lẽ cơn sốt chỉ
kéo dài trong chốc lát thôi.
Nói xong, Tân nhướng mắt nhìn
theo đôi chân bạn bước đi trên cát nóng. Cậu nhắm mắt
lại và chìm trong giấc ngủ chập chờn.
Cậu giật mình thức dậy vì
tiếng động cơ máy bay vừa đáp xuống. Nhìn ra ngoài,
cậu thấy trời dịu hẳn, không còn nắng chói chang. Cậu
đưa tay lên xem đồng hồ rồi lẩm bẩm:
- Mới bốn giờ, chưa phải chiều
tối. Mặt trời đang bị mây che.
Cậu đưa tay lên rờ trán, không
còn sốt nữa. Miệng khô khốc, đầu nhức dữ dội, cậu
với tay lấy bi đông nước, mở nắp, ngửa cổ ực một
hơi dài rồi nằm xuống, thở một cách mệt nhọc. Cậu
lắng tai và không nghe tiếng động nào bên ngoài. Cậu lo
lắng nói thầm:
- Cả đại đội bỏ đi chơi hết
rồi. Nơi đây không sợ Việt cộng nhưng kẻ cắp vặt
thì ở đâu mà chẳng có. Chúng vào đây lấy trộm súng
đạn rồi đem bán cho Việt cộng thì ở tù cả đám.
Cậu lết ra cửa lều cố sức
gọi lớn:
- Có ai canh gác đó không?
- Có em đây chuẩn úy.
Một chú binh nhì của tiểu đội
Hai bước đến. Tân hỏi:
- Còn ai ở nhà nữa không?
- Một mình em thôi, trung đội đi
cả rồi.
- Ai cắt phiên cho chú gác?
- Dạ, trung sĩ Hy. Khi trưa, thấy
chuẩn úy nằm ngủ trong lều nên trung sĩ lo xếp đặt
công việc của trung đội vì biết chuẩn úy bị bệnh
rồi. Ở trên núi mới xuống nên đứa nào cũng đòi đi
phố, trung sĩ phải cho bốc thăm và em xui xẻo phải ở
nhà canh gác. Chuẩn úy đã đỡ bệnh chưa? Từ trưa đến
giờ em cứ nhìn vào thấy chuẩn úy ngủ li bì, em hơi lo
nhưng không dám vào gọi chuẩn úy dậy.
- Chú lo tôi ngủ luôn không dậy
nữa phải không?
Người lính cười khì khì:
- Đi đơn vị tác chiến mà bệnh
là khổ lắm. Anh em sống chết có nhau nhưng chẳng có thì
giờ mà săn sóc cho nhau. Chuẩn úy đói bụng không? Em đi
nấu nồi cháo trắng cho chuẩn úy ăn nhé?
Tân xua tay:
- Tôi không đói. Tí nữa tôi ra
cổng phi trường tìm chỗ ăn cũng được. Chú cứ lo bổn
phận canh gác của mình đi.
- Dạ, thôi chuẩn úy nằm nghỉ.
Mà kìa, chuẩn úy Bính về rồi đó.
Tân cố gắng bò ra khỏi lều và
đứng dậy nhìn, thấy Bính tất tả đi đến. Giọng Bính
đầy lo lắng:
- Anh hết sốt chưa? Trông anh bơ
phờ lắm. Em mua thuốc cho anh đây.
- Em mua cho anh thuốc gì vậy?
- Em không rành về thuốc nhưng
anh đừng lo, em mua theo toa của bác sĩ.
- Toa gì? Bác sĩ nào?
- Anh để em kể cho mà nghe. Câu
chuyện thực tức cười. Em ra phố, leo lên xích lô bảo
đạp nhanh đến phòng mạch tư của bác sĩ giỏi nhất
thành phố. Thiệt là tức cười. Người phu xe thấy em
mặc đồ trận, khoẻ mạnh, phóng lên xe một cách gọn
gàng rồi hối đạp nhanh đến bác sĩ nên hỏi em có phải
đi chơi bời bị bệnh bí đái không, cứ nói thật rồi
ông ta chở đến bác sĩ chuyên môn trị bệnh chơi bời.
Em tức cười quá nhưng không trả lời, lại hối ông ta
đạp nhanh hơn. Xe ngừng trước một phòng khám tư nhân.
Em vội vàng bước vào thấy hơn một chục người đang
đợi nên hơi mừng vì nghĩ rằng đây là bác sĩ giỏi.
Em sốt ruột không thể ngồi nối đuôi để đợi được
nên làm bộ như không thấy ai cả, đẩy cửa bước thẳng
đến cửa phòng khám. Cô y tá chận em lại bảo phải lấy
số thứ tự và chờ đến phiên. Em gạt cô ấy sang một
bên rồi xồng xộc bước vào. Cô y tá la to, bước theo.
Có lẽ cô ta tưởng em là kẻ cướp. Lão bác sĩ đang
khám cho một bệnh nhân, ngừng tay, hoảng hốt nhìn em.
Lão cố lấy giọng bình tĩnh hỏi em:
“- Ông muốn gì?
“- Tôi xin toa mua thuốc trị
bệnh.
“Lão bác sĩ gật đầu, có vẻ
yên tâm. Lão nói:
“-Vậy à? Bệnh thế nào?
“- Sốt cao độ.
“- Sốt cao độ? Sốt từ hồi
nào?
“- Đang sốt.
“Lão nhìn em ngạc nhiên, tưởng
em là thằng điên. Bây giờ em mới sực nhớ là chưa nói
cho lão biết là em đi khai bệnh giùm cho anh. Em liền giải
thích cho lão rõ. Lão gật đầu rồi vui vẻ hỏi kỹ về
tình trạng bệnh của anh. Lão nói đúng là rét rừng rồi.
Lão kê toa bảo em ra nhà thuốc để mua. Em cầm toa thuốc,
định móc tiền ra trả công thì lão xua tay không nhận
lại hỏi em:
“- Anh cấp bậc gì trong quân
đội?
“- Chuẩn úy.
“- Tại sao ra phố không mang
lon?
- “Tôi đang trên đường hành
quân.
“Lão gật gù và nói tiếp:
- “Nghe giọng nói và cách khai
bệnh của anh thì tôi cũng đoán anh là sĩ quan. Đã là sĩ
quan thì phải cẩn thận về thái độ của mình trước
dân chúng, đừng để người ta chê cười quân đội
mình. Anh vào phòng mạch dân sự thì cũng phải đợi tới
phiên mình như những người khác. Còn gấp quá thì phải
xin phép người đến trước mình. Tôi nói như thế, anh
có giận tôi không?
Nghe lão chỉnh, em xấu hổ quá,
rối rít xin lỗi. Lão cười một cách thân mật:
“- Cậu còn trẻ lắm. Biết
nghe lời thằng già nầy như thế là tốt. Thú thật với
chuẩn úy, thằng già nầy đang là thiếu tá bác sĩ quân
y nên muốn mọi người phải quý trọng cái quân đội mà
nó đang phục vụ.
“Em nghe nói hoảng hồn, vội
đứng nghiêm chụm chân chào. Lão thiếu tá đứng dậy
bắt tay em rồi tiễn ra cửa.
Tân cười ngất:
- Mới về thành phố em đã sinh
chuyện cho người ta mắng rồi. Thường ngày, em ăn nói,
đi đứng chừng mực lắm mà.
- Ra tới ngoài đường, nghĩ lại
em cũng ngạc nhiên về cái tính cách võ biền bất ngờ
của em khi nãy. Có lẽ vì em đang lo lắng về bệnh của
anh. Lão bác sĩ cũng tỏ ra rộng lượng, giải thích cho
em nghe về bệnh sốt rét của anh. Lão nói rằng, đối
với người Âu Mỹ thì bệnh nầy rất nguy hiểm có thể
làm chết trong những ngày đầu mới lên cơn. Người Việt
Nam chịu đựng giỏi hơn nhưng nếu không trị sẽ trở
thành kinh niên thì có hại lắm. Lão cũng bảo thuốc nầy
đợi hết sốt mới uống. Vì vậy em chưa về vội mà đi
một vòng để nhìn lại những nơi mà anh em mình đã đi
qua mấy tháng trước đây.
- Có gì thay đổi không?
- Chưa, vẫn y nguyên, nhìn lại
em cũng thấy cảm động lắm. Nhớ những ngày đầu tiên,
vác hành trang ra đơn vị tác chiến, trước mặt là sa
trường đầy chết chóc, sau lưng là quảng đời thơ ấu
êm đềm. Những ngày đứng trên lằn ranh đó của hai
quãng đời thực là những ngày đầy kỷ niệm không bao
giờ phai.
- Em có nhớ ông trung tá trung
đoàn trưởng ở Cung sơn không?
Bính cuời to:
- Sao lại không? Sĩ quan mới ra
trường về trình diện đơn vị thì làm sao tưởng tượng
nổi ông trung đoàn trưởng là một lão bụng phệ, mặc
xà lỏn lòi rốn ra ngoài. Lúc lão tự xưng là trung tá em
hoảng hồn chưa biết làm gì thì thấy anh đứng nghiêm
chào, em cũng làm theo. Vừa chào, vừa nhìn cái rốn của
lão, em cố lắm mới khỏi bật cười.
Tân hỏi:
- Không biết ông tá đã đưa
trung đoàn về đây hay chưa?
- Chưa về. Một hai hôm nữa,
tiểu đoàn mình đi rồi thì các tiểu đoàn khác và bộ
chỉ huy trung đoàn mới rút về để lên phi cơ vào Nam.
Tân ngạc nhiên:
- Sao em biết rõ vậy?
- Em hỏi mấy cô môi son má phấn
bán ở các quán trước cổng phi trường và quanh tiểu
khu.
- Em nói gì vậy? Tại sao hỏi
mấy cô đó?
- Hầu như mọi kế hoạch của
quân đội đều được lính ra ăn nhậu kể cho các ả
nghe.
Tân lo lắng:
- Vậy à. Thế thì những tin tức
đó có thể tới tai Việt cộng?
- Chắc chắn là như thế, không
còn nghi ngờ gì nữa. Tình báo của Việt cộng nhất định
dùng các ả làm tai mắt. Đàn bà, con gái, ông bà già,
trẻ con là những cộng tác viên rất đắc lực của Việt
cộng vì rất dễ lọt qua lưới của an ninh; nếu không
lọt được thì cơ quan an ninh cũng không nỡ nặng tay với
các thành phần đó. Điều đáng trách là lính của mình
rất thiếu ý thức bảo mật nên công tác tình báo của
địch đạt được hiệu quả rất cao. Trong chiến tranh,
tình báo có vai trò vô cùng quan trọng, vì vậy em lo sợ
mình khó kết thúc sớm cuộc chiến tranh nầy.
- Em lo cũng vô ích thôi. Mình chỉ
là một con én bé nhỏ đối với một đất nước mênh
mông. Thôi, anh hết sốt rồi, bây giờ thấy khỏe trong
người. Chúng mình ra quán ăn đi.
- Anh đi ăn cho no để uống
thuốc. Bác sĩ bảo rằng thuốc nầy mới nhập cảng vào
Việt Nam. Thuốc rất mạnh, uống vào có thể chận ngay
cơn sốt tiếp theo. Anh phải nhớ uống nhiều ngày liên
tiếp.
Ngày hôm sau. tiểu đoàn vẫn ở
yên tại chỗ. Đúng như lời bác sĩ, Tân không còn bị
sốt nữa. Cậu nằm nghỉ một ngày, sức khỏe hồi phục
khả quan. Buổi chiều hai bạn rủ nhau đi một vòng trên
phố rồi thẳng đường ra biển. Tân ngồi tựa lưng vào
một gốc phi lao già ngắm biển khơi. Bính xuống bờ cát
ướt, tận mép nước. Cậu hăng hái đuổi bắt những
con dã tràng chạy lòng ngòng trên cát.
Tân ngồi nhìn theo bạn, mỉm
cười. Dáng điệu thơ ngây của Bính làm Tân nhớ lại
những bạn học sinh trung học mà xưa kia cậu đã tổ
chức đi tắm biển ở Vũng tàu trong những ngày còn hoạt
động cho thành đoàn.
Bính bước ra chỗ nước cạn,
cúi mình xuống, nhúng hai bàn tay vào nước biển để rửa
sạch cát rồi bước lên ngồi cạnh Tân. Tân cười bảo:
- Nhìn em đùa giỡn với những
con dã tràng trên bãi biển, ai cũng tưởng em còn là học
sinh trung học chứ không ai nghĩ em là một sĩ quan trung
đội trưởng của quân đội.
Bính cười theo vui vẻ:
- Quả thực, mỗi lần thấy biển
là em tưởng chừng như sống lại những buổi theo ba má
và chị Mai ra bãi Vũng tàu. Em yêu thích biển lắm, có lẽ
vì biển giúp em sống lại cái tuổi hồn nhiên của thời
thơ ấu. Tuổi thơ là tuổi trong sạch của đời người.
Nhìn biển cả mênh mông là em thấy tâm hồn mình trong
sạch như tâm hồn tuổi thơ vậy.
Bính đột ngột quay sang nắm lấy
tay bạn rồi nói tiếp một cách sôi nổi:
- Anh Tân, trong đầu em vừa nảy
sinh ra một ý rất hay. Khi nào tan giặc, hết chiến tranh
rồi, em sẽ về làm nhà trên một mảnh đất nhìn ra biển
khơi như ở đây vậy.
Tân thở dài:
- “Tan giặc rồi, tôi sẽ về
hưởng cuộc đời êm đềm”. Trong ngôn ngữ của loài
người, có lẽ đó là cái điệp khúc làm cho người ta
xúc động nhất. Trong chiến tranh, có người lính chiến
nào chưa từng một lần thốt ra câu đó?
Bính gật đầu:
- Tan giặc rồi, em sẽ về làm
một cái nhà trên bờ biển để sống với ba em và chắc
chắn cùng với vợ con em nữa. Gần một tháng rồi, em
thường chiêm bao thấy ba em bị bệnh nặng và mong em trở
về. Em lo lắm.
Tân an ủi:
- Em không nên bận tâm vì những
giấc chiêm bao. Đó chỉ là hậu quả của sự nhớ thương
mà thôi. Hôm trước ở phi trường, anh thấy ông cụ còn
khoẻ mạnh và quắc thước lắm. Bác trai sẽ sống lâu
để đợi lúc tan giặc, em về làm nhà trên bãi biển để
cụ hưởng tuổi già với ngọn gió từ đại dương bát
ngát thổi vào.
- Cám ơn anh. Em rất mong ngày tan
giặc đó. Thôi sắp tối rồi, chúng ta về phố ăn cơm
đi. Có lẽ đêm nay là đêm cuối cùng của chúng ta ở
thành phố Tuy hòa nầy.
- Sao em biết?
- Em vẫn lấy tin ở mấy cô bán
quán. Lính quân nhu của phi trường ra ngoài quán huênh
hoang rằng đơn vị anh ta đã chuẩn bị xong một lượng
xăng khá lớn để ngày mai đổ vào nhiều chiếc C130 sẽ
đáp xuống sân bay chở lính vào Nam. Lính vào Nam là tiểu
đoàn mình chứ còn ai khác nữa.
Tân thở dài:
- Cũng may là vận chuyển bằng
máy bay chứ nếu đi bằng đường bộ thì tiểu đoàn
mình ắt có nguy cơ bị phục kích.
Hai anh em ra về. Quả thực, tờ
mờ sáng hôm sau, có lệnh cấm trại một trăm phần trăm.
Đến xế chiều, cả tiểu đoàn lên phi cơ, trực chỉ
vào Nam.