Sau gần hai giờ bay, phi cơ hạ
thấp xuống, nhà cửa và đường đi bên dưới rõ dần.
Có tiếng bàn tán xì xào trong đám lính:
- Sắp tới rồi.
- Có phải phi trường Tân sơn
nhất của Sài gòn không?
- Không phải đâu. Chung quanh Tân
sơn nhất có rất nhiều nhà cửa. Ở đây chỉ thấy toàn
là ruộng ngập nước. Kìa kìa, có một thành phố ngay
bên dưới. Thành phố nầy nhỏ, nhất định không phải
Sài gòn.
Máy bay tiếp tục hạ xuống. Gần
ngang tầm cửa sổ, những bụi cây, những bờ đất phóng
chạy về phía sau như điên cuồng. Phi cơ tiếp đất,
chạy chậm lại và dừng hẳn ở cuối phi đạo. Tấm
bửng ở phía sau bụng phi cơ hạ xuống, binh lính lần
lượt chui ra.
Tân tập họp trung đội về một
chỗ. Phi đạo tráng nhựa đen ngòm dài
thẳng tắp, nổi cao hẳn giữa một vùng đất hoang ngập
nước, với những đám cỏ dại xanh rì. Xa xa, vài chiếc
phi cơ nằm im lìm cạnh hai dãy nhà tôn vắng vẻ. Gần
đó, trung úy Bá và chuẩn úy Tám đang đứng cạnh người
lính mang máy truyền tin. Tân đến chỗ Bá, hỏi:
- Anh Bá, đây là nơi nào?
- Phi trường Trúc giang của tỉnh
Bến tre.
- Có lẽ đêm nay, chúng ta phải
đóng quân tại phi trường nầy. Mọi nơi đều ngập nước
cả. Vậy là mình phải cho lính cắm lều ngủ trên phi
đạo.
Trung úy cười:
- Không bao giờ người ta cho phép
ngủ trên phi đạo đâu. Ban đêm phi cơ vẫn có thể lên
xuống mà. Đợi cả tiểu đoàn vào đủ rồi thì chúng
ta sẽ phải di chuyển ra khỏi phi trường để tìm chỗ
đóng quân trong một làng nào đó ở gần đây.
- Trong làng thì làm sao tìm được
một chỗ trống đủ rộng để lập doanh trại cho cả
một tiểu đoàn?
Chuẩn úy Tám nói:
- Trong miền Nam không có doanh
trại cho các tiểu đoàn lưu động. Đi đâu cũng sống
chung với dân. Binh sĩ và hạ sĩ quan thì căng võng mà nằm
ngoài vườn, sĩ quan thì được xin vào ngủ trong nhà của
dân.
Tân tỏ ra thích thú:
- Sống như thế thì vui hơn đi
hành quân và đóng trại trong rừng núi hoang vu.
- Vui thực, nhưng phải luôn luôn
đề phòng. Du kích và cán bộ Việt cộng cũng sống chung
với dân. Chúng thường trốn trong các hầm bí mật đào
ngoài vườn, cạnh bờ ao và ngay cả trong nhà nữa. Tôi
đã từng hành quân nhiều năm trong Nam nên biết rất rõ.
Có một lần xảy ra một chuyện vừa rùng rợn lại vừa
buồn cười.
Tân nghe đến chuyện rùng rợn
thì nói ngay:
- Chuyện gì rùng rợn, anh Tám kể
cho em nghe đi trong khi chờ đợi cả tiểu đoàn mình đến.
Chuẩn úy Tám nói một cách chậm
rãi:
- Câu chuyện xảy ra cách nay
khoảng ba năm, lúc tôi còn là trung đội trưởng của sư
đoàn Bảy. Trong một cuộc hành quân, tôi dẫn trung đội
vào đóng trong một nhà dân có vườn rất rộng. Lính đều
căng võng ngủ ngoài vườn còn tôi thì xin vào ngủ bên
trong. Nhà thì có hai cái, một cái lớn lợp ngói rất
khang trang và một cái nhỏ lợp lá, gần như bỏ trống.
Tôi xin vào ngủ một mình trong nhà nhỏ lợp lá, trong đó
chỉ có một bộ ván gỗ cũ kỹ, mặt ván có nhiều lỗ
mọt, bên dưới chất đầy các dụng cụ làm vườn. Tôi
là đứa sợ rệp còn hơn sợ Việt cộng nên không dám
nằm trên bộ ván. Thấy mặt đất của nền nhà khá sạch
nên tôi trải tấm vải nhựa nằm ngay bên dưới sát cạnh
bộ ván. Thông thường, tiểu đoàn chính quy đi đến đâu
cũng chỉ nghỉ lại một đêm rồi sáng tiếp tục hành
quân. Không ngờ lần đó đơn vị dừng lại nhiều ngày.
Đến bữa trưa của ngày thứ ba, tôi ăn cơm xong, nằm dỗ
giấc ngủ thì thấy đống dụng cụ làm vườn dưới bộ
ván nhúc nhích. Tôi vội nhỏm dậy và nhớ ngay rằng nhà
nầy không nuôi con chó hay con mèo nào cả. Tôi vội rút
súng lục ra lên đạn và ló đầu ra bên ngoài cửa dùng
tay ra hiệu cho lính bao vây gian nhà. Đống dụng cụ tiếp
tục động đậy mạnh hơn, một cây cuốc lăn lông lốc
ra ngoài. Tôi hướng nòng súng vào đó bắn một phát.
Bỗng trong đống dụng cụ, có tiếng la thất thanh: “Đầu
hàng, đầu hàng, cho tôi ra, chịu hết thấu rồi.”
Tân hồi hộp hỏi:
- Việt cộng đang núp trong hầm
bí mật phải không?
- Đúng rồi. Lúc đó, tôi la to:
“Nằm im không được nhúc nhích”. Tôi cho lệnh siết
vòng vây chung quanh nhà, súng lên đạn sẵn sàng. Trong nhà
chỉ có tôi và một thằng binh nhì. Nó cẩn thận rút
từng dụng cụ quăng ra ngoài. Một nắp hầm vuông vức
đã hơi bị lệch sang một bên. Tôi ra lệnh: “Dở nắp
chui ra, hai tay cầm vũ khí đưa lên khỏi đầu”. Tôi hồi
hộp căng mắt ra nhìn, đề phòng hắn quăng lựu đạn
lên thì lập tức phóng ra cửa. Tấm nắp hầm nặng nề
được nâng lên và xê dịch sang một bên. Hai cánh tay
trần nâng cây carbin ló lên rồi tới một đầu tóc bù
xù. Thằng binh nhì của tôi vội chui xuống ván chụp lấy
cây súng và nắm tay thằng Việt cộng định lôi lên.
Bỗng thằng binh nhì la cái oái thực to rồi bỏ thằng
Việt cộng lại, cầm cây súng chui ra. Tôi hét : “Tại
sao mày không túm lấy nó?”. Thằng lính quay lại, tay bịt
mũi nói: “Thúi lắm, không chịu nổi”. Bây giờ tôi
mới ngửi thấy mùi phân người từ dưới hầm bí mật
xông lên mỗi lúc một nồng nực.
Chuẩn úy Tám ngưng nói, cười
sằng sặc. Tân hỏi tiếp một cách sốt ruột:
- Rồi sao nữa?
- Thì nó phải tự chui ra, nét
mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn. Tôi cho lính dẫn nó ra
bờ ao để tắm rửa rồi dẫn nó về giao cho tiểu đoàn
. Sau đó, theo lời anh sĩ quan an ninh kể lại, nó khai rằng
bên dưới hầm chẳng còn gì cả ngoài một ít nước
uống ở đáy của một cái thùng. Thức ăn thì hết từ
ngày hôm qua, nhưng nó bảo có thể nhịn đói ít nhất là
hai ngày nữa. Sức chịu đựng của nó về ăn uống thực
là đáng nể. Nhưng nó không thể giải quyết được cái
món thối tha mà cơ thể nó buộc phải thải ra hằng
ngày. Trong cái khoảng không gian nhỏ bé vừa một người
ngồi đó, chất thải tích trữ trong quần nó ngày nầy
qua ngày khác làm cho nó không thể chịu đựng được nữa
nên đành phải ngoi lên từ giã “cuộc kháng chiến
trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi” của nó.
Chuẩn úy Tám và trung úy Bá cười
ha hả. Tân cũng muốn cười theo để gọi là hòa đồng
với người khác. Tuy nhiên, cậu vẫn đứng yên chăm chú
nhìn chiếc phi cơ đang hạ cánh xuống phi đạo. Cậu cảm
thấy trong lòng mình nỗi xót xa cho thân phận con người
hơn là sự vui thích vì câu chuyện lý thú.
Trung úy Bá hình như chưa thỏa
mãn với sự kết thúc câu chuyện. Anh hỏi chuẩn úy Tám:
- Anh nằm kế đó ngủ cả đêm
mà không ngửi thấy mùi hôi à?
- Không có mùi gì cả. Cái nắp
đậy rất kín. Nếu không có đống dụng cụ bên trên
thì cũng khó nhận ra được.
- Cái hầm bí mật nhỏ xíu chỉ
vừa một người ngồi thì làm sao đủ không khí cho tên
Việt cộng đó?
- Khi đưa nó đi rồi, tôi mới
sực nghĩ đến điều đó nên sai lính dở bộ ván ra xem
xét thực kỹ. Cuối cùng, lính phát hiện ra một lỗ
thông hơi được che đậy rất khéo, ngay sát vách và nằm
bên ngoài gian nhà, nên tôi nằm phía trong không có mùi gì
cả.
Chuẩn úy cười và nói tiếp:
- Về sau nầy, tôi vẫn giật
mình khi nhớ lại, trong ba đêm liên tiếp, tôi và hắn,
hai kẻ thù đang tìm cách hại nhau lại ở kế cận bên
nhau không quá một mét. Sau khi đưa tên Việt cộng đi
rồi, tôi cho lính đào đất bên ngoài vào lấp cái hầm
lại. Đêm hôm đó tôi nằm tại chỗ cũ, thao thức mãi
không ngủ được. Đến nửa đêm, tôi đành phải mang đồ
đạc ra ngủ ngoài sân. Cũng may, lúc đó đang giữa mùa
nắng.
- Sau đó, anh và an ninh của tiểu
đoàn có bắt chủ nhà không?
- Không bắt nhưng chúng tôi có
tra hỏi. Chủ nhà bảo rằng chẳng bà con gì với tên
Việt cộng đó và cũng không biết hắn từ đâu đến.
Hắn yêu cầu cho đào hầm bí mật để ẩn núp và chủ
nhà không thể từ chối được. Thế là thôi, không điều
tra nữa.
Trung úy Bá vẫn còn thắc mắc:
- Tôi nghe nói an ninh quân đội
luôn luôn không bỏ lỡ cơ hội nào khai thác đến cùng
để hỗ trợ cho ban Hai mà.
- Khai thác trực tiếp tên Việt
cộng đủ rồi. Ai cũng hiểu rằng chủ nhà chẳng biết
gì nhiều. Họ sống trong vùng mất an ninh, Việt cộng
xách súng tới thì muốn làm gì mà chẳng được. Thậm
chí có nơi, Việt cộng còn nhảy lên bàn thờ của người
ta kéo màn che lại để trốn, dân đau đớn lắm nhưng
chẳng dám hé môi. Mình không thể trách dân được mà
phải tự trách mình không đủ sức bảo vệ dân. Chúng
tôi cũng không muốn chủ nhà khai thêm bất cứ điều gì
vì có thể tới tai Việt cộng thì tính mạng chủ nhà sẽ
lâm nguy. Mình không bảo vệ được họ đã là một tội
lỗi rồi, nỡ nào dồn họ vào sự nguy khốn nữa. Đôi
khi tôi nghĩ rằng trong cuộc chiến với kẻ thù xảo
quyệt mà chúng ta còn bị trói buộc bởi lòng nhân đạo
thì khó đi đến chiến thắng. Nhưng không thể làm khác
hơn được.
Trung úy Bá chỉ tay lên trời:
- Thêm một chiếc C130 nữa đến
rồi. Đó là chiếc cuối cùng. Thế là cả tiểu đoàn
vào đủ rồi. Các anh đi tập họp trung đội mình lại,
đừng cho lính đi tản mác. Có lệnh là phải đi ngay, xế
bóng rồi đó.
Tân trở về ban lệnh cho trung
đội xong thì gặp Bính đi tới. Bính tươi cười:
- Đây là phi trường Bến tre,
anh biết chưa?
- Biết rồi. Khi nãy đến giờ
em ở đâu?
- Vừa xuống phi cơ là trung sĩ
nhất Mạnh, trung đội phó của em kéo em lại khoe nơi đây
là quê hương của anh ấy. Nhà Mạnh ở quận Mõ cày. Anh
ấy nói cho em nghe kinh nghiệm hành quân ở vùng đồng
bằng nầy. Nguy hiểm hơn nhưng lý thú hơn ở vùng rừng
núi. Điều mà em thích nhất khi xuống phi cơ là nơi đây
chỉ cách Sài gòn chưa đầy một trăm cây số. Em sẽ về
thăm ba em một chuyến. Nhớ ông quá.
- Em làm đơn xin nghỉ phép đi.
Ai có thể cấp phép cho sĩ quan nhỉ? Tiểu đoàn hay trung
đoàn?
Bính lắc đầu:
- Em có hỏi trung úy Bá rồi. Ở
đơn vị tác chiến khó xin phép về thăm nhà lắm. Lúc
nào người ta cũng kêu ca thiếu sĩ quan chỉ huy ngoài mặt
trận.
- Vậy thì làm thế nào?
- Trốn đi! Trung úy Bá đồng ý
cho ba chuẩn úy trong đại đội thay nhau, cứ hai tháng một
người trốn về một lần. Vị chi một năm được hai
lần về thăm nhà. Mỗi lần chỉ vắng mặt tại đơn vị
từ ba đến bốn ngày mà thôi. Trung úy sẽ lờ đi như
không hề hay biết gì. Nếu rủi gặp chuyện nghiêm trọng
thì rán mà chịu lấy.
- Chuyện nghiêm trọng là thế
nào?
- Là đi đường bị Việt cộng
hay quân cảnh bắt. Và nếu đụng trận lớn, trung đội
bị thiệt hại nặng trong khi mình vắng mặt thì phải ra
nhận tội trước tòa án quân sự mặt trận.
- Tại sao chỉ kể ba chuẩn úy
thôi, còn trung úy Bá thì sao?
- Trung úy không dám rời đại
đội nếu không được cấp phép đàng hoàng. Đại đội
trưởng thì gay lắm. Trung đội trưởng mà đi thì có
trung đội phó thay thế, còn đại đội thì không có đại
đội phó nên đại đội trưởng gánh hết trách nhiệm
mọi nơi, mọi lúc. Vả lại, trong các cuộc hành quân của
đơn vị chính qui, trung đội luôn luôn đi chung với đại
đội còn đại đội thì thường phụ trách một mũi tiến
công riêng. Không có đại đội trưởng thì ai chỉ huy.
Trung úy Bá nhà mình lại là dân hiện dịch của Võ bị
Đà lạt, nghiêm túc hơn dân trừ bị của Võ khoa Thủ
đức nhiều. Trong quân đội, Sĩ quan Võ bị luôn luôn
được mọi người kính trọng và cấp trên tín nhiệm.
Mà quả thực, em nghe nói mọi sĩ quan Võ bị đều xứng
đáng với lòng kính phục và sự tín nhiệm đó.
- Thế đại đội trưởng không
bao giờ được về thăm nhà à?
- Có chứ nhưng phải được cho
phép đàng hoàng. Cùng với tờ giấy phép cấp cho đại
đội trưởng là lệnh đề cử người tạm thời thay
thế, bằng văn thư hay công điện chính thức để quy
trách nhiệm rõ ràng trên chiến trường. Em phải lợi
dụng thời gian còn là trung đội trưởng trốn về thăm
ba em chứ nay mai lên đại đội trưởng rồi thì khó về
lắm.
- Anh sẽ đề nghị với trung úy
Bá cho em về trước tiên và sau đó đến phiên anh thì
anh cũng cho em về luôn.
- Cám ơn anh.
Có lệnh tập họp và di chuyển.
Cả tiểu đoàn được xe chở ra khỏi phi trường, ngang
qua thành phố, đến một làng ở ngoại ô. Làng có vẻ
trù phú với những nhà ngói cổ xưa nằm trong những vườn
dừa sai trái.
Mỗi trung đội được vào đóng
trong một khu vườn. Tân dẫn trung đội mình vào một khu
vườn rộng rãi với những con mương song song chạy suốt
bề dọc, hai bên là hai hàng dừa tàn lá giao nhau, phủ
bóng mát xuống làn nước có cá lội tung tăn.
Chủ nhà là một nông dân đứng
tuổi. Tân nói với ông:
- Đơn vị chúng tôi hành quân
qua đây và được lệnh dừng lại để nghỉ qua đêm.
Tôi xin phép bác cho anh em chúng tôi được mắc võng ngoài
vườn để nghỉ ngơi.
Ông chủ nhà vui vẻ:
- Được, mấy chú cứ tự nhiên,
muốn nghỉ ở đâu cũng được. Chú là sĩ quan chỉ huy
phải không? Chú vào nhà mà nghỉ. Vợ chồng con cái chúng
tôi ở gian bên nầy, gian giữa là chỗ thờ phượng, còn
gian bên kia dành cho khách. Hôm nay, khách là sĩ quan thì
cũng vui lắm.
Tân nhìn quanh:
- Cháu muốn xin phép bác gái nữa.
- Ối, khỏi lo. Nói riêng với
tôi là đủ rồi. Bà nhà tôi hiền lành và biết thương
người lắm.
Ông chỉ tay xuống bếp và nói
tiếp:
- Kìa, bả đang lăng xăng đi kiếm
củi khô cho lính nấu cơm đó. Chú nói với mấy em trong
đơn vị cứ tự nhiên, cần muối mắm hay dao thớt, nồi
niêu gì cứ nói với bả, đừng có ngại. Thấy mấy em
đi đánh nhau cực khổ mà thương.
Tân cám ơn và bước ra sân tìm
trung sĩ Hy. Anh vừa cắt đặt chỗ canh gác xong. Cậu hỏi:
- Xong cả chưa anh Hy?
- Dạ xong rồi. Tôi đã phân xong
chỗ đóng quân cho các tiểu đội.
- Dặn anh em canh gác cẩn thận.
Chúng ta đóng quân mà không có tuyến phòng thủ rõ rệt.
Trung sĩ cười:
- Không sao đâu chuẩn úy. Vùng
nầy còn an ninh lắm, sát nách thành phố mà. Tôi đã hỏi
kỹ dân ở đây, Việt cộng chưa bao giờ dám về, chuẩn
úy cứ yên tâm. Chuẩn úy mới bệnh xong, cần phải nghỉ
ngơi, cho có sức để đi hành quân. Đêm nay mọi việc để
tôi lo cho.
- Cám ơn anh.
Quả thực, Tân cảm thấy rất
mệt mỏi. Bệnh chưa dứt hẳn lại di chuyển suốt ngày
hôm nay. Cơm nước xong, cậu chui vào mùng và ngủ ngon
lành.
Tân thức dậy thì trời đã sáng
tỏ. Cậu bước ra ngoài, gặp ngay trung sĩ Hy.
- Trong đêm có gì lạ không trung
sĩ? Lính đi đâu cả rồi?
- Tôi cho chúng nó đi ra chợ ăn
sáng, chỉ còn lại mấy đứa canh gác thôi. Về tới miền
Nam, thấy chợ búa hàng quán, lính mình thích quá. À,
chuẩn úy Bính mới sang tìm chuẩn úy để đi uống cà
phê mà chuẩn úy chưa dậy. Hồi hôm, lúc chuẩn úy ngủ
rồi, chuẩn úy Bính cũng có sang tìm, hình như chủ nhà
bên đó làm gà mời các sĩ quan nhậu. Lúc đó chuẩn úy
ngủ say lắm. Tôi bảo để chuẩn úy ngủ cho có sức
chuẩn bị hành quân.
- Cám ơn anh Hy. Anh dặn lính gác
coi chừng súng đạn cho anh em. Tôi qua bên chuẩn úy Bính.
- Vâng, chuẩn úy cứ đi, có tôi
giữ nhà, không lo.
Tân bước qua nhà kế cận. Vừa
thấy cậu, Bính reo lên:
- Anh Tân, khỏe không?
Tân gật đầu:
- Khỏe rồi, nhờ được một
giấc ngủ ngon lành suốt đêm.
- Anh vẫn còn xanh xao lắm. Cần
phải ăn uống bồi dưỡng.
- Vào đây rồi thì không lo thiếu
thốn chất bổ đâu.
- Bây giờ mình ra chợ uống cà
phê và ăn sáng đi.
- Rủ anh Bá và anh Tám nữa.
- Hai ông đó đi rồi. Em đợi
anh nên chưa đi.
Hai anh em ra chợ, chọn một cái
bàn nhỏ đặt riêng bên hè một quán ăn. Bính nói khi vừa
ngồi xuống ghế:
- Vào miền Nam em thích quá chừng.
Dân chúng tỏ ra rất tốt với quân đội của mình. Họ
niềm nở và sốt sắng đến đỗi làm cho em ngạc nhiên
và cảm động.
- Gia đình nơi trung đội anh ở
cũng vậy. Họ thực tốt và tỏ ra có rất nhiều cảm
tình đối với mình. Anh đang suy nghĩ về điều đó.
Trước đây, khi còn trong hàng ngũ của cộng sản, anh cứ
đinh ninh rằng lòng dân bao giờ cũng hướng về phía Việt
cộng. Nhiều năm sau nầy, dù đã từ giã cộng sản, anh
vẫn còn định kiến đó. Bây giờ, chứng kiến tận mắt
thái độ của người dân đối với quân đội, anh mới
nhận ra cái định kiến sai lầm đó đã đeo theo anh bao
nhiêu năm trời. Có lẽ dân mình bắt đầu hiểu rõ chủ
nghĩa cộng sản và nhận ra, trong cuộc chiến tranh nầy,
chính nghĩa thuộc về bên nào?
Bính lắc đầu:
- Em không nghĩ như thế. Dân
chúng ở nhà quê chẳng đủ khả năng để nhận xét như
anh nói đâu. Họ không biết chủ nghĩa, chế độ là gì,
cũng chẳng quan tâm đến chính nghĩa, phi nghĩa gì cả. Họ
không cần biết bộ máy cai trị hiện nay gồm những ai.
Đối với họ, chính phủ là mấy ông công chức của
mình trong xã, hoặc mấy ông cán bộ Việt cộng thỉnh
thoảng lén lút về, những người mà họ nhìn thấy và
có thể nói chuyện trực tiếp được. Nếu những người
đó tỏ ra đàng hoàng với họ, thế là chính phủ tốt,
chế độ tốt. Ngược lại, mấy ông công chức hay cán
bộ đó không làm họ vừa lòng thế là chính phủ xấu,
chế độ xấu. Ý kiến đó không phải của riêng em mà
là của trung úy Bá và anh Lành nữa.
- Anh Lành nào?
- À, em chưa nói với anh. Anh Lành
là con ông chủ nhà, nơi trung đội em đóng. Anh ấy là
giáo sư triết học ở trường trung học công lập ngoài
thị xã Bến tre. Chính bác Năm, ba anh ấy, giới thiệu
với em. Em cũng cao hứng giới thiệu anh là chuẩn úy,
nguyên là giáo sư trung học, còn em thì có hai chứng chỉ
văn khoa. Ôi thôi, bác Năm và nhất là anh Lành mừng quá,
vội vàng bắt gà làm thịt mời tất cả sĩ quan. Em qua
tìm anh thì anh ngủ rồi, trung sĩ Hy không cho em gọi dậy.
Tiếc quá. Anh Lành nói chuyện hay lắm. Một con người
uyên bác và sâu sắc, đúng là một giáo sư triết học.︠
Trung úy Bá và chuẩn úy Tám thích lắm, bốn người ngồi
uống rượu và nói chuyện đến khuya. Rất tiếc là anh
không gặp được anh Lành để thảo luận về cuộc chiến
tranh ở Việt Nam hiện tại.
- Chiều nay, anh ấy có về không?
- Không, anh Lành về thị xã dạy
luôn năm ngày, thứ bảy mới trở về. Anh ấy đang soạn
tiểu luận cao học. Em nghe nói mê quá chừng. Không biết
chừng nào em mới được trở về đi học lại. Nếu mình
còn ở tại đây lâu ngày thì anh có dịp gặp anh Lành.
- Theo ý kiến anh Lành thì dân
chúng ở tỉnh Bến tre nầy, hiện nay ngã về bên nào?
- Em đã trình bày với anh rồi
đó. Dân không có một chính kiến nào cả. Ai tốt với
họ thì họ theo, thế thôi. Việt cộng rất hiểu điều
nầy nên luôn luôn giáo dục đội ngũ cán bộ của họ
phải rán sức tỏ ra có lòng tốt đối dân. Chung quy, đó
chỉ là một trò lừa bịp rộng lớn và tinh vi nhưng họ
đã đạt được hiệu quả rất khả quan. Đa số cán bộ
của họ được dân che chở và tiếp tế để họ theo
đuổi cuộc chiến tranh mà họ đang gây ra ở miền Nam
nầy. Anh Lành bảo rằng họ đã dùng xảo thuật để thu
phục lòng dân và khi đã đạt được kết quả rồi thì
họ bèn rêu rao rằng dân chúng thích cộng sản, dân thù
ghét đế quốc tư bản. Dân có biết gì là cộng sản
hay tư bản đâu. Họ đem mấy cái thứ quỷ quái đó gắn
vào những tấm lòng đơn sơ, chân thật và hồn nhiên của
dân quê mình.
- Nhưng anh thấy dân ở đây vẫn
tỏ ra có cảm tình với chúng ta chứ có riêng gì với
cán bộ cộng sản.
- Đúng vậy, dân cũng có cảm
tình với mình nhưng chỉ riêng với quân đội chính quy
thôi. Với bảo an và dân vệ, họ vẫn chưa có cảm tình.
- Sao lạ vậy, lính nào thì cũng
là lính. Bảo an và dân vệ là lính địa phương lại gần
gũi và có họ hàng với họ còn lính chính quy chúng ta là
người tứ xứ, từ xa đến mà.
- Thế mà dân có cảm thình riêng
với lính chính quy thôi. Cảm tình đó cũng chỉ mới phát
triển mạnh từ vài năm trở lại đây.
- Tại sao vậy?
- Nhờ có đội ngũ sĩ quan trong
quân đội mình. Tất cả sĩ quan mới ra trường bây giờ
đều là người có học, phần lớn được đưa ra chỉ
huy trung đội và đại đội là những đơn vị trực tiếp
gặp gỡ dân. Có học thì đương nhiên phải có hạnh.
Trí thức và đạo đức thì gần như luôn luôn đồng
hành, ai cũng phải chấp nhận điều đó. Kể từ khi
chính phủ ban hành chính sách động viên trí thức thì
quân đội mình trở thành nơi tập trung trí tuệ vào loại
cao nhất trong xã hội. Lúc mình đang học ở khóa Mười
bốn sĩ quan trừ bị Thủ đức, có một phái đoàn Sĩ
quan và sinh viên sĩ quan của Pháp qua thăm viếng và tiếp
xúc với anh em mình rồi về bên Pháp tuyên bố rằng
trình độ học vấn của sinh viên sĩ quan Việt Nam cao vào
bậc nhất thế giới. Anh còn nhớ việc đó không?
- Anh còn nhớ việc đó.
Bính gật đầu có vẻ hài lòng:
- Ở đâu có trí thức thì ở đó
các khuynh hướng vô đạo đức phải e dè và rút lui.
Thực vậy, bây giờ lính chính quy đi hành quân thì không
có chuyện bắt gà hay phá phách cây trái của dân chúng.
Sĩ quan như anh và em nếu thấy lính mình có hành động
sai trái với dân thì đâu có thể làm ngơ được. Vì
vậy, dân có cảm tình với lính chính qui.
Tân cười:
- Thế thì sĩ quan mình và cán bộ
cộng sản đều tỏ ra đứng đắn với dân, nghĩa là có
tư cách như nhau?
- Nhìn qua thì giống nhau nhưng
động cơ thì khác nhau. Cộng sản tốt với dân vì mục
đích tô vẽ cho bề ngoài của họ. Còn chúng ta đứng
đắn với dân vì “trí thức và đạo đức là hai người
bạn đồng hành”. Người cộng sản tỏ ra thương dân
là vì đảng của họ buộc họ phải làm như thế còn
chúng ta thương dân là do tấm lòng chúng ta thúc đẩy.
Khác là chỗ đó nhưng hiệu quả lại giống nhau. Ai tỏ
ra thương dân thì được dân che chở và giúp đỡ. Ai làm
cho dân bất mãn thì lãnh hậu quả bất lợi.
- Vì vậy, cộng sản gọi đây
là chiến tranh nhân dân.
- Đúng vậy, cộng sản biết rõ
rằng họ phải núp trong nhân dân thì mới có thể duy trì
cuộc chiến tranh xâm lược nầy được. Chúng ta có vũ
khí tối tân, chúng ta có các sư đoàn rất thiện chiến
nhưng họ được nhân dân che chở thì chúng ta khó đánh
bật họ ra khỏi miền Nam nầy. Chỉ có thể lấy chiến
tranh nhân dân để chống lại chiến tranh nhân dân chứ
không thể lấy súng đạn đơn thuần mà chống lại chiến
tranh nhân dân được.
- Chúng ta phải làm gì để tiến
hành một cuộc chiến tranh nhân dân như em nói?
- Trước hết là chính quyền và
quân đội phải có nhận thức rõ về điều nầy. Chính
quyền thì anh biết rồi, gồm toàn những người cho rằng
mình chỉ có bổn phận hoàn thành các thủ tục hành
chánh do pháp luật qui định. Hầu hết họ là người tốt
nhưng nói về chiến tranh nhân dân thì họ chẳng thèm
nghe đâu, có lẽ đợi đến khi mất nước rồi thì may
ra họ mới thấm thía. Quân đội thì còn khó hơn nữa.
Sĩ quan cao cấp là những người thuần túy võ biền và
được đào tạo dưới thời thực dân Pháp nên rất khó
lòng thuyết phục họ chấp nhận quan điểm chiến tranh
nhân dân được. Chỉ trông chờ ở nhóm sĩ quan trí thức
bọn mình thôi, nhưng anh em mình hầu hết cấp bậc thấp,
ai mà thèm nghe lời mình.
- Anh rất ngạc nhiên và thán
phục tư tưởng của em về chiến tranh nhân dân.
- Không phải của em, đó là ý
nghĩ của anh Lành. Anh ấy đang làm tiểu luận triết học
về đề tài đó. Anh Lành cũng bảo rằng thấy anh em mình
đi vào quân đội và xông pha nơi trận mạc, anh ấy rất
cảm phục và đôi khi tự thấy hổ thẹn khi đứng bên
lề cuộc chiến để suy tưởng về cuộc chiến. Nếu sau
nầy, lệnh động viên tới tay thì anh sẽ vui vẻ lên
đường; lúc đó sẽ mất đi sự an thân nhưng sẽ an tâm
để suy tưởng. Anh ấy luôn luôn đề phòng mình trở
thành trí thức xa lông. Nói chuyện với anh Lành, em thấy
rất thú vị. Thôi bây giờ, em đi trả tiền rồi mình
về.
- Từ đây vào thị xã không xa
lắm lại có xe lôi chạy thường xuyên. Mình vào đó chơi
cho biết, đến trưa về cũng được.
- Không em về Sài gòn ngay bây
giờ.
Tân trố mắt nhìn. Bính cười:
- Hồi hôm em xin trung úy Bá về
thăm ba em. Anh ấy đồng ý ngay.
- Anh Bá thực tốt. Anh em mình
may mắn mới gặp người chỉ huy trực tiếp như thế.
- Trung úy bảo rằng, tiểu đoàn
mình vào đây trước, có lẽ vài ngày nữa trung đoàn mới
vào tới. Vì vậy mình có thể vẫn ở đây ít nhất là
ba ngày. Nếu tiểu khu có mượn để đi lùng thì cũng
sáng đi chiều về thôi. Em xin trung úy đi trong ba ngày,
ngủ lại Sài gòn hai đêm. Em giao trung đội lại cho trung
sĩ Mạnh lo. Nếu cần anh giúp đỡ cho em.
- Được, em yên tâm. Nhưng tại
sao em không đi từ sáng sớm?
- Anh Bá bảo rằng không nên đi
sớm, đợi tới giờ nầy không có lệnh gì thì mới nên
đi. Đường đi bây giờ thuận lợi lắm, xe đò rất
nhiều và chạy nhanh. Trưa nay em có mặt ở Sài gòn rồi.
Nghĩ đến chuyện gặp lại ba em, chị Mai và bé Bình, em
nôn nao lắm.
- Em cũng nên đề phòng trường
hợp tiểu đoàn mình thình lình di chuyển khỏi chỗ nầy.
- Có, em đã dự trù chuyện đó.
Trung sĩ Mạnh có cho em địa chỉ của một người chị
ruột sống tại thành phố Bến tre. Nếu có di chuyển
thình lình thì anh Mạnh sẽ ra đó nhắn lại người chị,
em về đó sẽ biết ngay.
- Thế được rồi, em cứ đi.
Cho anh gởi cái nầy.
Tiếng móc túi lấy ra một số
tiền trao cho Bính:
- Anh nhờ em, khi về đến Chợ
lớn, ghé mua một món đồ chơi trẻ em về cho cháu Bình.
Em nói với cháu rằng đây là quà của đại tướng Tân
nhờ đại tướng Bính trao lại cho Bình.
Bính cười:
- Nó thích em làm đại tướng
lắm. Nay thêm một ông đại tướng Tân gởi quà cho nữa
thì thằng Bình sướng như lên tiên. Thôi chúng ta hãy đi
về, em thay áo quần rồi đi ngay.
Bính về chỗ đóng quân, thay bộ
quân phục tác chiến bằng áo quần thường phục. Tân
trông thấy ngạc nhiên:
- Ở đâu em có bộ đồ dân sự
nầy? Cả đôi giày da nữa. Nhìn em giống công chức chứ
không giống quân nhân nữa.
- Em vẫn mang theo kể từ khi ra
đơn vị, dự trù khi đi phép thì mặc vào để qua mắt
Việt cộng. Bây giờ không phải qua mắt Việt cộng mà
qua mắt quân cảnh. Áo quần và đôi giày dân sự nầy từ
nay thành của chung cho tất cả sĩ quan đại đội dùng đi
phép hay trốn về thăm nhà như em hôm nay.
Bính nói xong, bắt tay những
người có mặt rồi hối hả ra đi.
*
* *
Đại đội tiếp tục ở yên tại
chỗ. Đến trưa ngày thứ ba, Bính trở lại đơn vị. Mọi
người bu quanh hỏi thăm tin tức. Bính lắc đầu:
- Tình hình chính trị căng thẳng
lắm. Các nhà sư liên tục sách động dân chúng xuống
đường chống chánh phủ. Các thầy thường xuyên tổ
chức những buổi thuyết pháp công khai, nội dung chính
yếu không phải là truyền bá phật pháp mà là tố cáo
chính phủ có chủ trương kỳ thị tôn giáo. Với tình
hình nầy thì chỉ có Việt cộng hưởng lợi mà thôi.
Dân chúng chăm chú theo dõi hoạt động của các thầy mà
không còn quan tâm đến cuộc chiến tranh xâm lược của
Việt cộng nữa. Chính quyền thì lúng ta lúng túng và
nguy nhất là đã có dấu hiệu chia rẽ trong quân đội.
Nhiều quân nhân, kể cả sĩ quan ngã theo các nhà sư để
chống lại chính phủ. Tình hình đang rất bất lợi cho
chúng ta.
Nghe Bính nói, ai cũng thấy bi
quan. Khi chỉ còn hai anh em ngồi với nhau trên hai chiếc
võng căng ở mái hiên, Tân hỏi:
- Bác ở nhà có khoẻ không?
- Ba em không được khoẻ lắm,
ông thường bị bệnh luôn.
- Bạch Mai và cháu Bình?
- Hai mẹ con đều khỏe mạnh.
Bình ngoan lắm. Chị Mai độ nầy buôn bán cũng khá, sự
sống gia đình em tạm ổn. Ba em cứ nhắc đi nhắc lại
muốn anh về thăm. Tâm lý người già là sống nhiều với
quá khứ nên thường muốn gặp lại những người quen
cũ. Có lẽ ba em muốn găp lại anh cũng vì lý do đó.
- Vâng, anh sẽ về thăm bác một
chuyến. Nghe em nói, anh rất cảm động. Anh mồ côi từ
thuở nhỏ; ở miền Nam nầy anh chẳng còn người thân
nào cả nên lòng thương yêu của người khác luôn luôn
là một ân huệ đối với anh.
- Nhưng anh không nên đi ngay bây
giờ, có thể gặp rủi ro. Việt cộng lợi dụng sự bất
ổn chính trị ở thủ đô, tăng cường hoạt động. Quân
cảnh cũng tìm cách ngăn chận sự đi lại của quân nhân
vì sợ bị lôi cuốn vào cơn khủng hoảng.
Tân lắc đầu:
- Không. Đâu có trốn về ngay
được. Trung úy Bá đã quy định là mỗi hai tháng mới
có một sĩ quan trung đội trưởng về thăm nhà. Anh sẽ
thương lượng với chuẩn úy Tám nhường kỳ sắp tới
cho anh.
- Với tình hình nầy, hai tháng
nữa chưa chắc đã yên. Quân cảnh phối hợp với cảnh
sát chận ở các cửa ngõ vào thành phố, sợ quân nhân
bỏ đơn vị về Sài gòn tham gia biểu tình với các nhà
sư. Chính trị nát bét rồi. Miền Nam nầy chỉ còn trông
nhờ vào quân đội nữa thôi. Nếu quân đội cũng bị
các nhà sư phá hỏng thì chắc chắn nhân dân mình sẽ
chịu sự thống trị của cộng sản.
Bính thở dài nói tiếp:
- Bên ngoài, kẻ thù đang nổ lực
đánh phá mà trong nhà anh em lại xâu xé lẫn nhau, làm sao
tránh được sự diệt vong.
- Anh thấy em có vẻ thiên về
phía chính phủ và có ác cảm với Phật giáo.
Bính cãi lại:
- Không, em không có ác cảm với
Phật giáo đâu; trái lại, em dự định khi về già sẽ
qui y như ba em để trở thành đệ tử của nhà Phật.
Nhưng thật tình em không có cảm tình với các nhà sư
đang khua tay múa chân hiện nay. Em nhớ anh em mình đã từng
tranh luận vấn đề nầy lúc còn ở quân trường. Đến
bây giờ em cũng chưa thay đổi được cái nhìn của em
đối với các nhà sư. Các bạn em đã từng đi nghe thuyết
giảng và đều có nhận xét rằng mấy ông mặc áo cà sa
đó, không phải ai cũng là đại diện chân chính của đức
Phật từ bi. Còn đối với chính quyền, thực tình, em
chẳng ưa gì bản thân mấy ông đang cầm quyền hiện nay
nhưng phải hiểu rằng, các ông ấy đang chính thức điều
hành công cuộc tự vệ của miền Nam chống lại cuộc
xâm lược của cộng sản. Đó là một guồng máy khổng
lồ không thể thay đổi bất cứ lúc nào, nhất là trong
lúc đất nước đang lâm nguy. Không muốn hợp tác với
chính quyền thì hãy lui về làm công dân hạng hai chứ
đừng có hành động gì làm cho miền Nam càng thêm nguy
khốn.
Vẻ bất mãn hiện ra trên gương
mặt của Tân. Cậu ngắt lời:
- Anh không muốn lao vào cuộc
tranh luận với em, nhưng anh thấy khó chấp nhận lập
trường của em vì anh thấy nó giống như các bài xã luận
trong tờ báo của chính phủ. Anh không có chút cảm tình
nào với tờ báo đó.
Mặt Bính hơi đỏ lên. Cậu hăng
hái đáp lời:
- Em công nhận lập luận của em
gần giống lập luận của cơ quan phát ngôn của chính
phủ. Thế thì đã sao đâu, chẳng có gì là sai trái hay
đáng xấu hổ cả.
Bính cố gắng giữ bình tĩnh và
làm cho giọng nói dịu lại:
- Anh là một sĩ quan, nhưng em
hiểu rằng anh không có cảm tình với bất cứ chính phủ
quốc gia nào nên ghét lây bất cứ lập trường nào giống
lập trường của chính phủ. Đó là dư âm của một thời
chống chính phủ cuồng nhiệt trong quá khứ của anh. Hơn
nữa, cái chính phủ nầy đã từng bắt anh, tra tấn anh,
giam cầm anh gần ba năm nên trong lòng anh vẫn chưa dứt
hết thù hận. Điều đó cũng phù hợp với bản tính rất
người của anh.
- Nói gì thì nói, anh vẫn mong có
sự thay đổi trong bộ máy cầm quyền hiện nay.
- Em cũng chiều theo ý muốn thay
đổi của anh nhưng em xin thêm hai điều kiện. Một là sự
thay đổi không gây xáo trộn để cộng sản lợi dụng
mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam. Hai là chính quyền
mới phải có khả năng cao hơn, đặc biệt là về việc
bảo vệ được miền Nam nầy.
- Chứ em không cần chính quyền
tôn trọng tự do dân chủ hay sao?
- Có chứ. Tự do dân chủ là nhu
cầu không thể thiếu được cho đời sống, nhưng nhu cầu
đó chỉ có được sau khi bảo vệ xong đất nước. Mất
nước rồi thì tự do dân chủ cũng chẳng còn.
Tân không nói nữa. Cậu ngồi
im, mặt có vẻ không vui. Bính nói:
- Thôi, tranh luận như thế đủ
rồi. Bây giờ trở về nhiệm vụ lính chiến của mình.
Em đoán những ngày sắp tới sẽ rất nặng nề và vất
vả đối với mình. Việt cộng sẽ lợi dụng sự bất
ổn chính trị ở thủ đô và các tỉnh miền Trung để
tăng cường hoạt động, trong khi nội bộ của mình có
biểu hiện đáng ngại. Lính tráng thuộc các gia đình
sùng đạo Phật chắc chắn có ít nhiều tư tưởng bất
mãn, nhiều người sẽ hoang mang vì bất ổn chính trị,
không còn tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của
mình. Tinh thần của quân đội ắt giảm sút. Việt cộng
sẽ đánh mạnh hơn với hi vọng gây nhiều thương vong để
làm cho tinh thần quân đội mình càng giảm sút hơn nữa.
Bính đứng dậy, nói tiếp:
- Thôi, anh nghỉ đi, em về coi
sóc trung đội của em.
Quả như lời tiên đoán của
Bính, tin tức từ tình báo tiểu khu cho thấy Việt cộng
đang tìm cách áp sát thành phố Bến tre. Cần phải tìm
cách chận đứng và đuổi quân địch càng xa thành phố
càng tốt. Nếu họ đến gần trong tầm hỏa tiễn địa
địa, họ sẽ mang thứ vũ khí đáng sợ đó phóng vào
thị xã thì chắc chắn sẽ gây thiệt hại rất lớn cho
dân chúng và gây tiếng vang hoàn toàn bất lợi cho phía
quốc gia đối với dư luận trong nước và thế giới.
Sẵn có một tiểu đoàn chính quy từ ngoài Trung di chuyển
vào đang đóng quân tại chỗ nên tiểu khu mượn tạm để
hành quân càn quét cùng với lực lượng quân sự địa
phương.
Lệnh hành quân được ban đến
cho tiểu đoàn và các đại đội vào chiều tối. Tờ mờ
sáng hôm sau, đoàn quân xa của tiểu khu chở tiểu đoàn
đến địa điểm xuất phát trên bờ một con lộ đá.
Tiểu đoàn sẽ thọc vào vùng nghi ngờ có địch bằng ba
mũi tiến công. Chính giữa có đại đội Ba đi đầu mở
đường cho bộ chỉ huy tiểu đoàn và đại đội trọng
pháo, tiến vào làng bằng con đường đất khô ráo xuyên
thẳng vào giữa những vườn dừa và cây trái um tùm. Đại
đội Một bên trái và đại đội Hai bên phải, tiến
song song và cách tuyến giữa khoảng hai trăm mét, để yểm
trợ hai bên sườn của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Hai đại
đội nầy không đi trên đường mà phải băng qua những
liếp dừa, cách nhau bằng những con mương nước sâu từ
đầu gối đến thắt lưng.
Cả ba cánh quân tiến rất chậm
chạp vì tuyến giữa vừa đi vừa dò mìn bẫy, hai mũi
bên thì phải leo lên liếp rồi tuột xuống mương liên
tục. Từ hơn một năm nay, khu nầy mất an ninh nên phần
lớn dân chúng bỏ lên thị xã sinh sống hay tập trung vào
các ấp chiến lược. Vườn dừa không được săn sóc
thường xuyên, cỏ dại mọc um tùm khắp nơi, cao ngập
đầu người. Trong làng, phần lớn nhà cửa bỏ hoang,
xiêu vẹo và vắng vẻ, thỉnh thoảng mới thấy một hai
người già cố bám lấy khu vườn để thu nhặt những
quả dừa khô rụng xuống đất.
Dẫn đầu cánh quân bên trái là
trung đội Hai của Tân. Sau hơn hai giờ, cậu ước lượng
mới đi được chừng hai cây số mà thôi. Tình hình vẫn
yên tĩnh nhưng là cái yên tĩnh rờn rợn. Với địa thế
rậm rạp và đầy hầm hố, cộng quân có thể phục kích
và tấn công bất ngờ.
Tân nghe tiếng gọi từ phía sau:
- Chuẩn úy Tân!
Cậu dừng lại hỏi:
- Gì đó?
Một người lính trả lời:
- Trung úy nói chuẩn úy chỉnh
lại hướng đi. Mình cách tiểu đoàn khá xa rồi, áp sát
lại một chút.
Tân nhìn lui sau:
- Trung đội vẫn đi đúng hướng
chứ có lệch bên trái đâu. Hỏi lại trung úy xem.
- Trung úy bảo vì con đường
làng quặt sang phải, tiểu đoàn cũng quặt theo. Chúng ta
buộc phải áp sát vào.
Tân vượt lên, qua mặt hai binh
sĩ dẫn đầu, đi về bên phải một đoạn ngắn và bước
lên một bờ đất. Chung quanh đầy những bụi rậm. Cậu
cố nhóng cổ nhìn về phía trước để gióng hướng và
tìm một cây cao có hình dáng đặc biệt dễ nhận thấy
để làm chuẩn mà di chuyển tới.
“Ầm”, một tiếng nổ lớn
vang lên từ tuyến giữa. Tân nhảy xuống nằm mọp, kê
súng lên bờ đất. Một loạt súng nổ, cũng từ hướng
đó. Cậu nói thầm:
- Chúng ta rơi vào ổ phục kích
rồi.
Cậu ngẩng đầu lên, nhìn về
phía sau, nhưng cỏ ở đây khá rậm rạp nên cậu không
nhìn thấy binh sĩ của trung đội mình. Tuy nhiên cậu cũng
yên tâm vì hiểu rằng, sau tiếng nổ, toàn thể đại đội
đang mọp xuống, súng hướng về phía trước và sẵn
sàng nhả đạn.
Cậu quay qua phải chăm chú nhìn
về hướng tiếng nổ và tiếng súng. Cậu bò sang một
bên để tránh bụi cây trước mặt. Cậu giật mình vì
thoáng thấy một bóng người sau những lá cây của khu
vườn. Tân nhìn sửng, tim đập thình thịch. Bóng người
nhích dần về phía cậu. Hắn đi thụt lùi, mặt quay về
hướng bộ chỉ huy tiểu đoàn tức là hướng đối
nghịch với Tân. Hắn đã ra khỏi khu vườn rậm rạp và
hiện ra một cách rõ ràng, chỉ cách Tân hơn hai mươi mét
mà thôi. Hắn ở trần, mặc quần xà lỏn đen, không mang
súng nhưng có hai quả lựu đạn lủng lẳng bên hông. Lập
tức Tân hiểu rằng hắn vừa giật mìn xong và chạy về
hướng nầy và không ngờ có một cánh quân của cậu
đang phục ở đây.
Hắn dừng lại, lưng vẫn quay về
phía cậu. Tân nâng nòng súng lên, kê mắt vào bộ máy
ngắm. Cậu nhìn thấy rõ cái lưng trần rám nắng, nung
núc thịt của tên Việt cộng nằm ngay trên đỉnh đầu
ruồi của nòng súng và tại trung tâm lỗ chiếu môn của
bộ máy ngắm. Tân sực nhớ, khi cậu lãnh cây súng nầy
tại Kannack, anh trung sĩ quân cụ của tiểu đoàn đã nói
với cậu: “ Súng nầy chính tay tôi điều chỉnh tác xạ
rồi, chuẩn úy nhắm rồi thì cứ bóp cò, bảo đảm mười
phát trúng cả mười.”
Tân nhắc lại lầm thầm “mười
phát trúng cả mười”. Súng đã lên đạn từ sáng sau
khi xuống xe. Tân lẳng lặng mở khóa an toàn và đưa ngón
tay trỏ chạm vào cò súng. Tân bỗng nghe tim mình nhói lên
một cái và cảm thấy vật gì đó đè mạnh vào lồng
ngực làm cho cậu khó thở. Một tiếng nói nhỏ mà sắc
như dao xuyên qua màng nhĩ: “Đừng, đừng giết người,
không được giết người!”. Mắt cậu hoa lên nhưng rõ
ràng cái lưng trần vẫn ở yên trên đỉnh đầu ruồi
xuyên qua trung tâm lỗ chiếu môn của bộ máy ngắm. Tiếng
nói sắc lẻm vang lên một cách khẩn cấp trong đầu:
“Đừng giết, anh ta đã từng là đồng chí của nhà
ngươi! Đừng giết người, không được giết người!”
Bỗng dưng, Tân ghếch nòng súng
lên cao, bóp cò liền hai cái và la to:
- Việt cộng. Đó đó, Việt cộng
chạy đó.
Cái lưng trần phóng về phía
trước và biến mất trong khu vườn rậm rạp. Tân đứng
thẳng người nhìn vào nhưng không thấy gì cả. Hai người
lính của trung đội hấp tấp chạy đến:
- Việt cộng đâu chuẩn úy?
Tân đưa tay chỉ vào khu vườn:
- Đó, nó chạy vô đó.
- Nó có súng không?
- Không có súng nhưng có lựu
đạn. Tụi bây đừng vào nguy hiểm. Đợi tao báo với
đại đội trưởng bao vây mới được vào lục soát.
Tân quay sang trung sĩ Hy vừa mới
đến đứng cạnh:
- Anh Hy quay lui báo cáo với đại
đội trưởng và xin lệnh đi. Nhớ hỏi tình hình bên
cánh quân của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đi nhanh lên rồi
trở về ngay.
Mười phút sau, trung sĩ Hy quay
lại, thở hổn hển:
- Trung úy Bá bảo không bố trí
lục soát. Nó chạy mất rồi thì thôi. Ở đây rậm rạp
và có thể có nhiều hầm bí mật, phải mất cả ngày
chưa chắc tìm ra. Chúng ta còn phải càn quét thêm năm cây
số nữa rồi rút ra trước khi trời tối.
- Tiếng nổ khi nãy có phải là
do mìn hay không? Cánh quân giữa bị thiệt hại thế nào?
Trung úy có liên lạc được với tiểu đoàn không?
Trung sĩ Hy đáp lời:
- Có, trung úy đã liên lạc ngay.
Tụi nó giựt mìn. Mìn không gài mà bấm bằng điện.
Tiểu đoàn tịch thu được một đoạn dây điện rất
dài và một cục pin. Chúng nó đợi đại đội Hai qua rồi
mới cho nổ. Cũng may nó cho nổ hơi sớm, có lẽ vì nó
hoảng sợ. Nếu nó đợi thêm vài phút rồi châm ngòi thì
có lẽ gây thiệt hại nặng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn
rồi.
- Có ai bị thương hay chết
không?
- Chỉ có một binh nhất bị
thương ở chân mà thôi, hình như không nặng lắm. Tiểu
đoàn đang đưa người bị thương trở ra đường lộ.
Bây giờ tiếp tục đi. Trung úy bảo phải quan sát cẩn
thận hơn. Càng vào sâu càng nguy hiểm.
Tân nghe xong, thấy trong lòng ngổn
ngang cảm xúc. Cậu vừa tránh được trong gang tấc một
hành động giết người. Nhưng nếu quả mìn kia đã giết
chết vài người thì liệu lương tâm của cậu có yên ổn
hay không sau khi tha mạng cho một kẻ đã giết chết đồng
đội của mình?
Tân khoát tay cho cả trung đội
đứng lên và ra lệnh cho tiểu đội đi đầu tiến tới.
Đến quá trưa, cả tiểu đoàn
đến được tọa độ được chỉ định một cách an
toàn. Địa điểm đó là một khoảng đất trống trên bờ
một con rạch nhỏ nhưng khá sâu, hai bên bờ có những
bụi rậm um tùm. Tiểu đoàn dừng lại ăn trưa, nghỉ
ngơi chốc lát rồi rút lui trở về vị trí xuất phát
trên mặt lộ đá. Tại đây, đoàn xe chờ sẵn, trả tiểu
đoàn lại vị trí đóng quân cũ.
Tiểu đoàn được nghỉ ngơi một
ngày rồi nhận được lệnh hành quân. Từ sáng sớm, xe
đến chở tiểu đoàn ra bờ sông lớn, nơi đã có sẵn
nhiều tàu đổ bộ nằm chờ sát bờ. Tất cả nhanh chóng
lên tàu, ngồi xuống sàn, chung quanh có những tấm bửng
sắt bảo vệ, ngăn đạn từ trên bờ bắn xuống. Tàu
bắt đầu chạy được một đoạn thì vào nhánh sông nhỏ
hơn và tiếp tục xuyên qua những khu vườn um tùm và
những cánh đồng mênh mông vắng vẻ.
Xa xa xuất hiện một chòi canh
trông thực lạc lỏng và cô đơn, bên trên những bụi
cây lúp xúp. Trung úy Bá thét to:
- Anh em chuẩn bị đổ bộ. Tư
thế tác chiến. Coi chừng có Việt cộng ẩn núp trên đó.
Những chiếc tàu quay ngang, lủi
thẳng vào bờ. Các bửng ở mũi tàu hạ nhanh xuống, lính
ào ào phóng lên, ngồi hay quỳ xuống bờ đất ẩm, căng
mắt nhìn vào đám cây rậm rạp phía trước.
Một lúc sau, thấy yên tĩnh, Tân
đứng dậy nhìn quanh. Cách nơi đổ bộ chưa đầy hai
trăm mét là một cái đồn be bé. Một dãy nhà lá lụp
xụp ẩn sau bờ đất khá cao. Vài người tách khỏi toán
vừa đổ bộ tiến về phía đồn. Vài phút sau, Trung úy
Bá, một tay cầm súng, một tay cầm bản đồ từ trong
đồn tất tả đi ra, đến nói với Tân:
- Anh cho trung đội ăn trưa đi.
Trong vòng nửa giờ nữa chúng ta tiến quân và có lẽ sẽ
di chuyển liên tục trong sình lầy, không có chỗ khô ráo
để nghỉ ngơi và dùng bữa đâu.
Tân chỉ cái đồn và nói:
- Tôi tưởng mình sẽ vào nghỉ
trong đồn đó chứ.
- Không đâu. Tiểu đoàn đến
đây giải vây cho đồn và tiếp tục tảo thanh để mở
rộng vòng đai an ninh cho nó.
- Giải vây cho đồn? Tôi có thấy
tên Việt cộng nào bao vây nó đâu.
- Bị Việt cộng bao vây gần một
tháng rồi. Đồn nầy do hai tiểu đội bảo an trấn đóng,
mục đích là bảo vệ làng xóm bên trong. Tôi, đại úy
An, chuẩn úy Bính và vài binh sĩ vừa vào trong đồn để
thăm viếng và hỏi tin tức. Mọi người trong đó đều
hết sức mừng rỡ, lính dẫn cả vợ con ra chào đón
chúng tôi. Cậu thiếu úy trưởng đồn kể rằng vùng nầy
trù phú vui vẻ lắm. Con sông nầy thường tấp nập ghe
thuyền lên xã, lên quận. Từ gần hai tháng nay, Việt
cộng về bao vây đồn, bắt dân chúng trong các ấp đóng
thuế bằng tiền bạc hay lúa gạo, có nhà bị truy thu
luôn một vài năm về trước nên dân bỏ nhà bỏ vườn,
đi đến sống ở vùng an ninh hơn. Lính trong đồn không
dám ra ngoài đánh đuổi Việt cộng để bảo vệ cho dân
vì không biết lực lượng bao vây nhiều hay ít. Có lẽ,
chúng nó khá mạnh, có cả súng cối, thỉnh thoảng rót
đạn vào đồn. Chúng bao vây khắp ba mặt chung quanh đồn.
Hễ lính bước ra cổng hay trèo lên chòi canh là lập tức
bị nhắm bắn. Cũng may là chưa ai bị trúng đạn, nhưng
lương thực cạn dần, đời sống thiếu thốn khổ sở
lắm. Lính trong đồn khổ, dân chúng bên ngoài cũng chẳng
sung sướng gì. Cái trò “giải phóng” của Việt cộng
ở đâu cũng thế cả.
Tân thắc mắc:
- Nhưng mình đổ bộ lên đây
chẳng thấy “ông giải phóng” nào cả.
- Mới chiều hôm qua, chúng còn
bắn mấy phát vào đồn, thế mà sáng nay rút đi hết.
Chắc chắn chúng đã được tin mình vào giải vây. Tình
báo Việt cộng dễ sợ thực, vừa chính xác, vừa nhanh
chóng.
- Đây thuộc về vùng nào? Còn
trong tỉnh Kiến hòa không?
- Vẫn còn. Vùng nầy thuộc về
xã Hương mỹ. Theo bản đồ, chúng ta còn cách trụ sở
xã hơn bốn cây số nữa. Tiểu đoàn sẽ tiến quân về
hướng đó để tái lập sự liên lạc giữa đồn nầy
với xã. Sau đó mình tảo thanh một vòng quanh ấp chiến
lược rồi mới dừng lại đóng quân qua đêm. Chút nữa
chúng ta tiến quân bằng hai mũi, đại đội mình đi bên
phải, bên trái là đại đội Hai, bộ chỉ huy tiểu đoàn
và phần còn lại đi phía sau. Nếu chạm địch phía trước
hay bên phải thì cho lính nổ súng cho chúng nó chạy đi
và không truy kích. Nếu địch xuất hiện bên trái thì
lập tức cùng đại đội Hai siết chặt vòng vây để
tiêu diệt. Từ đây mình đi về hướng đông nam, lấy
cây cao đằng kia làm chuẩn.
- Đại đội vẫn tiến theo hàng
một phải không?
-Đúng vậy. Trung đội anh vẫn
đi đầu. Nghe anh thiếu úy trưởng dồn nói ruộng ở đây
khá sâu, lớp bùn bên dưới cũng dày lắm nên buộc phải
đi trên bờ ruộng. Như thế là rất nguy hiểm vì mìn bẫy
của chúng. Anh dặn mấy cậu khinh binh đi đầu phải cẩn
thận từng bước một. Lính trong đồn sẽ cho chúng ta
vài que nhọn để xom phía trước, đề phòng hầm chông.
Chỗ nào có cỏ rậm và lá khô thì phải xem xét cẩn
thận, đề phòng mìn bên dưới. Cần quan sát thực kỹ.
Gặp chỗ nào có dấu đất mới đào lên thì phải tránh.
Thấy sợi dây căng ngang qua đường thì phải đánh dấu
và︠bước ngang qua không được động đến. Anh nhớ
nhắc nhở lính nhé.
- Vâng, tôi sẽ đi ngay sau hai cậu
mở đường để nhắc nhở chúng nó.
- Được. Có anh lo việc mở
đường thì tôi cũng an tâm. Thôi anh ăn cơm trưa với
trung đội đi. Ăn xong là chúng ta khởi hành ngay, cố gắng
đi hết đoạn đường cho sớm để tìm chỗ nghỉ qua
đêm.
Vừa nuốt xong vắt cơm, Tân được
lệnh lên đường. Tân đi sau hai binh sĩ. Cả ba quan sát
rất kỹ từng bụi rậm phía trước, nhìn kỹ mặt đất
của con đường trước khi đặt chân vào. Bầu trời phủ
đầy mây trắng xóa, mặt trời ẩn sau làn mây mỏng rọi
ánh sáng dìu dịu xuống mặt đất; từng cơn gió nhẹ
thổi qua, gây nên tiếng xào xạc trong những những khu
vườn và tạo nên những làn sóng nhấp nhô trên những
cánh đồng lúa xanh mơn mởn. Phong cảnh đồng quê miền
Nam Việt Nam xinh đẹp và hữu tình như một bức tranh
nhưng không làm giảm được chút nào sự căng thẳng
trong đầu của những người lính chiến đang im lặng
tiến từng bước một.
Cuối cùng, khi chiều đến, tiểu
đoàn cũng vượt qua hết quãng đường nguy hiểm để đến
địa điểm dừng quân.
Đây là một ngôi làng nho nhỏ
dễ thương, được bao bọc trong một vòng rào ấp chiến
lược. Rải rác hai bên con đường làng ngoằn ngoèo,
những mái lá cũ kỹ đứng im lìm trong những khu vườn
xanh tươi.
Bố trí chỗ ở cho trung đội
đội mình xong, thấy trời còn sáng, Tân tìm sang trung đội
Ba để gặp Bính. Vừa qua khỏi một khúc quanh, Tân nghe
có tiếng đàn dìu dặt. Cậu biết ngay đó là tiếng đàn
của Bính.
Trên cái sân đất sạch sẽ của
một ngôi nhà nhỏ, Bính đang ngồi trên một khúc cây,
tay ôm đàn chơi một khúc nhạc đồng quê, cạnh đó ba
đứa trẻ đứng nghe một cách vui thích. Tân đứng im
nhìn và mỉm cười. Bính đàn xong khúc nhạc, ngước lên,
gọi:
- Anh Tân, đến đây chơi. Phong
cảnh đồng quê nơi đây làm em hứng thú lắm.
Bính đứng dậy, khoát tay một
vòng rồi nói tiếp:
- Khu vườn nầy, mái nhà nầy,
con đường làng nầy. Nếu không có chiến tranh, được
về đây sống cùng những người dân hiền lành chất
phác thì còn gì vui thích hơn phải không anh?
Tân cười:
- Anh nhớ lúc ngồi trên bãi biển
Tuy hòa, em ước mơ đến khi hòa bình về cất nhà sống
trên bờ biển, rồi bây giờ về đây, em lại mơ ước
sống ở đồng quê.
Bính cười theo:
- Đất nước mình chỗ nào cũng
xinh đẹp, cũng làm cho em say mê. Có hòa bình rồi thì
sống nơi nào cũng thích thú.
Bính chậc lưỡi rồi nói tiếp:
- Còn bây giờ, thôn quê mình
nhiều nơi như địa ngục của trần gian. Khi nãy, anh có
vô trong đồn, nơi mình đổ bộ lên bờ không?
- Không, anh không vào. Nghe trung
úy Bá nói trong đó người ta sống cực khổ lắm.
- Vâng, thực là tội nghiệp.
Binh sĩ và các gia đình trong đó bị vây hãm suốt hơn
một tháng trời. Gần như đêm nào, chúng cũng bắn vào
một lúc rồi vác loa gọi đầu hàng.
- Trong đồn không phản ứng gì
cả hay sao?
- Có chứ. Lính bắn vào chỗ có
tiếng loa phát ra để đáp lại lời kêu gọi đầu hàng
của chúng, nhưng không dám ra. Gần hai tháng rồi, hôm
nay, cửa đồn mới mở toang để đón mình. Thực là cảm
động khi thấy toàn thể quân nhân và gia đình của họ
mừng rỡ lúc anh em mình bước vào đồn. Có một ông
già, sống cùng con trai là lính trong đó đến cầm tay em
và nói: “Đây nầy, quân giải phóng thiệt rồi đây.
Cái bọn ngoài kia đêm nào cũng xưng là quân giải phóng
rồi bắn vào đồn, thiệt là chướng tai. Đó, mấy em
nhìn bên ngoài xem, dân bỏ đi hết chớ có chịu nổi với
cái quân tự xưng giải phóng đó đâu”. Trong khi đại
úy An bàn bạc với thiếu úy trưởng đồn, em và trung úy
Bá đi vào xem chỗ ở của gia đình binh sĩ, chật chội
và thiếu thốn lắm. Tội nhất là những đứa bé theo
cha vào sống ở đây. Anh trưởng đồn cho biết các em
vẫn đi học ở trường tiểu học trên xã, nhưng từ khi
Việt cộng về đây thì bị nhốt trong nầy luôn, ló ra
ngoài để đi học thì Việt cộng cũng không tha. Nếu
mình về đây lập lại được an ninh cho những đứa bé
nầy lại ngày ngày cắp sách đến trường, thì em thấy
công sức của mình lặn lội vào đây cũng không uổng
phí.
Tân nói:
- Tại sao lại để cho vùng nầy
mất an ninh và đồn bị bao vây cả hơn một tháng ròng
rã như thế. Chi khu có thể xin pháo binh hoặc phi cơ đến
đuổi họ đi chứ.
- Thiếu úy trưởng đồn bảo
rằng đồn nầy nằm trong vòng tác xạ của đại bác 155
ly ở chi khu. Tuy nhiên, vùng nầy mới bị mất an ninh nên
chưa được liệt vào cùng oanh kích tự do; pháo binh và
phi cơ chỉ yểm trợ khi nào đồn bót bị chúng nó tấn
công mạnh và có nguy cơ thất thủ. Hiện nay, lực lượng
của chúng nó không biết ít hay nhiều lại rải ra sống
chung với dân. Pháo binh và phi cơ không thể tiêu diệt
chúng mà không làm cho dân lành chết oan. Cái trò của
Việt cộng núp trong dân và dùng dân làm bia đỡ đạn,
quả thực gây khó khăn cho quân đội mình rất nhiều.
Bính thở dài và nói tiếp:
- Mình hành quân qua đây có thể
xua đuổi Việt cộng để cho dân chúng làm ăn và sinh
sống nhưng khi mình rút đi rồi, em e rằng chỉ vài ngày
sau chúng nó trở về thì tình hình lại xấu như cũ. Quân
đội chính qui phải lưu động rày đây mai đó. Lực
lượng địa phương thì quá mỏng và quá yếu, không đủ
sức bảo vệ lãnh thổ. Cuộc chiến tranh du kích và phá
hoại nầy của Việt cộng thực là một tai họa khó dẹp
được.
Bính ngừng nói, đăm chiêu nhìn
mấy cánh cò trắng muốt bay trên đồng lúa. Tân cố gắng
xua đi nỗi bi quan của bạn:
- Chúng ta hãy kiên nhẫn. Không
lẽ cứ đánh nhau mãi sao? Trong lịch sử nhân loại, có
cuộc chiến tranh nào là vô tận đâu. Rồi cũng có lúc
phải chấm dứt để dân mình được sống trong hòa bình
và hạnh phúc.
Bính cười một cách gượng gạo:
- Em mong muốn sớm thấy hoà bình
thực sự. Tất cả những người lính chúng mình đều
mong muốn hòa bình. Không có gì vừa tha thiết vừa có
tính bi thảm bằng hi vọng hòa bình của những con người
hằng ngày phải vác súng lang thang ngoài chiến địa. Tại
sao hình ảnh đó không làm lay chuyển được con tim của
những người gây ra cuộc chiến tranh khốc liệt nầy
nhỉ?
Tân đứng dậy nói:
- Thôi, em đừng suy tư quá nhiều
thêm nặng nề. Cứ vui vẻ chấp nhận số phận hẩm hiu
của mình và của cả dân tộc mình. Em nghỉ đi, anh về
sắp đặt các phiên gác cho trung đội.
Nói xong, cậu về nơi đóng quân
của mình. Hôm nay đại đội phải đặt nhiều vọng gác
dọc theo bờ rào ấp chiến lược.
Đêm xuống dần, trời đầy mây,
ánh trăng sáng lờ mờ. Tân căng võng ở hiên nhà. Sau một
ngày mệt nhọc, cậu ngủ thiếp đi nhanh chóng.
Nửa đêm, Tân giật mình thức
giấc vì một tiếng súng nổ. Cậu ngồi dậy, lắng tai
nghe. Lại một tiếng súng nữa. Có bóng người đi đến.
Tân hỏi nhỏ:
- Ai đó?
- Tôi, trung sĩ Hy đây. Có hai
tiếng súng, chuẩn úy có nghe không?
- Có, tôi nghe rồi. Có nên báo
động để lính ra bố trí ngoài vòng rào ấp chiến lược
không?
Hy trả lời:
- Không, chưa cần, tiếng súng
nghe chát chúa như thế là ngoài bắn vào. Cứ để cho anh
em ngủ để giữ gìn sức khoẻ. Nếu chúng đã tập trung
lực lượng và dự định tấn công thì không bao giờ lên
tiếng như thế để gọi mình thức dậy. Tôi nghĩ rằng
một tên du kích nào đó đến quấy để phá giấc ngủ
của anh em mình. Nếu cứ nghe súng là báo động, thế là
mắc mưu nó rồi. Nhiều nơi, chúng quấy phá vài đêm cho
lính mình mòn mỏi rồi sau đó mới tấn công. Nó bắn
vào mà mình cứ im lặng thì nhất định nó phải e sợ
mình.
- Theo trung sĩ, chừng nào mình
mới phải báo động?
- Khi nào có tiếng súng do lính
gác bắn ra. Lúc đó, chắc chắn, lính mình đã trông thấy
Việt cộng đến gần rồi.
Tân bước xuống võng, nói:
- Tôi và trung sĩ đi quanh một
vòng để kiểm tra các vọng gác. Anh có mang súng theo đó
không?
- Có chứ, ban đêm lúc nào súng
cũng dính liền với người. Tôi đang bắt đầu đi tuần
tra đây. Có cả chuẩn úy đi nữa thì càng hay.
Hai người lò mò đi trong đêm
tối. Mọi nơi, lính đều gác một cách nghiêm túc. Tân
hài lòng trở về, leo lên võng ngủ tới sáng.
Ba ngày sau đó, tiểu đoàn tiếp
tục hành quân qua nhiều thôn xóm nhưng không hề gặp một
sự kháng cự nào. Ngày truy lùng, tối đến rút vào ấp
chiến lược để đóng quân. Mỗi buổi chiều, sau khi
dừng quân, Bính lại ôm đàn vừa gảy vừa ca hát trong
khi các sĩ quan khác uống trà và chuyện trò vui vẻ.
Đêm thứ ba, tiểu đoàn gọi
trung úy Bá đến nhận lệnh. Khi trở về, anh nói với
các sĩ quan trong đại đội:
- Theo tin tình báo mới nhất thì
ở đây Việt cộng có một đại đội địa phương quân
và hai trung đội dân quân du kích thoát ly. Chúng nó không
bao giờ dám đụng với quân chính quy của mình mà chỉ
theo dõi các đơn vị bảo an và dân vệ, lựa lúc sơ hở
để tấn công. Mấy hôm nay, mình đi truy lùng, chúng nó
đã thừa đêm tối vượt sông Cửu long qua địa phận
tỉnh Trà vinh rồi. Sáng mai, tiểu đoàn chấm dứt hành
quân, rút về chỗ cũ.
Trung úy ngừng một chút rồi nói
tiếp:
- Đại úy An cho biết toàn thể
sư đoàn đã vào Nam cả rồi. Bộ tư lệnh đóng tại Sa
đéc.
- Còn trung đoàn của mình?
- Tại Cao lãnh. Trung đoàn có
nhiệm vụ chế ngự vùng Đồng tháp mười. Nhiệm vụ
nặng nề lắm đó.
Nghe nói đến Đồng tháp mười,
bỗng nhiên Tân cảm thấy nôn nao. Cậu tiếp tục hỏi:
- Tiểu đoàn mình có trở lại
với trung đoàn không?
- Tôi không biết. Tôi cũng mong
trở về với trung đoàn nhưng không hi vọng lắm. Hôm nọ
đại úy An, tiểu đoàn trưởng, có nói rằng bộ tư lệnh
sư đoàn thích tiểu đoàn mình nên không có ý trả lại
cho trung đoàn. Thôi, cuộc đời lính chiến thì ở đâu
cũng thế. Về với trung đoàn, lặn lội trong Đồng tháp
mười thì cũng chẳng vui sướng gì.
Tân trở về. Đêm đó cậu nằm
thao thức mãi. Cái tên Đồng tháp mười mà trung úy Bá
nói đến gợi cho cậu biết bao kỷ niệm của thời thơ
trẻ. Cậu nằm nhớ lại thời gian sống trong nông trường
tự túc của tỉnh đoàn Mỹ tho, mãi đến khuya mới chợp
mắt.
Hôm sau, đoàn tàu đến rước
tiểu đoàn về nơi đóng quân gần thị xã Bến tre.
*
* *
Sau hai ngày nghỉ dưỡng sức,
tiểu đoàn được lệnh lên đường. Trọn buổi sáng,
đoàn xe chở tất cả vượt qua đoạn đường dài với
hai lần qua sông rộng bằng phà.
Tiểu đoàn dừng lại nghỉ qua
đêm trong một vùng dân cư, cạnh quốc lộ. Thu xếp chỗ
ở cho lính xong, các trung đội trưởng được trung úy Bá
gọi đến.
Tân bước vào một nhà ngói khá
to và khang trang, gặp trung úy Bá đang ngồi trên chiếc
bàn ở gian giữa của ngôi nhà, ngay phía trước một tấm
màn đỏ dùng che nơi thờ phượng. Tân biết đó là nơi
trang trọng nhất mà dân quê dùng làm nơi tiếp khách quí.
Mặt bàn trải tấm vải nhựa màu sắc sặc sỡ, trên có
chiếc khay gỗ đựng một bình trà và nhiều chén tách.
Tân bước vào, ngồi xuống ghế
trước mặt trung úy Bá. Thấy cậu nhìn quanh gian nhà,
trung úy nói:
- Dân vùng nầy thực tốt. Khi
tiểu đoàn trưởng đi cùng chính quyền địa phương đến
xin cho mình đóng quân để truy lùng địch thì nhà nào
cũng tỏ ra sốt sắng. Biết tôi là đại đội trưởng,
ông chủ nhà nầy nhất định mời tôi vào ở và giao
luôn nhà lớn nầy cho mình làm việc và hội họp. Bà chủ
lại còn pha cho anh em mình một bình trà rồi xách nón,
nói là đi chợ để mua bánh về đãi sĩ quan chúng mình.
Anh thấy chưa, dân trong miền Nam quí sĩ quan chính qui lắm.
Để tôi hỏi thăm trong xóm nầy có cô nào đẹp mà chưa
chồng thì tôi làm mai cho anh và chú Bính, đồng ý không?
Tân cười ha hả:
- Được lắm chứ, trung úy xúc
tiến nhanh lên đi. Nhưng rồi hành quân đến nơi khác
cũng gặp dân tử tế như thế nầy thì sao?
- Thì cứ tiếp tục. Mỗi nơi
lập một hậu cứ thì cuộc đời lính chiến càng thêm
lý thú.
Bá nói xong cũng cười ha hả.
Từ ngoài sân, hai chuẩn úy Tám
và Bính bước vào. Tám hỏi:
- Có chuyện gì vui làm hai anh
cười to vậy. Mới bước vào ngõ đã nghe tiếng cười
rồi.
- Vào đây, nhiều chuyện vui lắm
nhưng hãy nhận lệnh hành quân trước đã.
- Còn trung đội trưởng vũ khí
nặng đâu?
- Anh ấy đang cho lính chùi dầu
lại cây đại liên và súng cối. Hành quân trong Nam lúc
nào cũng lội nước nên súng dễ bị rỉ sét. Các anh nên
nhắc nhở và kiểm tra lính lau chùi vũ khí của mình.
Đụng trận mà kẹt đạn là kể như chết. Bây giờ, tôi
xin phổ biến lệnh hành quân. Ngày mai chúng ta bắt đầu
lên đường rất sớm. Các anh nên cho trung đội nấu cơm
vào buổi tối rồi vắt lại để ăn buổi sáng và trưa
mai.
Bính hỏi:
- Vùng nầy thuộc về tỉnh nào?
- Tỉnh Kiến phong. Nơi đây cách
thành phố Sa đéc mười cây số.
- À, hôm nọ anh có nói bộ tư
lệnh sư đoàn đóng tại thành phố nầy phải không?
Trung úy gật đầu:
- Đúng rồi. Ngày mai chúng ta
hành quân với mục đích mở rộng vòng đai an ninh cho bộ
tư lệnh. Chúng ta sẽ truy lùng để tiêu diệt và xua đuổi
Việt cộng đi cho xa ngoài tầm phóng hỏa tiễn và súng
cối của chúng vào bộ tư lệnh sư đoàn.
- Điểm xuất phát của cuộc
hành quân có gần đây không?
- Ngay tại nơi nầy. Chúng ta sẽ
đi cặp theo bờ sông nhỏ, tiến sâu vào độ sáu kilomét
rồi đổi hướng đi theo một con rạch và bọc ra lộ tại
một điểm cách đây khoảng tám ki lô mét.
- Thế là ngày mai chúng ta phải
hành quân trên đoạn đường dài bao nhiêu cây số?
- Khoảng mười lăm cây theo bản
đồ. Với khoảng đường dài như thế, chúng ta không thể
băng đồng được vì đang cuối mùa mưa, ruộng nước
ngập khá sâu. Đại đội sẽ đi hàng một dài theo bờ
sông. Trung đội Hai của anh Tân vẫn đi đầu mở đường,
trung đội Ba bọc hậu. Con đường nầy dân đang dùng
hằng ngày nên ít sợ mìn bẫy. Cũng không sợ phục kích
vì chúng ta được sự yểm trợ của pháo binh sư đoàn
Bảy bắn rất chính xác. Ngoài ra phi cơ của quân đoàn
Bốn tại Cần thơ cũng sẵn sàng cất cánh khi có yêu cầu
không trợ. Điều đáng ngại nhất ở đây là du kích bắn
sẻ nên đi thì phải quan sát thực kỹ các khu vườn, các
gian nhà hai bên đường.
Trung úy Bá lắc đầu nói tiếp:
- Có lệnh thì phải đi chứ tôi
thấy rồi chẳng có kết quả gì, cũng như các cuộc hành
quân ở Bến tre vừa rồi.
Bính gật đầu đồng tình:
- Chúng ta đưa quân về đây một
cách rầm rộ, mọi người đều biết mình sắp hành
quân, làm sao qua được con mắt tình báo của Việt cộng.
- Không phải chỉ riêng sự tập
trung của tiểu đoàn mình ở đây để lộ kế hoạch
hành quân. Chiều nay pháo binh sư đoàn Bảy cũng đã kéo
đại bác về đặt trên một sân vận động cách đây
một cây số. Đứa con nít trong vùng nầy cũng biết là
để yểm trợ hành quân thì Việt cộng không biết sao
được. Chúng ta có thể chuẩn bị kín đáo hơn nhưng
không thực hiện.
- Tại sao?
- Đặc điểm của chiến trường
đồng bằng là những trận đánh luôn luôn nổ ra trong
vùng dân cư đang sinh sống và người dân vô tội bị kẹt
giữa hai lằn đạn. Lính của hai bên biết ẩn núp còn
dân thì chẳng có kiến thức quân sự cho nên phải chịu
nhiều thương vong. Chúng ta hành quân cốt yếu để bảo
vệ dân nên cố tránh gây thiệt hại cho dân. Vì vậy,
trong những cuộc hành quân lớn, chúng ta thường chịu
bất lợi về quân sự vì không giữ kín ý định hành
quân, có khi còn bắt loa trên phi cơ bay qua bay về kêu gọi
dân rời vị trí sắp hành quân nữa.
Tân cãi lại:
- Tôi thấy trong các cuộc hành
quân của chúng ta ở Bến tre, mình vẫn gặp dân chúng
sinh sống bình thường, chứ họ đâu có bỏ đi nơi khác.
Trung úy Bá giải thích:
- Đó là những cuộc hành quân
nhỏ chỉ với mục đích lục soát, khó xảy ra đụng độ
lớn. Mặc khác, bây giờ ở vài vùng, dân mình khổ quá
đổ lỳ đối với súng đạn. Họ không bỏ đi lánh nạn
hết đâu. Chỉ có người già và trẻ con dùng ghe xuồng
ra đi với một ít đồ đạc, người lớn ở lại tại
chỗ để giữ nhà và chịu đựng. Cũng có nơi, không có
ai chạy được vì bị Việt cộng giữ lại làm bia đỡ
đạn để mình không nỡ tấn công mạnh. Nếu ngày mai,
dân thoát được sự ngăn cản của Việt cộng mà chạy
đến chỗ an toàn thì các anh cứ để cho họ đi nhưng
phải đề phòng Việt cộng núp theo dân đánh úp mình.
Nhớ rằng Việt cộng không từ bỏ bất cứ cơ hội nào.
Dân càng chết nhiều thì họ càng mạnh miệng rêu rao
tuyên truyền.
Bính lắc đầu:
- Dùng thường dân làm bia đỡ
đạn, thực là hết sức tàn nhẫn, chỉ những kẻ lạc
hậu và man rợ mới áp dụng mà thôi.
Trung úy Bá tỏ vẻ đồng tình:
- Trên thế giới cũng thế, chỉ
có bọn người lạc hậu mới dùng biện pháp đó. Xã hội
văn minh coi trọng sinh mạng người dân nên không bao giờ
làm chuyện tàn nhẫn đó. Hơn nữa, theo quy chế của Liên
hiệp quốc về chiến tranh thì điều nầy bị cấm.
Chuẩn úy Tám cười gằn:
- Việt cộng đâu có kể gì đến
quy chế của Liên hiệp quốc.
Trung úy Bá kết thúc buổi họp:
- Bây giờ các anh về cho trung
đội mình chuẩn bị đi. Nhớ đêm nay canh gác cẩn thận.
Du kích có thể đến quấy phá cho chúng ta mất ngủ để
làm giảm bớt sức lực dành cho cuộc hành quân ngày mai.
Hôm sau, trời vừa rựng sáng,
mọi người đều chuẩn bị xong để lên đường. Lao xao
có nhiều tiếng người nói từ xóm trong vọng ra. Tân
đang dỏng tai nghe thì một người lính chạy vào gọi to:
- Chuẩn úy Tân. Chuẩn úy ra giải
quyết nhanh một việc quan trọng.
- Chuyện gì vậy?
- Em và thằng Cán gác trên bờ
kinh, trời chưa sáng đã thấy có nhiều ghe của dân đốt
đuốc từ bên trong chèo ra. Họ bảo, hôm nay mình hành
quân vào nên họ ra ngoài lộ để lánh nạn. Tụi em chận
lại không cho đi, bảo phải đợi để em vào báo cáo cho
cấp chỉ huy.
Tân vỗ vai thằng lính:
- Được rồi, chú về nơi gác
đi, tôi ra ngay bây giờ. Mình cho họ đi qua nhưng phải
quan sát cho kỹ, coi chừng Việt cộng trà trộn, tung lựu
đạn vào nơi đóng quân của mình.
Tân theo chú lính ra bờ sông.
Trong lòng sông nhỏ, cách vọng gác khoảng một trăm mét,
có đến gần hai mươi chiếc ghe chở đầy đồ đạc và
người. Trời đã sáng hẳn, Tân thấy toàn là đàn bà và
trẻ con. Cậu khoát tay; những người trên ghe mừng rỡ,
khoắng ngay mái chèo xuống nước cho ghe tiến tới. Từ
xóm trong, nhiều ghe xuồng khác vội vã chèo ra.
Tân trở vào và nhận được
lệnh lên đường. Mọi người khoác ba lô lên vai, súng
cầm tay, lần lượt ra khỏi điểm đóng quân.
Đường dễ đi vì bằng phẳng
và khô ráo dù mùa mưa chưa chấm dứt. Tuy nhiên càng tiến
sâu vào, tiểu đoàn càng đi chậm lại, một phần vì
phải quan sát cẩn thận, một phần vì có nhiều cầu khỉ
làm bằng một cây nhỏ bắt ngang qua con mương rộng.
Làng xóm ở đây khá trù phú.
Dân chúng sống dọc theo hai bên bờ sông, trong những căn
nhà lá khang trang và sáng sủa. Chung quanh mỗi nhà đều
có vườn cây ăn trái, sau vườn là đồng lúa mênh mông,
đám thì mơn mởn xanh tươi, đám thì bắt đầu úa vàng
với những bông lúa nặng hạt.
Nhà nào cũng mở toang cửa, nhìn
vào là thấy ngay một người lớn tuổi ngồi im lặng
trông ra ngoài, dáng điệu như muốn chứng tỏ cho người
ngoài biết đây là nhà dân vô tội, không hề giấu giếm
thứ gì phạm pháp. Tân dừng bước trước một gian nhà,
phía trước có một liếp hoa cúc vàng rực rỡ. Cậu ngắm
những đóa hoa, cảm thấy niềm vui dậy lên trong lòng.
Một người đàn ông đang ngồi bên thềm vội đứng dậy
cúi chào thực lễ phép, miệng mỉm cười, hiện rõ sự
cố gắng để gây cảm tình. Tân chợt thấy rõ tâm trạng
của người dân yếu đuối và đáng thương trong khung
cảnh đầy bạo lực của chiến tranh.
Cậu quay lại định bước tới
thì một binh sĩ đang đi phía trước quày quả quay trở
lại, hỏi:
- Chuẩn úy, tiểu đội Một đi
đến một ngã ba, phía trước có con rạch chắn ngang. Đi
thẳng hay rẽ phải?
- Cho nghỉ một chút rồi rẽ
phải đi bọc ra lộ.
Tân vén tay áo nhìn đồng hồ,
nghĩ thầm:
- Đi được non sáu cây số rồi.
Còn độ chín cây số nữa. Có thể kết thúc cuộc hành
quân vào xế chiều.
Sau khi nghỉ ngơi một lúc, Tân
đốc thúc trung đội lên đường. Một giờ đồng hồ
nữa trôi qua, mọi người thấm mệt. Tân uể oải bước
qua một cây gỗ nhỏ bắt qua một con mương, đi thêm vài
mươi bước rồi định dừng lại để xin lệnh dừng
quân ăn trưa.
“Ầm”, một tiếng nổ khá lớn
ngay sau lưng cậu. Tân vội ngồi thụp xuống và quay đầu
nhìn lui. Qua làn khói mỏng, cậu thấy một thân người
nằm dài trên mặt đất rên la đau đớn. Cái thân cây
nho nhỏ dùng làm cầu khỉ văng tuốt xuống nước. Có
tiếng la:
- Chuẩn úy ơi, thằng On bị mìn
gãy chân rồi.
Tân hét to, bảo lính bố trí, đề
phòng địch xung phong lên tấn công. Cậu đứng dậy quan
sát một vòng rồi lấy trớn phóng qua mương đến gần
người bị thương. Binh nhì On nằm dài trên mặt đất,
mặt nhăn nhó vì đau đớn. Hạ sĩ Bi đang ngồi bên cạnh:
- Để em coi, băng bó cho nó.
Tân ngồi xuống kế bên, hỏi:
- Vết thương thế nào?
Hạ sị Bi trả lời:
- Chỗ bị thương không chảy
máu. Có thể bàn chân và gót chân bị chấn động bên
trong. Cũng may quả mìn nhỏ, có lẽ là thứ “đạp lôi”
tự tạo nên vết thương không nặng lắm. Quả mìn gài
ngay bên dưới cây gỗ làm cầu khỉ nên khi nổ làm cây
nầy bật vào chân gây chấn động bên trong.
Tân nhìn cái lỗ do sức nổ tạo
ra ở mé mương:
- Tại sao cả trung đội Hai đã
đi qua, rồi tôi là người cuối cùng bước lên đó mà
không nổ?
- Có lẽ quả mìn được chôn
hơi sâu nên, lúc đầu, ngòi nổ còn cách cây gỗ một
khoảng ngắn. Nhiều người đạp lên, đầu cây lún dần
xuống, đến phiên thằng On thì phát nổ. Thằng Việt
cộng nầy rất khôn. Nó làm như thế là không muốn cho
mìn nổ ngay đứa đầu tiên thường là binh sĩ mà nổ ở
khoảng giữa, hi vọng trúng cấp chỉ huy của chúng ta.
- Tân vỗ nhẹ vào mặt thằng
On:
- Còn đau lắm không?
Nó gật đầu, mặt tiếp tục
nhăn nhó.
Hạ sĩ Bi nói:
- Đau lắm chứ. Tuy không chảy
máu nhưng có thể gãy xương và đứt gân bên trong. Bây
giờ phải bó bàn chân cho chặt rồi xin phương tiện tải
thương đưa về quân y viện.
- Được rồi, anh em dừng lại
bố trí cẩn thận. Tôi quay lui báo cáo và xin lệnh đại
đội trưởng.
Trung sĩ Hy dứng kế bên nói:
- Để tôi đi liên lạc. Chuẩn
úy hãy ở lại đây để chỉ huy trung đội. Chúng nó có
thể thừa lúc mình có người bị thương tấn công hay
phóng lựu đạn vào.
- Vâng, trung sĩ đi giúp rồi trở
về cho nhanh.
Hy vụt chạy đi, vài phút sau trở
lại nói trong hơi thở hổn hển:
- Trung úy bảo rằng bị thương
nhẹ như thế không thể xin phương tiện tải thương
được. Cũng không thể quay lui vì bộ chỉ huy hành quân
đã di chuyển sang điểm đến chứ không còn ở địa
điểm xuất phát nữa. Vì vậy, trung đội phải tự giải
quyết, đưa người bị thương đi theo cho đến khi ra lộ
sẽ có xe cứu thương chở về quân y viện.
Tân lấy tay vỗ trán:
- Gay go nhỉ.
Cậu quay sang hạ sĩ Bi, ra lệnh:
- Tiểu đội Hai lấy ra một cái
võng và hai người khiêng đi. Đồ đạc, súng ống của
ba người chia cho hai người khác mang.
Trung sĩ Hy cắt ngang:
- Không được đâu chuẩn úy.
Làm như thế là mất đi năm người chiến đấu. Đoạn
đường sắp tới chắc chắn nguy hiểm hơn đoạn vừa
qua, cần phải bảo toàn tối đa lực lượng chiến đấu.
Chuẩn úy nên tính cách khác đi.
Tân lại đập tay vào trán:
- Trung sĩ nói đúng. Phải có
phương cách khác.
Cậu quay mặt vào căn nhà gần
đó, thấy một người đàn ông đang đứng tựa cửa nhìn
ra. Cậu đưa tay vẫy gọi. Người nầy hoảng hốt bước
nhanh ra, mặt mày tái mét. Tân hỏi:
- Còn ai trong nhà nữa không?
- Dạ thưa không, chỉ có một
mình tôi. Nhưng không phải tôi làm việc nầy, xin quí ông
soi xét đừng bắt tội tôi.
Ông vừa nói với giọng run run
vừa đưa mắt nhìn người bị thương. Tân xua tay:
- Chuyện nầy không liên can gì
tới chú. Nhà kế bên có ai khoẻ mạnh nữa không?
- Dạ có, em rể tôi. Nhưng nó
hiền lắm, không làm gì mang tội đâu. Nó chỉ ở đây
làm ruộng như tôi vậy thôi. Sáng nay ra ruộng, nghe nói
có hành quân nên hai anh em rủ nhau về coi nhà. Mấy ông
hành quân xong thì chúng tôi lại ra ruộng chứ không dại
dột làm gì khác.
Tân tỏ ý bực mình:
- Đừng phân trần nữa, chúng
tôi không bắt tội các ông đâu. Đi gọi em rể chú ra
đây. Mang theo một cái đòn dài từ hai thước rưỡi đến
ba thước. Có hay không?
- Dạ có.
- Thế thì nhanh lên đi.
Người nông dân vụt chạy đi.
Vài phút sau, hai người trở ra với một cái đòn bằng
tre. Tân cho cột hai đầu võng vào đòn và bảo hai người
nông dân:
- Tôi nhờ hai chú khiêng người
lính bị thương nầy theo chúng tôi. Hai chú có bằng lòng
không?
- Dạ được, dạ được. Chúng
tôi xin khiêng đi. Chúng tôi quen đi trên đường nầy rồi.
Hai anh em tôi khiêng thì êm lắm, qua cầu khỉ cũng nhẹ
nhàng như đi trên đường bằng.
- Được, tốt lắm, thôi lên
đường.
Cuộc hành quân tiếp tục đến
bốn giờ chiều thì chấm dứt. Đích đến là một vùng
nằm sát lộ. Thằng On lập tức được đưa lên xe chở
về quân y viện Sa đéc. Hai người nông dân xếp võng lại
giao cho trung sĩ Hy và ngồi đợi bên vệ đường. Khi thấy
Tân đi đến, hai ông vội đứng dậy, dáng điệu khúm
núm, giọng nói run run:
- Dạ thưa, ra đến đây rồi,
bây giờ anh em tôi xin quý ông mở lượng từ bi cho chúng
tôi trở về nhà. Chúng tôi không hề nhúng tay vào cái
chuyện rủi ro vừa rồi của quý ông.
Tân nói:
- Được, xong việc rồi, anh em
chú sẽ về nhưng nghe tôi hỏi đây. Hai chú làm ruộng
được nhiều hay ít?
- Dạ mỗi đứa được hơn mười
công.
- Làm ruộng nhà xong, hai chú có
đi làm thuê cho người khác không?
- Dạ cũng có, để kiếm thêm
tiền chợ cho má sắp nhỏ.
- Mỗi ngày làm thuê được bao
nhiêu tiền?
- Dạ thường thì được năm
chục đồng.
Tân móc túi quần móc ra tờ bạc
một trăm đồng và nói:
- Đây, tiền công của hai chú.
Chúng tôi hết sức cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của
hai chú.
Hai người nông dân đứng há hốc
nhìn Tân một cách lạ lùng, như không tin lời nói của
Tân là thực lòng.
Người nông dân đưa trả tờ
bạc lại cho Tân, giọng ấp úng:
- Dạ thưa, dạ thưa….
Tân đỡ lời:
- Tôi là chuẩn úy trung đội
trưởng.
- Dạ thưa quan, tôi không dám lấy
tiền của quan đâu. Tôi không ngờ, tôi không ngờ.
Tân nhíu mày:
- Chú không ngờ cái gì? Không
ngờ tôi trả quá ít tiền phải không? Tôi phải trả cho
hai chú bao nhiêu thì vừa phải?
Ông nông dân xua cả hai tay, hít
vào một hơi dài, cố lấy giọng bình tĩnh:
- Dạ không phải chê ít đâu.
Khi nãy mìn nổ ngay trước nhà tôi, thấy có người ngã
xuống thì tôi đã cầu khẩn đức Quan thế âm cứu mạng
cho gia đình tôi. Khi quan gọi tôi ra thì tôi tưởng tai
nạn tới rồi nên bủn rủn tay chân. Tôi chắc thế nào
cũng bị đánh đập để tra khảo cho ra cái kẻ gài mìn
rồi đi ở tù ít nhất vài năm, vợ con ở nhà sẽ nheo
nhóc. Tôi không ngờ gặp quan nhân đức, từ bi. Anh em tôi
xin đội ơn và xin trở về, không dám nhận tiền của
quan đâu.
Tân vừa cảm động, vừa buồn
cười. Cậu giả bộ nghiêm nét mặt:
- Hai chú phải nhận món tiền
công nầy vì mất nguyên một ngày làm việc hôm nay. Còn
nếu không nhận thì phải khiêng người bị thương trả
lại chỗ cũ cho tôi.
Câu nói khôi hài làm mọi người
chung quanh bật cười. Tân nhét tờ bạc vào túi ông nông
dân và nói:
- Thôi hai chú đừng từ chối
nữa mất thì giờ, chúng tôi sắp phải lên xe rồi. Nên
nhớ sĩ quan chúng tôi rất sòng phẳng với dân chúng. Hai
chú đã đổ mồ hôi giúp chúng tôi thì đương nhiên được
đền bù công khó nhọc, đó là lẽ công bình.
- Dạ dạ, chúng tôi xin nhận và
không bao giờ chúng tôi quên lòng tốt của quan và mấy
anh em ở đây. Cầu Trời Phật phù hộ cho quan và mấy
anh em.
- Cám ơn hai chú, thôi xin giã từ
nhé.
Tân đứng im nhìn theo hai người
nông dân lủi thủi đi trên con đường làng cho đến khi
khuất bóng.
- Tội nghiệp!
Tiếng nói ở phía sau làm Tân
giật mình quay lui, thấy Bính đang đứng mỉm cười và
nói tiếp:
- Anh Tân, anh vừa có một hành
động rất đẹp và rất cảm động. Cuộc chiến tranh
tàn ác nầy buộc những người dân quê hiền lành chất
phác của mình phải sống với một tâm trạng bất an,
lúc nào cũng sợ hãi lo âu. Hành động vừa rồi của anh
rất xứng đáng là của một người thực sự yêu nước
thương dân.
Trung sĩ Hy cũng cao hứng phụ
họa:
- Trung đội Hai chúng tôi may mắn
có được chuẩn úy Tân, cấp chỉ huy đức độ. Người
dân quê mình thực là đáng thương, phải không chuẩn úy?
Tân gật đầu:
- Ừ, thực là đáng thương.
Đến gần tối, tiểu đoàn nhận
được lệnh đóng quân tại chỗ. Liên tiếp trong mười
ngày, tiểu đoàn tổ chức những cuộc hành quân nhỏ,
chung quanh thị xã và không hề đụng một trận nào. Các
đơn vị vũ trang của Việt cộng có lẽ đã lánh đi nơi
khác, nên vùng an ninh chung quanh bộ tư lệnh sư đoàn mở
rộng ra, dân chúng trong vùng được yên ổn làm ăn.
Một buổi chiều, trung úy Bá đi
họp ở bộ chỉ huy tiểu đoàn về, triệu tập ngay các
trung đội trưởng lại. Anh nói:
- Ngày mai chúng ta lên đường di
chuyển đi nơi khác.
Chuẩn úy Tám hỏi ngay:
- Đi đâu vậy?
- Hà tiên.
- Hành quân vùng biên giới phải
không?
- Không, chúng ta đi đóng đồn.
Tám ngạc nhiên:
- Tại sao đóng đồn? Đó là
nhiệm vụ của bảo an và dân vệ mà. Mình là lính chính
qui, sao lại làm công việc đó. Hay lại làm mồi nhử
Việt cộng như dạo ở ngoài Trung.
Trung úy cười:
- Đừng lo, không phải làm củ
khoai nhử chuột nữa đâu. Kỳ nầy thì đóng đồn để
giữ an ninh thực sự. Đây là một địa điểm rất quan
trọng đang được một tiểu đoàn bảo an giữ gìn nhưng
có tin một đơn vị khá lớn của Việt cộng xuất hiện
gần đó nên chúng ta phải đến thay thế cho tiểu đoàn
bảo an đó.
- Chỗ nào mà quan trọng vậy?
- Nhà máy xi măng Hà tiên đặt
tại Kiên lương.
Bính cướp lời:
- Tôi biết rồi. Nhà máy nầy do
Pháp viện trợ cho mình. Từ trước đến giờ, Việt Nam
chỉ có một nhà máy xi măng duy nhất tại Hải phòng, nay
thuộc về miền Bắc. Từ sau khi đất nước bị chia đôi,
miền Nam phải nhập cảng xi măng của ngoại quốc, trong
khi nguyên liệu ở xứ mình thì không thiếu.
Bá nói tiếp:
- Đúng vậy. Người Pháp biết
rất rõ điều nầy nên giúp mình xây dựng nhà máy ở
Kiên lương một vùng thuộc Hà tiên, nơi có rất nhiều
núi đá vôi. Đây là một công trình kinh tế loại lớn
giúp kiến thiết miền Nam. Vì vậy nhất định Việt cộng
sẽ cố gắng đánh phá vì sợ miền Nam mình phát triển
thì dân chúng sẽ ấm no và giàu lên. Chúng ta cần chận
đứng âm mưu nầy của Việt cộng. Về đó, chúng ta sẽ
không nhọc nhằn như trong các cuộc hành quân nhưng cần
phải hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ mà mình sắp
đảm nhiệm.
- Chừng nào chúng ta lên đường?
- Sáng sớm mai. Phải mất trọn
một ngày di chuyển. Từ đây đến Rạch giá đường khá
tốt, nhưng từ Rạch giá đến Kiên lương thì đường
xấu lắm nên xe sẽ chạy rất chậm. Các trung đội phải
thức dậy từ khuya, nấu cơm cho ba bữa ăn, sáng, trưa và
chiều. Chúng ta sẽ đến nơi khá trễ, lính không thể
tìm ra củi để nấu cơm.
- Ở đó có sẵn doanh trại cho
mình không?
- Tôi không biết và tiểu đoàn
cũng chẳng biết đâu.
- Nhưng ở đó đã có một lực
lượng bảo an canh giữ bấy lâu nay rồi mà.
- Đúng vậy, nhưng mình đâu biết
họ ăn ở thế nào. Có khi họ ở trong các lều vải và
khi đi thì cuốn lại mang theo.
Tân vẫn còn thắc mắc:
- Lực lượng bảo an phần nhiều
là lính địa phương quen với địa thế và công việc
canh phòng bấy lâu nay, tại sao lại phải thay thế?
Trung úy giải thích:
- Theo tin tình báo, địch đang
tập trung khá đông để phá hoại công trình, sợ tiểu
đoàn bảo an không giữ nỗi nên đưa chúng ta đến. Vả
lại, về nguyên tắc, tại những nơi trọng yếu, đơn vị
canh giữ không được ở quá lâu. Sau một thời gian lại
phải đổi đơn vị đồn trú khác.
- Đề phòng nội tuyến?
- Chớ sao. Kẻ thù của chúng ta
rất tinh quái, tìm trăm mưu ngàn kế để mua chuộc lính
mình. Lúc mình đóng đồn ở Kannack thì không lo chuyện
nội tuyến vì chẳng có người dân nào ở chung quanh,
nhưng vô miền Nam nầy thì phải hết sức cẩn thận. Ban
an ninh của tiểu đoàn yếu lắm không lo hết việc được
đâu. Chính các trung đội trưởng phải lo kiểm soát lính
mình. Đó thực sự là công tác phản gián, các trung đội
trưởng phải ý thức thực đầy đủ để hoàn thành
nhiệm vụ của mình đối với quốc gia và cũng là bảo
đảm cho mạng sống của chính mình. Đại úy tiểu đoàn
trưởng dặn tôi thông báo kỹ cho anh em như thế, những
chi tiết khác, chúng ta sẽ biết thêm khi đến nơi. Anh em
có ý kiến gì nữa không?
Trung úy dừng lại nhìn mọi
người nhưng không nghe ai nói gì nên anh tiếp:
- Còn điều nầy nữa. Từ ngày
bắt đầu xây dựng công trình thì dân tập trung lại
càng ngày càng nhiều. Hiện nay nhà máy ở Kiên lương đã
bắt đầu khai thác đá vôi, nghiền ra chở về nhà máy ở
Thủ đức để chế biến. Cùng lúc, công trình xây dựng
vẫn tiếp tục. Vì vậy số công nhân càng ngày càng tăng
lên, cộng thêm với lính đồn trú nên tại nơi đó bây
giờ khá đông đúc. Hễ chỗ nào có đông người xa nhà
tập trung thì chỗ đó có nhiều gái điếm đến hành
nghề và chúng ta phải đề phòng bị lây bệnh và đề
phòng gián điệp tổ chức nội tuyến. Tóm lại chúng ta
luôn luôn phải cảnh giác. Địch chỉ tấn công khi mình
sơ hở. Phòng thủ chắc thì chúng nó không dám tấn công.
Bây giờ các anh về hỏi lính có thiếu nợ hàng quán ở
đây không. Nếu có thì phải lo trả cho hết đi. Không
trả dân sẽ bảo rằng lính mình ăn cướp rồi Việt
cộng nhân đó tuyên truyền bôi nhọ quân đội mình.
Sáng sớm hôm sau, một đoàn quân
xa đến chở tiểu đoàn rời khỏi Sa đéc.
*
* *
Trên cánh đồng Hà tiên rộng
mênh mông, phủ đầy cỏ dại và hoang vu, nổi lên nhiều
núi đá vôi hình thù kỳ dị. Mà máy xi măng Kiên lương
nằm tựa lưng vào một trong những hòn núi đó. Trước
mặt nhà máy là một con kênh khá rộng dẫn nước lũ
trong nội đồng đổ ra vịnh Thái lan. Dọc theo con kinh là
một lộ đá nối liền Rạch giá với Hà tiên.
Sau một ngày di chuyển, khi trời
sắp tối, đoàn công voa đến nơi, đậu cạnh một xóm
nhà lá ven lộ. Mọi nhà đều đã lên đèn. Hầu hết các
nhà là những quán tạp hoá nhỏ và những quán ăn tồi
tàn. Bên kia con kênh, nhà máy xi măng nép mình dưới chân
một hòn núi đen thui như một chú voi khổng lồ.
Sau khi xuống xe, đại đội Một
được lệnh qua kênh với một chiếc ghe và đóng quân
trên một bãi đất bằng phẳng sát bờ kênh.
Trung úy Bá triệu tập các trung
đội trưởng để truyền lệnh. Anh nói:
- Chúng ta đóng ở đây và trấn
giữ mặt nầy cho nhà máy, các mặt khác do các đại đội
kia trấn giữ. Tiểu đoàn cho hay nhiệm vụ chúng ta rất
nặng vì trước hết Việt cộng phải tràn ngập phòng
tuyến của chúng ta rồi mới có thể tấn công vào nhà
máy được. Tôi sẽ chỉ định chỗ đóng quân cho các
trung đội. Các anh thấy đây là miếng đất trống không
có nhà cửa gì cả. Đêm nay chúng ta ngủ tạm giữa trời,
bắt đầu ngày mai sẽ lo chỗ ở. Mình sẽ ở đây trong
nhiều tháng nên mỗi tiểu đội phải cất một cái nhà.
Việc nầy thì lính mình đã quen lắm rồi nhờ thời gian
sống ở Kannack.
Anh chỉ xóm nhà bên kia sông và
nói tiếp:
- Dân tụ tập về ở bên đó.
Họ sống nhờ buôn bán với lính đồn trú và công nhân
của công trường. Vài cô gái điếm sống và hành nghề
lẫn lộn trong đó. Ở đây không có chính quyền nên số
dân đó gần như sống ngoài vòng pháp luật. Tôi rất
mừng là chỗ đóng quân của mình cách xóm dân đó bằng
con kênh khá sâu nầy. Chúng ta được nhà máy cấp phát
cho một chiếc xuồng ba lá. Tôi ra lệnh chỉ được sử
dụng ban ngày mà thôi. Ban đêm thì giới nghiêm không được
qua lại. Tôi sẽ xin lệnh tiểu đoàn để ấn định giờ
giới nghiêm sau. Bây giờ các anh theo tôi để nhận vị
trí cho trung đội mình và sắp đặt chỗ canh gác. Mỗi
trung đội có ba vọng gác cho ba tiểu đội.
Các trung đội trưởng theo chân
trung úy Bá. Vị trí đóng quân của cả đại đội là
một khu vuông vức. Ba trung đội trấn ba phía, trung đội
vũ khí nặng lo canh gác mặt kênh.
Một đêm qua yên tĩnh. Ngày hôm
sau, ngoài những người canh gác, cả đại đội vào trong
cánh đồng hoang để đốn cây, cắt tranh về làm nhà.
Sau ba ngày, những căn nhà nho nhỏ xinh xinh mọc lên, cuộc
sống đồn trú bắt đầu ổn định.
Một tuần lễ sau ngày đến,
tiểu đoàn tổ chức liên tiếp trong ba ngày những cuộc
hành quân truy lùng địch để mở rộng vòng đai an ninh
cho nhà máy.
Hơn nửa tháng trôi qua, cuộc
sống của những người lính “trấn thủ lưu đồn”,
tuy không cực nhọc nhưng đã bắt đầu nhàm chán. Ban
ngày, chiếc xuồng cấp phát cho đại đội liên tục chở
lính qua về con kênh. Đêm đến, mọi người vào tuyến
phòng thủ, luân phiên canh gác suốt đêm.
Tân và Bính ngày nào cũng gặp
nhau sáng và chiều. Chẳng còn chuyện gì để thảo luận,
hai cậu ra ngồi trên bờ kênh để câu cá. Một hôm, Bính
nói với Tân:
- Bây giờ rảnh rỗi, anh nên xin
trung úy Bá cho về Sài gòn chơi một chuyến và ghé thăm
ba em. Ông đang mong anh lắm đó. Sẵn dịp nầy, anh lấy
về đây một số sách để anh em mình đọc cho bớt thì
giờ nhàn rỗi. Trong tủ sách của em có nhiều sách hay,
em mua mà chưa kịp đọc, anh chọn lấy không phải đi mua
đâu cả.
- Nhưng từ chuyến đi vừa rồi
của em đến nay mới có một tháng rưỡi thôi. Anh Bá quy
định phải hai tháng mới cho một người trốn về thăm
nhà, em không nhớ sao?
- Anh trọng nguyên tắc thái quá.
Anh cứ xin anh Bá đi. Bây giờ đang ở yên tại chỗ, thế
nào anh ấy cũng cho đi.
Theo lời khuyên của Bính, Tân
đi tìm trung úy Bá. Sau khi nghe Tân trình bày, trung úy nói
với giọng ôn tồn:
- Anh về thăm nhà bây giờ thì
không có gì trở ngại cho việc phòng thủ của đại đội.
Tuy nhiên anh nên suy nghĩ lại. Tình hình chính trị ở Sài
gòn đang rất bất ổn. Tôi vừa mới nói chuyện với sĩ
quan an ninh của tiểu đoàn. Nhiều đài phát thanh ngoại
quốc tiên đoán sắp có đảo chánh ở Sài gòn. Cũng có
tin đồn Mỹ không còn ủng hộ tổng thống nữa nên tổng
thống đang tìm trung gian để hòa giải với cộng sản
Bắc Việt. Nội bộ miền Nam đang bị chia rẽ trầm
trọng, các phe phái đang ghìm nhau. Tuần rồi tất cả sĩ
quan an ninh tiểu đoàn và trung đoàn được chỉ thị phải
theo dõi và báo cáo trong đơn vị mình phụ trách sĩ quan
nào muốn thỏa hiệp với cộng sản, sĩ quan nào ủng hộ
sự tranh đấu của Phật giáo và nếu đảo chánh xảy ra
thì sĩ quan nào sẽ theo phe đảo chánh, sĩ quan nào sẽ
trung thành với chính phủ.
- Sĩ quan an ninh tiểu đoàn mình
báo cáo thế nào?
- Anh ta bảo chẳng biết rõ trong
bụng người ta nghĩ gì nên chưa báo cáo được, xin hẹn
lại để nghiên cứu tiếp. Tôi nói như thế để anh hiểu
sĩ quan chúng mình bị ngay phe mình để ý khá gắt gao.
Anh về Sài gòn, tôi nhắc lại, đối với công việc của
đại đội thì không có gì trở ngại nhưng nếu vướng
vào chuyện gì đó thì rất phiền phức cho anh.
- Anh đã nói rõ như thế thì tôi
sẽ để ý tránh tất cả những gì có thể gây phiền
phức.
- Được rồi, nếu anh muốn thì
cứ đi và về càng sớm càng tốt. Nhớ đừng bao giờ
đến gần các đám biểu tình chống chính phủ do Phật
giáo tổ chức. Nếu hình chụp đám biểu tình nào đó mà
có mặt anh thì nguy lắm. Đi đường, nên cẩn thận, tốt
hơn hết là tránh đi xe đêm; bị Việt cộng chận lại
một giờ thôi thì anh sẽ bị an ninh điều tra cả tháng
chưa xong rồi còn có thể bị thuyên chuyển ra vùng hỏa
tuyến nữa. Sau cùng, nếu có đảo chánh thì anh phải
tìm cách về đây ngay. Tuyệt đối không tỏ thái độ
theo ai cả. Quân đội phải đứng trên mọi tranh chấp
chính trị.
- Tôi xin nghe theo tất cả lời
khuyên của anh.
- Tốt lắm. Anh dự trù đi mấy
ngày?
- Ba ngày. Nếu kẹt đường thì
bốn ngày. Sáng mai tôi khởi hành được không?
- Được. Từ đây anh đi xe về
Rạch giá rồi từ đó mới có xe về thẳng Sài gòn. Chúc
anh đi may mắn và vui vẻ. Trước khi đi nhớ bàn giao công
việc cho trung sĩ Hy.
Sáng hôm sau, Tân vừa qua kênh,
tới đường lộ thì may mắn gặp chuyến xe về Rạch giá
và sang xe đến Sài gòn khi đường phố mới lên đèn.
Cậu xuống xe buýt ở đầu đường Phan đình Phùng, ôm
gói trái cây mua ở bến phà Mỹ thuận, đi dài theo đường
Vườn chuối. Nhà ở đây thay đổi nhiều so với tám năm
về trước, thời cậu còn đi học và còn hoạt động
cho thành đoàn. Cậu chăm chú nhìn các số nhà. Kia rồi
nhà của Bính là tiệm tạp hóa có đèn sáng trưng phía
trước. Cậu đi đến và dừng lại nhìn vào. Một thiếu
phụ mảnh mai đang ngồi làm việc gì đó bên trong. Cậu
khẽ gọi:
- Mai!
Nàng đứng bật dậy, nhìn sửng
sốt. Tân bước vào nói nhỏ:
- Mai, chào em, em khỏe không?
Bạch Mai đưa hai bàn tay lên áp
vào khuôn mặt ửng hồng, giọng thì thào:
- Anh Tân, anh về nhà em đó à?
Tân nghe tim mình đập rộn rã.
Cậu cố giữ vẻ thản nhiên và mỉm cười:
- Sao Mai hoảng hốt vậy? Anh về
thực mà chứ có phải hồn ma đâu. Bác trai đâu? Bình
đâu?
- Hai ông cháu đang nằm trong
phòng. Anh ngồi chơi để em mời ba ra. Anh về được lâu
không, ở tại nhà nào?
Tân lắc đầu:
- Anh chỉ về được một ngày
thôi. Ở đây anh chẳng có nhà cửa gì cả. Anh về thăm
Sài gòn, thăm… Mai và nghỉ tại đây, Mai có bằng lòng
không?
Nàng nhìn Tân, mắt ướt như sắp
khóc:
- Sao anh lại hỏi em như vậy? Em
mong điều nầy tự biết bao năm rồi. Lúc nào em cũng đau
đớn vì nghĩ rằng anh giận và ghét em nên không bao giờ
đến nhà em nữa.
Nàng quay lại, bước vào trong và
gọi lớn:
- Ba ơi ba. Anh Tân ở đơn vị về
thăm đây nầy.
Có tiếng nói khàn khàn già nua:
- Cái gì? Con nói ai? Cậu Tân hả?
Ừ, ba xuống ngay.
Mai quay lui:
- Anh Tân, anh vừa mới xuống xe
phải không?
Tân gật đầu. Mai nói tiếp:
- Thế là anh chưa ăn cơm tối.
- Nhà dùng cơm chưa?
- Xong rồi, bây giờ anh đợi một
chút, em đi bắc cơm.
- Thôi, đừng nấu mất thì giờ.
Tí nữa, anh ra ra ngoài, ăn qua loa được rồi. Anh là lính
chiến mà.
Mai bước đến gần Tân, giọng
hơi nũng nịu:
- Không, anh để em nấu anh ăn.
Em mong làm việc nầy từ lâu rồi mà.
Mai nói xong, mặt hơi ửng đỏ
vì hổ thẹn. Nàng vội quay lui, đi xuống bếp.
Trong buồng có tiếng dép lẹp
xẹp. Ông cụ bước ra, bé Bình theo sau. Ông đưa cả hai
tay về trước nắm lấy tay Tân, giọng vui vẻ:
- Tân, cháu về một mình, Bính
không cùng về à?
- Thưa bác, trong đại đội mỗi
lần chỉ được vắng mặt một sĩ quan thôi.
- Ừ phải rồi, nó mới về cách
nay chưa đầy hai tháng. Đêm nào, ngày nào cũng nhớ nó
nên hai tháng dài như hai năm.
Ông quay lui:
- Bình, con chào bác đi.
Bình ngoan ngoãn vòng tay cúi đầu
chào. Tân cúi xuống bế bé lên chỉ gói trái cây mà cậu
để trên bàn lúc mới vào:
- Quà của cậu Bính gởi cho cháu
đó.
Ông cụ cười hiền lành:
- Kỳ trước thằng Bính về có
đưa cho nó cây súng bằng nhựa bảo rằng của bác đại
tướng Tân gởi cho, nó thích quá, tối nào cũng mang vào
mùng ôm ngủ. Kỳ nầy cháu về thằng Bính có biết
không?
- Dạ biết, chúng cháu ở chung
một đại đội.
- Tôi biết điều đó. Trong cái
rủi cũng có cái may. Ra chiến trường hiểm nguy, có anh
em bạn bè thân thiết giúp đỡ nhau thì là điều may vậy.
Hai anh em còn ở Bến tre không?
- Không còn ở đó nữa. Đơn vị
cháu rời Bến tre qua Sa đéc hành quân một thời gian, bây
giờ về đóng đồn để giữ an ninh cho công trường xây
dựng nhà máy xi măng Hà tiên.
- Ở đó có yên không?
- Tiểu đoàn cháu mới đến hơn
nữa tháng nay và chưa thấy hoạt động nào của phía bên
kia. Tuy nhiên cũng phải đề phòng vì nhà máy Kiên lương
là một công trình lớn của miền Nam.
- Ừ, qua báo chí, bác có biết
việc xây dựng nhà máy đó. Bác thích lắm. Miền Nam nầy
mà đừng có chiến tranh, dân được yên ổn sản xuất,
chính phủ thì lo xây dựng nhà máy, chẳng bao lâu chúng
ta sẽ giàu hơn tất cả các nước ở Đông nam Á nầy.
- Dạ cháu cũng nghĩ như thế.
Người mình giỏi, siêng năng và chịu khó. Sinh viên Việt
Nam du học ở Âu Mỹ, rất nhiều người nổi danh là
thông minh và hiếu học. Thế mà đất nước mình cứ lận
đận mãi. Ở thành phố có an ninh dân còn đỡ khổ. Đi
hành quân vào thôn quê, cháu thấy dân mình khổ vì chiến
tranh mà xót xa. Những người gây ra cuộc chiến tranh nầy
quả có tội với Tổ quốc và với dân tộc.
Ông cụ gật đầu:
- Họ là những người có tội.
Trước đây bác cũng đã từng theo họ nên không muốn
kết án họ. Nhưng càng suy nghĩ càng thấy đau lòng. Từ
bỏ họ là hợp với lẽ phải, hợp với đạo lý làm
người. Bác cũng mong tất cả người miền Nam thấy rõ
được bản chất của họ, không ủng hộ họ nữa thì
chiến tranh mau chấm dứt. Bác cầu mong điều đó để
được vài năm sống với thằng Bính, cưới vợ cho nó,
trông thấy mặt cháu nội rồi vui lòng về bên kia thế
giới gặp gỡ mẹ nó.
Giọng cụ trầm xuống, với nụ
cười buồn bã. Tân tiếp lời:
- Bính cũng có ước mơ như bác.
Đi tới chỗ nào có phong cảnh đẹp, Bính cũng bảo rằng
hòa bình rồi sẽ làm nhà ở chung với bác để lo cho
tuổi già của bác.
- Tội nghiệp cho nó. Chừng đó
tuổi đầu mà chưa bao giờ nghĩ tới điều gì ích lợi
riêng cho mình. Nó là đứa con rất hiếu đễ của gia
đình bác. Lúc mẹ nó mất, con Mai vừa mới sinh con, bác
bệnh lên, bệnh xuống, tiền lương hưu đổ cả vào
thuốc men, gia đình lâm cảnh khốn cùng. Chính nó đã cứu
nguy cho gia đình. Cái tiệm tạp hóa nầy của con Mai, tấm
áo lành lặn của thằng cháu Bình, sức khoẻ của bác và
mọi tiện nghi trong nhà là do công sức làm việc ngày đêm
của nó.
- Dạ cháu biết chuyện đó. Bính
có kể cho cháu nghe. Cháu kính phục Bính lắm.
Ông cụ gật đầu hài lòng:
- Ừ, từ khi còn học trong quân
trường đến khi ra đơn vị, mỗi lần về phép, thằng
Bính luôn luôn nhắc đến cháu. Nó tỏ ra quí mến cháu
lắm. Ngoài chiến trường, anh em gần gũi nhau, thương yêu
nhau như thế là tốt lắm. Nó nhỏ tuổi hơn cháu, cháu
để ý chỉ vẽ thêm cho nó.
Tân cười:
- Cháu lớn tuổi hơn Bính nhưng
cháu cần học hỏi ở Bính rất nhiều điều. Bính rất
xứng đáng được sự yêu mến và kính nể của mọi
người.
Vừa lúc đó, Mai từ dưới bếp
bước lên, nói một cách vui vẻ:
- Cơm sắp chín rồi, ba ngưng nói
chuyện để anh Tân đi tắm rửa rồi dùng cơm. Anh Tân
đói bụng lắm rồi phải không? Anh hãy đi theo em.
Tân lấy cái túi đựng đồ
dùng, đi theo sau lưng Mai. Nàng đưa tay chỉ vào một cánh
cửa nhỏ:
- Nhà tắm trong đó, anh vào tắm
đi, rồi ra đây dùng cơm. Nguyên cái phòng phía trước
dùng bán hàng nên cả nhà dùng cơm dưới bếp nầy. Tuy
khách là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, nhưng em cũng đãi ăn
tại đây luôn.
Tân bước đến cánh cửa nhưng
không đi vào lại đứng tần ngần tại chỗ. Mai quay lại
ngạc nhiên:
- Anh vào tắm đi, đủ nước và
xà bông trong đó rồi.
Tân ngập ngừng:
- Anh phải ra ngoài một chút.
- Để làm gì vậy? Có ai đợi
ngoài đó hay chưa trả tiền xe ﹸích
lô? Vào tắm đi. Để em ra trả cho.
- Không phải, anh cần đi mua cái
khăn lau. Sáng nay đi gấp anh quên mang theo.
Mai cười:
- Đàn ông thường đãng trí.
Nàng hạ giọng:
- Thôi, anh khỏi đi mua, anh dùng
tạm khăn của em cũng được.
Nàng nói xong, mặt hồng lên một
cách đáng yêu trong khi rút chiếc khăn trắng đang phơi
trên dây trao cho Tân.
Khi Tân tắm xong, cậu áp cái
khăn của Mai vào mặt và ngây ngất vì hương thơm từ đó
tỏa ra.
Sau bữa cơm, ba người lớn ngồi
nói chuyện với nhau khá lâu. Ông cụ tiếp tục hỏi thăm
đời sống và công việc ở đơn vị tác chiến. Tân mô
tả cho cụ nghe những cuộc hành quân và những điều mà
cậu đã chứng kiến ở miền quê đang quằn quại vì
chiến tranh.
Ông cụ nghe và lắc đầu buồn
bã:
- Quê mình khổ quá. Thành phố
thì bình yên hơn nhưng không biết còn yên ổn đến bao
giờ.
- Thưa bác, nghe nói thủ đô bây
giờ bất ổn lắm phải không?
- Bề ngoài, người ta vẫn làm
ăn, buôn bán như thường, nhưng ai cũng chờ đợi trong lo
âu. Các đài ngoại quốc thường bình luận tình hình và
tiên đoán một cuộc đảo chánh trong nay mai.
- Ai làm đảo chánh? Có phải
Phật giáo không?
- Không, Phật giáo có hậu thuẫn
của công chúng nhưng không có lực lượng. Chỉ có quân
đội mới có khả năng thực hiện đảo chánh. Chắc chắn
quân đội sẽ mượn danh Phật giáo để giải thích hành
động của họ. Nghe nói, mấy ông tướng trong quân đội
còn chờ Mỹ đồng ý mới tiến hành lật đổ chính phủ.
- Miền Nam mình đang lệ thuộc
ngoại bang quá nhiều, phải không bác?
- Không lệ thuộc sao được. Mỹ
đã chịu tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của và cả nhân
lực nữa để giúp cho miền Nam đứng vững thì mình
không lệ thuộc họ sao được. Nguyên nhân cũng là do
Việt cộng dựa vào Liên xô và Trung cộng để đưa quân
và vũ khí vào đây để chiếm cả miền Nam luôn, mình
phải nhờ đến Mỹ. Nhờ cậy người ta thì làm sao tránh
khỏi sự tùy thuộc. Nếu không có chiến tranh, mình tự
lực để sống thì chẳng phải lệ thuộc ai.
Ông Tư ngừng một chút rồi lắc
đầu nói tiếp:
- Miền Nam phải nhờ có Mỹ giúp
đỡ thì mới có thể đứng vững được. Nhưng bây giờ
đang có nhiều tin đồn nói rằng Mỹ không còn hậu thuẫn
cho chính phủ hiện nay nữa.
- Tại sao họ không hậu thuẩn
nữa?
- Bề ngoài, chính phủ Mỹ bảo
rằng chính phủ làm mất lòng dân, nhưng theo bác, lý do
chính yếu là tổng thống luôn luôn tìm cách thoát ra khỏi
sự lệ thuộc Mỹ nên bị mất hậu thuẩn. Theo bác, cuộc
đảo chánh để lật đổ chính phủ chỉ còn là vấn đề
thời gian nữa thôi.
Tân tỏ ra lo lắng:
- Như thế là tình hình đang rất
trầm trọng. Việc cháu bỏ đơn vị về đây có thể rất
nguy hiểm phải không bác?
Ông cụ trầm ngâm:
- Bác không hiểu có nguy hiểm
lắm không. Nhưng nếu xảy ra đảo chánh thì nhất định
phải có giới nghiêm ngày đêm, xe cộ không còn lưu thông
được. Có thể cháu sẽ phải vắng mặt ở đơn vị
trong nhiều ngày.
Tân tiếp lời với giọng lo
lắng:
- Không được. Cháu chỉ trốn
về nhiều nhất là ba ngày thôi. Nếu đi lâu hơn, đại
đội trưởng bắt buộc phải báo cáo sự vắng mặt của
cháu lên tiểu đoàn. Hơn nữa, nếu có đảo chánh xảy
ra, thế nào quân đội sẽ chia thành hai phe, một ủng hộ
đảo chánh và một trung thành với chính phủ. Cháu không
muốn bị kẹt vào cuộc tranh chấp giữa hai phe đó.
Ông cụ gật gù:
- Cháu nghĩ như thế là phải.
Cuộc chiến tranh nầy đã là cuộc chiến huynh đệ tương
tàn rồi. Bây giờ trong nội bộ miền Nam lại xảy ra
huynh đệ tương tàn nữa thì quả là đau xót.
- Sáng mai cháu phải trở lại
đơn vị ngay. Trước khi về, cháu nôn nao vì ý nghĩ có
trọn một ngày đi thăm lại những nơi quen thuộc của
thành phố thân yêu nầy. Nhưng thôi, cháu đành bỏ ý
muốn nầy. Sáng mai cháu phải đi sớm, không dám ở lâu
hơn.
- Bác rất tiếc, nhưng đành phải
vậy. Lần sau yên ổn hơn, cháu về ở chơi với bác vài
ngày.
Ông nhìn xuống thấy Bình đã
ngủ say trong lòng ông:
- Thằng bé ngồi nghe rồi ngủ
lúc nào không biết. Mai, con đóng cửa tiệm chưa?
- Dạ, con đóng lâu lắm rồi.
Nàng quay sang Tân:
- Hôm nay có anh về chơi nên em
dẹp hàng sớm hơn thường lệ. Thôi khuya rồi, ba và anh
Tân đi nghỉ đi. Anh Tân đi đường suốt ngày nay chắc
chắn mệt lắm rồi. Anh vào ngủ trong phòng với ba em,
trên giường trước đây của Bính. Em đã giăng mùng xong
rồi.
Ông cụ đứng dậy, Tân đứng
dậy theo. Chung quanh hoàn toàn im lặng, thành phố đã vào
giờ giới nghiêm.
Đêm thực yên tĩnh. Tân ngủ một
giấc ngon lành.
Cậu giật mình khi có tiếng xe
Lam nổ lạch bạch ngoài đường. Cậu mở mắt và thấy
ánh sáng từ dưới bếp rọi lên. Ở giường bên, ông cụ
vẫn còn ngủ say, tiếng ngáy nho nhỏ đều đều. Tân
hiểu rằng Mai dậy sớm và đang làm việc dưới bếp.
Cậu vén mùng nhè nhẹ bước xuống cầu thang, lẳng lặng
đến bếp, trông thấy Mai đang lúi húi bên chiếc lò dầu.
Nàng quay lại nhìn Tân cười thật tươi. Tân hỏi nhỏ:
- Mai dậy sớm vậy à?
- Quen rồi. Sáng nào em cũng phải
dậy nấu nước để ba em pha cà phê và trà, lo bữa ăn
sáng cho cháu Bình, đưa cháu đi học rồi về dọn hàng
ra bán.
Nàng nhìn lên đồng hồ treo
tường:
- Còn hơn một giờ nữa mới
sáng. Sao anh không ngủ tiếp đi.
Tân lắc đầu:
- Không, ngủ như thế đủ rồi,
anh phải chuẩn bị về đơn vị càng sớm càng tốt.
Mai ngước nhìn Tân, mắt long
lanh thực buồn:
- Em có một chuyện quan trọng
muốn nói với anh. Hôm qua thấy anh về em mừng quá. Không
ngờ vì tình hình bất ổn, anh phải đi gấp.
Tân ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy Mai?
Mai lắc đầu:
- Chuyện quan trọng nhưng không
còn thì giờ để nói nữa. Em đã có cách rồi. Anh đi
rửa mặt đi, em đang làm bữa ăn sáng cho anh đây.
Tân rửa mặt xong, ngồi xuống
ghế nhìn quanh. Mai cười dịu dàng:
- Anh thấy nhà khác trước kia
phải không? Em Bính gọi thợ lại sửa cách đây ba năm.
Tân chỉ chiếc cầu thang gần
như dựng đứng:
- Cầu thang nầy dẫn đi đâu?
- Khi sửa nhà bếp, Bính cho bóc
bỏ mái ngói và đúc mặt bằng, phía trên làm sân thượng.
Chiếc cầu thang nầy dẫn lên sân thượng đó. Buổi
chiều tối ba em và cháu Bình thường lên đó hóng mát.
Đó là chỗ hai ông cháu rất ưa thích vì nhìn thấy cả
bầu trời rộng.
- Mai cũng thường lên đó chứ?
- Em chỉ lên buổi sáng sớm để
tập thể dục trong vài phút. Đứng trên đó nhìn được
một vùng khá rộng chung quanh, nhà cửa, chỗ tối, chỗ
sáng, chỗ lờ mờ trong ánh đèn đường, trông cũng thích
thú. Đi, anh đi với em lên đó để thấy khung cảnh thích
thú mà em đã ngắm nhìn ba năm nay rồi.
Mai nói xong, bước lên cầu
thang, Tân theo sau. Cả hai đứng yên, không khí buổi sáng
mát dịu. Giọng Mai nhỏ nhẹ thực dễ thương:
- Sáng nào em cũng lên đây độ
mười lăm phút, hít thở không khí trong lành. Ở thành
phố, giờ nầy là đẹp nhất vì không gian vừa yên tĩnh,
vừa mát mẻ. Trong khung cảnh êm đềm nầy, em tập vài
động tác thể dục xong thì thường đứng im nhớ đến
những ngày thơ ấu, nhớ đến biết bao nhiêu người thân
yêu.
- Mai nhớ đến ai?
- Nhớ mẹ em, nhớ Bính và….
Giọng Mai bỗng nghẹn ngào:
- Nhớ cả anh nữa.
Tân đưa tay chạm vào mái tóc
mượt mà của Mai. Nàng nghiêng người tựa vào Tân. Cậu
đưa cả hai tay ôm choàng lấy tấm thân mềm mại vào
ngực mình. Hơi thở cậu dồn dập, trong khi Mai rùng mình,
toàn thân run rẩy, hai bàn tay bám lấy vai của Tân. Cậu
cúi xuống nhìn. Trong ánh sáng lờ mờ của đèn đường,
hiện ra dưới mắt Tân một gương mặt cực kỳ diễm
lệ. Cậu cúi sát xuống và hai đôi môi áp chặt vào
nhau. Thời gian như ngừng lại, vũ trụ như tan biến trong
hư vô.
Cả hai choàng tỉnh vì tiếng còi
xe thực to trên đường phố. Họ rời nhau ra. Mai cầm tay
người yêu đưa lên môi mình, nói như rên rỉ:
- Anh Tân, em yêu anh vô cùng. Em
chờ đợi giây phút nầy biết bao năm rồi. Em biết anh
cũng yêu em, phải không anh Tân?
Tân trả lời qua hơi thở:
- Em là mối tình đầu của anh
cho đến ngày hôm nay. Lúc nào anh cũng nghĩ đến em và
chỉ nghĩ đến em mà thôi.
Mai thở dài, giọng buồn bã:
- Cám ơn anh, em hằng mong ước
được nghe câu nói đó từ miệng anh. Bây giờ, em đã
được nghe rồi. Em bằng lòng lắm, bằng lòng với mối
tình đầu đã đem đến cho em biết bao nhiêu đau khổ và
hạnh phúc. Anh hôn em lần cuối đi.
Cả hai lại siết chặt nhau, chìm
đắm trong nụ hôn dài và say đắm.
Họ buông nhau ra, lần lượt bước
xuống cầu thang.
Mai nói:
- Anh ngồi đây, đợi em một
chút.
Nàng đi vội vào phòng và trở
ra, trên tay cầm một phong thư:
- Anh Tân, cái điều quan trọng
mà em muốn nói với anh, nằm trong lá thư nầy. Em viết
xong cách nay ba ngày và chưa biết cách nào gửi đến cho
anh. Bây giờ em sung sướng được trao tận tay anh.
Mai cầm phong thư đưa về phía
trước. Tân nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng:
- Mai, anh yêu em. Vài tháng nữa,
anh sẽ về thăm em. Chúng mình hãy quên đi những chuyện
đau buồn đã qua. Em có bằng lòng không?
Mai ngước nhìn lên, hai mắt mở
to, hai giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má. Nàng lắc
đầu:
- Anh cứ đọc lá thư nầy đi.
Dù sao em cũng gửi tặng cho anh phân nửa tâm hồn và phân
nửa quả tim của em. Thôi anh đi thay áo quần, rồi ăn
sáng và đi kẻo trễ. Ba em cũng đang thức dậy rồi đó.
Quả thực trong phòng có tiếng
dép lẹp xẹp đi ra. Ông Tư xuất hiện trên đầu cầu
thang, nhìn xuống với nụ cười thực tươi:
- Cháu Tân dậy rồi à?
- Thưa bác, cháu chuẩn bị về
Kiên lương.
- Ừ, trời sắp sáng rồi. Đi
cho kịp chuyến xe đò thứ nhất. Đây về đó xa lắm mà.
- Dạ trên ba trăm cây số, qua
hai cái phà. Xe chạy thông suốt cũng phải mất trọn một
ngày.
Tân ăn sáng xong. Mai đưa cho cậu
một gói quà khá to và nói:
- Anh chịu khó mang gói quà nầy
của em tặng anh và Bính dùng chung.
Tân mang túi hành trang lên vai.
Ông Tư dẫn thằng Bình trong buồng đi ra. Tân bế nó lên,
hôn đôi má phinh phính rồi đặt xuống đất, cúi chào
ông Tư và bước ra cửa. Mai nắm tay con bước ra lề
đường, nhìn theo cho đến khi Tân khuất sau dãy phố trên
đường Phan đình Phùng. Tân bước lên một chiếc taxi
thẳng đến bến xe thì vừa kịp một xe đò sắp sửa
rời bến để về Rạch giá.
Chuyến xe bị chậm vì phải dừng
lại khá lâu ở hai bến phà và đến Rạch giá thì trời
đã về chiều. Không còn xe nào dám về Kiên lương vào
giờ nầy. Đoạn đường nầy không an ninh khi màn đêm
buông xuống, nhất là khi đi ngang qua Hòn đất, một căn
cứ địa của Việt cộng. Tân phải đành tìm chỗ trọ
ở thị xã và sáng hôm sau mới tiếp tục cuộc hành
trình.
Đêm hôm đó, cậu lấy lá thư
của Mai ra đọc.
Sài gòn, ngày 15
tháng 10 năm 1963
Anh Tân thân yêu,
Em phải dành nhiều tháng mới
gom đủ lòng can đảm để viết lá thư nầy cho anh. Em
không rõ rồi đây lá thư nầy có đến được tay anh hay
chỉ là nơi chôn cất lặng yên và vĩnh viễn tâm sự của
một người đàn bà đã trải qua nhiều tháng năm đau khổ
vì tình yêu.
Trước hết em muốn quay ngược
dòng thời gian để trở lại với những ngày hoa bướm
của tuổi học trò. Thuở ấy, hầu hết bọn con gái
chúng em đều để ý đến anh. Anh có cái tướng vừa
ngang tàng, vừa hiền dịu, đôi mắt anh trong sáng nhưng
hình như chất chứa một nỗi niềm sâu thăm thẳm, nét
mặt anh nghiêm nghị nhưng nụ cười của anh thì đầy vẻ
bao dung. Tất cả những điều đó cho anh một sức quyến
rũ làm cho em xao xuyến mỗi lần có dịp gần gũi anh. Lúc
đầu sự xao xuyến đó chỉ là một nét lãng mạn hết
sức thơ ngây, nhưng nó lớn dần lên và trở thành tình
yêu đầu đời trong lòng em lúc nào em không rõ.
Thế rồi, em biết anh là người
của cách mạng và em không hề đắn đo đi theo con đường
mà anh đang đi. Đó, anh thấy nực cười cho cái gọi là
“giác ngộ cách mạng” của em chưa?
Người cộng sản bảo con đường
cách mạng là con đường vinh quang, nhưng đối với em, đó
là con đường đau khổ. Với anh, đó cũng là con đường
đau khổ phải không anh? Chính Bính đã nói cho em biết
như thế. Và anh đã can đảm từ bỏ con đường đau khổ
đó bằng cái giá phải trả là nhiều năm tù tội. Riêng
em, em cũng phải trả một giá quá đắt là sự trinh trắng
của đời người con gái.
Anh đã dẫn em vào con đường
cách mạng và anh đã vào tù với mục đích từ bỏ con
đường đó mà em đâu có hề hay biết. Vì vậy, sau khi
anh bị bắt và chịu đựng tra tấn thì em vẫn cố gắng
hoạt động để xứng đáng là người đồng chí nhỏ bé
của anh. Lúc đó cơ quan an ninh hoạt động mạnh và hữu
hiệu; quá nhiều cơ sở cách mạng bị đập bể tan tành,
anh Đảnh đưa em chạy trốn và em phải trải qua những
ngày oan nghiệt. Em xin anh tha thứ cho em. Lúc nào em cũng
yêu anh, cả trong những ngày oan nghiệt ấy. Nhưng em là
một người con gái yếu đuối, làm sao em có thể tự bảo
vệ được mình trong hoàn cảnh cực kỳ gay go đó được.
Em không trách ai cả. Em cho đó
là số phận. Số phận đã phết lên cuộc đời em một
vệt đen kinh khiếp, gây nên nỗi đau đớn không phải
riêng cho em mà cho mọi người thân thiết của em. Cũng vì
em mà má em sớm từ bỏ cõi trần. Lúc đó, em có ý nghĩ
tự kết liễu cuộc đời mình nhưng không nỡ giết chết
luôn cái bào thai đang mỗi ngày một thành người trong
bụng em. Em khất cái chết lại cho đến khi đứa bé ra
đời. Nhưng em không ngờ, sau khi chào đời, thằng Bình
tạo cho em một tình mẫu tử nhiệm mầu, giúp em từ bỏ
ý nghĩ điên rồ và tạo cho em một sự can đảm để
chịu đựng nốt cuộc đời ở trần thế nầy. Lạ lùng
hơn nữa, thằng bé lại làm nẩy nở nhanh chóng tình yêu
thương nơi ông ngoại và cậu Bính của nó. Em nghĩ đó
là phép lạ của đấng thiêng liêng. Tình yêu thương của
người thân, cộng thêm với lòng tin tưởng về một đấng
thiêng liêng giúp cho em ổn định tâm lý và dần lấy lại
niềm vui sống. Em vui sống, không phải cho em mà cho ba em,
cho Bính và cho bé Bình của em nữa. Em nguyện dành tất
cả cuộc sống còn lại của em cho những người thân đó.
Tuy nhiên, cuối cùng em không thể
từ bỏ được ước mong sau rốt cho riêng mình. Đó là
được anh cầm tay và nói “yêu em”.
Chỉ có thế thôi và em không hề
đẩy xa ước mơ mình hơn nữa. Than ôi, ước mơ đó có
quá lớn để em có thể kết thúc mối tình đầu đã kéo
dài suốt tám năm trường đăng đẳng?
Từ hai năm nay, có đại úy Thế
đến làm quen với em và ngỏ ý muốn cưới em làm vợ.
Anh Thế đang làm ở tổng tham mưu. Đó là một sĩ quan có
cách ăn nói, đi đứng nghiêm trang và dễ mến. Anh ấy đã
có vợ và họ đã chia tay sau hai năm chung sống và chưa
kịp có con với nhau.
Lần đầu tiên, anh Thế ngỏ
lời, em đã từ chối thẳng thừng. Em từ chối không
phải vì còn chờ anh Đảnh đâu. Không, dù thằng Bình là
con của anh ấy nhưng em không bao giờ có ý nghĩ làm vợ
suốt đời với anh ấy; điều nầy từ lâu trở thành
cơn ác mộng đối với em.
Em từ chối, cũng không phải vì
chờ đợi anh. Không, ngày nay, em không còn xứng đáng với
anh nữa. Em đã phá hỏng cuộc đời của em, đã phá hỏng
tình yêu vô cùng quí giá của mình rồi. Vả lại dù sao
anh Đảnh cũng là đồng chí cũ của anh. Hai anh đã từng
chia sẻ ngọt bùi với nhau, từng sống chết bên nhau,
trước họng súng của kẻ thù lúc đó.
Không, em từ chối không phải vì
chờ đợi một trong hai anh. Em từ chối vì em muốn dành
cuộc sống còn lại của em cho cha, cho em trai và cho đứa
con của mình. Và vì… -xin anh cho phép- em muốn dành trọn
quả tim cho chỉ một mình hình bóng của anh ngự trị
trong đó mà thôi.
Tuy nhiên, anh Thế là người kiên
nhẫn. Anh ấy tiếp tục thường xuyên đến nhà, gây được
cảm tình với ba em và với bé Bình. Ba em bảo anh Thế có
tình cảm chân thật với ba em và với bé Bình chứ không
phải là giả dối để lấy lòng em. Một hôm ba nói với
em:
- Ba thấy đại úy Thế là người
đứng đắn. Ông ấy có ý tiến tới hôn nhân với con
đó. Con nghĩ thế nào?
Em trả lời:
- Không, con không lấy chồng đâu,
con thích sống thế nầy để nuôi thằng Bình và săn sóc
ba.
- Hay là con còn có ý đợi cha
thằng Bình?
- Không, con hoàn toàn chấm dứt
với anh Đảnh rồi. Thực ra giữa con và anh ấy cũng
chẳng có gì đáng để chấm dứt. Con cho rằng việc xảy
ra giữa con và anh ấy chỉ là một tai nạn cho con thôi.
Sau đó, ba thấy rồi, đối với con và thằng Bình, anh ấy
có tỏ một chút trách nhiệm của người chồng, người
cha đâu. Anh ấy bảo rằng còn phải hi sinh cho cách mạng.
Đó chỉ là một cái cớ thôi. Con đọc trong đôi mắt
anh ấy một sự dửng dưng của người ngoại cuộc đối
với sự sống của con và của thằng Bình.
Em muốn nói thêm với ba em một
ý nữa, nhưng kịp kềm chế lời nói của mình. Anh biết
em định nói điều gì không? Chắc chắn anh không thể
biết và cũng không thể ngờ được. Với ba thì em không
dám nói nhưng đối với anh , em phải nói cho hết lời,
vì đây là những lời tâm sự cuối cùng của em nói với
anh. Câu chuyện thế nầy.
Anh Đảnh về thăm mẹ con em lần
cuối cùng lúc thằng Bình được gần một tuổi. Anh ấy
không có một cử chỉ trìu mến nào đối với con. Thế
mà anh ấy lại gạ gẫm em đi chơi và đến một khách
sạn nào đó. Anh ấy bảo rằng cán bộ đi làm cách mạng
để giải phóng quê hương, chịu bao nhiêu là thiệt thòi
và phải hi sinh tất cả kể cả sinh mạng, nên dân miền
Nam phải có bổn phận giúp đỡ họ, “ủng hộ” họ.
Em đã từ chối vì quá khiếp đảm. Em thầm nghĩ rằng
người con gái nào thích “giải phóng” thì cứ đi “ủng
hộ” họ, còn em chẳng hề thích “giải phóng” thì
chuyện đó chẳng liên can gì đến em. Tuy nhiên, em cũng
xin tiền của Bính (dạo đó em nghèo lắm), sắm sửa cho
anh ấy một ít thức ăn và đồ dùng. Chuyến đó anh ấy
được lệnh ra Bắc và về sau em được tin anh ấy đi
Liên xô học. Chắc chắn, khi trở về, anh ấy sẽ là một
cán bộ cao cấp thống lĩnh một đoàn quân đông đúc trở
vào để “giải phóng” miền Nam!
Đó, cái mà người đời gọi là
tình nghĩa vợ chồng giữa em và anh Đảnh là thế đó!
Chuyện thầm kín nầy của đời em, chỉ riêng em biết
thôi. Và anh là người thứ hai.
Nhưng tại sao em lại đi nói
chuyện đó với anh? Vì em muốn như thế. Vì em đã rất
đau khổ, lắm lúc đau đến độ muốn từ giã ngay cõi
đời nầy. Nói ra được với anh điều nầy, em hi vọng
vơi bớt đau khổ trong lòng. Em muốn anh hiểu rằng em là
một đứa con gái hư hỏng chỉ về thể xác thôi còn tâm
hồn em chưa hư hỏng và tình yêu đầu tiên vẫn âm ỉ
cháy trong tim em.
Em xin trở lại câu chuyện với
ba em.
Sau khi trình bày cho ba em rõ là
giữa em và anh Đảnh không có chút gì gọi là tình nghĩa
vợ chồng và thằng Bình là con riêng của em thôi vì chỉ
một mình em nuôi nấng nó từ khi còn trong bụng cho đến
bây giờ. Nó không phải là con của anh Đảnh dù phân nửa
cơ thể của nó là di sản của anh ấy.
Nghe em nói, ba em rơm rớm nước
mắt. Em biết ba em thương em vô cùng vô tận. Lúc nhỏ ba
em thường cõng em trên lưng đi khắp xóm. Có một lần,
em bị bệnh nặng và lên cơn sốt mê man. Khi tỉnh dậy,
mở mắt ra vào ban đêm, em thấy một đôi mắt đăm đăm
nhìn em. Em đưa hai tay lên, đôi mắt hạ sát xuống mặt
em. Em được nâng lên và nhận thấy hai giọt nước ứa
ra từ đôi mắt ấy. Đôi mắt của ba em!
Chuyện đó xảy ra lúc em mới
bốn tuổi, thế mà em vẫn còn nhớ đến tận bây giờ
và chắc chắn cả đến khi đầu tóc em bạc phơ. Tình
thương của ba em đối với em thực là bao la và đôi mắt
của cái đêm xa xưa đó đã gây xúc động rất mạnh
trong đầu óc non dại của em. Bây giờ, nhìn thấy ba em
rơm rớm nước mắt, hình ảnh xa xưa kia vụt trở lại
làm cho tim em như vỡ tung ra. Em ôm mặt khóc nức nở.
Đợi em hết khóc rồi, ba em mới
nói với em, giọng rất bình tĩnh và ôn tồn:
- Thôi được, ba hiểu rồi.
Thằng Đảnh ra Bắc và đi Liên xô học thì khó có thể
trở vào đây được. Nhưng ba không muốn con sống như
người góa bụa thế nầy. Ba muốn trước khi ba nhắm
mắt, à không, ngay từ bây giờ thì tốt hơn, ba được
thấy con sống trong một gia đình đầy đủ, có chồng,
có con để hôm sớm nương tựa lẫn nhau, cả về vật
chất lẫn tình cảm. Đại úy Thế là người chân thật,
con có thể nương tựa suốt đời được. Ba không lầm
đâu. Ba có hỏi kỹ về chuyện ông ấy ly dị vợ trước
đây. Lỗi hoàn toàn do chị vợ.
Em trả lời:
- Với con thì được rồi. Đứa
đàn bà lỡ đường như con mà được làm vợ một đại
úy cũng là điều vẻ vang lắm. Nhưng còn thằng Bình thì
sao? Bây giờ, nó còn nhỏ, chẳng có gì đáng nói nhưng
khi lớn lên nó sẽ phản ứng thế nào khi biết mình sống
nhờ một người đàn ông không phải là cha ruột của
mình?
Ba em trả lời:
- Đó là điều quan trọng mà ba
đã suy nghĩ rất nhiều. Ai cũng cần có một người cha
xứng đáng để được hãnh diện; lúc còn nhỏ thì hãnh
diện với bạn bè cùng lớp, lớn lên thì hãnh diện với
bạn bè cùng nhiệm sở, với người yêu, với vợ con
mình. Thằng Bình không có may mắn được sống với người
cha ruột. Đó là nỗi bất hạnh của nó. Tuy nhiên, nó
mới có sáu tuổi nên nó có thể chấp nhận một người
khác làm cha nếu người đó thực sự yêu thương nó. Nó
càng lớn lên thì sự chấp nhận càng khó khăn hơn.
Thấy ba em tỏ ra tha thiết và
nôn nóng về việc nầy, em không nỡ từ chối nhưng cố
gắng trì hoãn để tìm phương kế khác. Em thưa với ba
em:
- Con không phản đối nữa nhưng
con phải hỏi ý kiến em Bính trước đã rồi mới quyết
định. Chính nhờ nó mà đời sống của mẹ con của con
mới được như ngày nay. Nếu nó đồng ý thì con đồng
ý, nếu nó không đồng ý thì nhất định con từ chối.
Ba em cười ha hả:
- Con khỏi hỏi. Chắc chắn là
nó đồng ý rồi. Ngay từ khi ba còn miễn cưỡng coi thằng
Đảnh là con rể thì nó đã cương quyết phản đối. Nó
nói giữa con và thằng Đảnh chẳng có gì gọi là vợ
chồng và sự ra đời của thằng Bình chỉ là kết quả
đáng thương của một tấn thảm kịch mà thôi. Nó cũng
vài lần khen tính tình của đại úy Thế. Dù nó chưa nói
thẳng ra nhưng ba biết nó muốn đại úy Thế trở thành
anh rể của nó.
Em vẫn tìm kế hoãn binh:
- Không, con phải trực tiếp nghe
được ý kiến của em Bính bằng cách gặp mặt hay bằng
lời thơ cũng được.
Câu chuyện trên đây giữa hai
cha con em xảy ra cách nay vừa đúng một tháng rưỡi. Em
vừa lấy giấy viết thư cho Bính thì cậu ta ngoài cửa
bước vào. Rõ ràng là định mệnh. Em ngồi bất động
và sửng sốt, không tin vào mắt mình thì nó quăng cái
túi xuống đất, la to: “Chị Mai”, và chạy ào vào ôm
đầu em hôn tới tấp vào tóc em. Ba em bước ra. Hai cha
con ôm chầm lấy nhau. Sau khi buông ba ra, Bính hỏi:
- Bình đâu chị Mai?
- Bình đi học, chiều chị mới
rước về.
Buổi chiều, Bình đi học về,
hai cậu cháu vui mừng tíu tít, em cảm động quá, phải
cố gắng lắm mới ngăn được nước mắt. Đúng lúc đó,
đại úy Thế từ tổng tham mưu về chơi. Lại cũng là
định mệnh. Bính khoe là mới được chuyển vào Nam, đơn
vị đang ở Kiến hòa và nó trốn về thăm nhà. Đại úy
thế cười:
- Trước mặt một đại úy tổng
tham mưu mà cậu dám nói trốn đơn vị về nhà, chuẩn úy
không sợ đại úy bắt nhốt sao?
Bính vụt đứng dậy, đưa tay
chào:
- Dạ, đại úy nhốt thì em đành
chịu. Nhưng đại úy hãy chịu khó về Kiến hòa chỉ huy
trung đội giùm em. Nếu Việt cộng đánh vào mà em bị
đại úy nhốt ở đây thì ai chỉ huy trung đội của em
dưới đó?
Cả ba người đàn ông cười ha
hả như họ đã quen thân nhau từ nhiều kiếp trước. Nhà
binh của các anh thật là ngộ, gặp nhau là có thể thân
mật với nhau một cách dễ dàng. Thấy ba người thân mật
như thế, em cảm thấy số phận mình sắp được an bài.
Bính tiếp tục kể chuyện chiến
trường, chuyện băng suối vượt non ngoài Trung, chuyện
lên máy bay vào Nam. Đại úy Thế nói đã biết kế hoạch
của tổng tham mưu đưa hai sư đoàn từ ngoài Trung vào
tăng cường cho trong Nam. Đại úy hỏi Bính có muốn về
chỗ yên ổn không thì đại úy sẽ vận động cho. Nó
lắc đầu. Nó nói còn một người bạn hết sức thân
thiết ở đơn vị không thể xa rời được. Em biết nó
nói đến anh, em nghe nhói đau trong lòng. Nó nói tiếp rằng
hai anh em tự nguyện đi vào chiến tranh một thời gian để
chia sẻ thân phận bi đát của người miền Nam và làm
nhân chứng lịch sử cho một giai đoạn cốt nhục tương
tàn. Nghe nó nói, đại úy Thế gật đầu tỏ vẻ cảm
động.
Ba em không bỏ lỡ dịp. Ông vào
đề:
- Hôm nay thực là may mắn, có
thằng con trai của tôi về, lại gặp đại úy đến chơi.
Tôi muốn bàn bạc ngay vấn đề đại úy muốn tiến tới
hôn nhân với con Mai nhà tôi. Đây là việc quan trọng nên
cần có ý kiến của tất cả mọi người trong gia đình.
Gia đình thì ngoài con Mai ra chỉ còn tôi và thằng Bính
đây thôi. Tôi đồng ý rồi. Con Mai bảo phải đợi ý
kiến của em nó. Bây giờ, thằng Bính về đây, thực là
may mắn. Đáng lẽ chuyện nầy chúng tôi bàn riêng trong
gia đình, trước khi thông báo đến đại úy, nhưng Bính
về kỳ nầy quá gấp, chỉ được một ngày thôi nên tôi
muốn vấn đề được giải quyết ngay bây giờ thì hay
hơn. Vả lại đại úy và thằng Bính đều là sĩ quan
Cộng hòa. Đã là quân nhân thì ai cũng có tính ngay thẳng,
không rụt rè giấu giếm, thế thì cần gì phải có
chuyện bàn riêng?
Ba em dừng một chút để dò phản
ứng của mọi người. Em thì mắc cỡ quá muốn bỏ xuống
bếp nhưng không dám vì em biết đây là giây phút cực kỳ
quan trọng cho cuộc sống của hai mẹ con em sau nầy. Em
đành ngồi yên ôm chặt lấy thằng Bình.
Thấy mọi người im lặng, ba em
hỏi:
- Đại úy Thế, đại úy có bằng
lòng bàn công chuyện hôm nay không?
Đại úy trả lời:
- Thưa bác, chẳng những bằng
lòng không thôi mà con còn vui mừng và cám ơn bác nữa.
Con muốn chuyện nầy ngã ngũ càng sớm càng tốt.
- Được rồi, còn Mai, con nghĩ
thế nào?
Em cúi gầm mặt xuống gật đầu.
Ba em hỏi tiếp:
- Sau cùng là Bính, con đồng ý
bàn bạc hôm nay để đi đến quyết định dứt khoát vấn
đề của chị con không?
Bính ngẩng đầu lên:
- Con đồng ý.
Ba nói tiếp:
- Thế thì con nói trước ý của
mình đi.
Bính quay sang em, đưa cả hai tay
ra:
- Bình, cháu qua đây với cậu.
Thằng Bình ngoan ngoãn bước
sang. Bính cẩn thận đặt nó ngồi vào lòng và nói một
cách trịnh trọng:
- Thưa ba, con mới gặp đại úy
Thế lần nầy nữa là ba lần. Tuy chưa nói chuyện được
nhiều nhưng đại úy đã cho con ấn tượng đầu tiên
thực tốt đẹp. Thêm nữa, qua những nhận xét của ba,
con nghĩ rằng đại úy là người đáng kính. Chị Mai được
chung sống với đại úy là điều đáng mừng và con tin
rằng hai người sẽ có hạnh phúc lâu dài. Tuy nhiên….
Bính cúi xuống hôn tóc cháu Bình
rồi nói tiếp:
- Hạnh phúc của chị Mai là đáng
quí nhưng điều con quan tâm hơn cả là thằng cháu Bình
đây. Nó là cục vàng, cục ngọc của con. Chấp nhận hôn
nhân là quyền của chị Mai và của ba, con không có quyền
phản đối. Tuy nhiên, hỏi con có vui lòng hay không thì
câu trả lời tùy thuộc vào giải pháp cho cháu Bình đây.
Ba em ngắt lời:
- Giải pháp thế nào cho cháu
Bình thì làm cho con vui lòng?
Bính ngẩng lên, giọng thực
nghiêm trang:
- Đại úy Thế, anh có thể nhận
cháu Bình làm con chính thức của anh không?
Đại úy Thế không trả lời mà
từ từ đứng lên, bước đến bên Bính, đưa hai tay bế
bé Bình lên, hôn vào trán nó và dõng dạc:
- Nếu mẹ nó đồng ý thì đứa
bé nầy là con chính thức của tôi. Ngay khi mẹ nó gật
đầu thì tôi sẽ bế đứa bé đáng yêu nầy đến tòa
Hòa giải rộng quyền, xin quan tòa ra án quyết đổi khai
sanh của nó lại. Nó sẽ mang họ Huỳnh Đức của tôi.
Tôi sẽ chăm sóc nó, ít nhất cho đến tuổi trưởng
thành.
Đại úy trả bé Bình lại cho
cậu nó và trở về chỗ ngồi. Ba em và Bính rơm rớm
nước mắt vì cảm động, còn em thì ôm mặt khóc òa.
Thôi em không cần nói tiếp nữa
vì đến đây anh cũng hiểu câu chuyện kết thúc rồi.
Sau khi ăn cơm chiều xong thì trời
tối hẳn, cháu Bình ngồi chơi với ông ngoại, em rủ
Bính lên sân thượng để nói chuyện. Em nói với Bính
rằng đối với đại úy Thế em chỉ mới có lòng kính
mến chứ chưa có tình yêu. Theo lời khuyên nhủ của ba
và của Bính, em sẽ sống chung với đại úy, nếu tình
yêu không đến được thì liệu có hạnh phúc hay không?
Bính nói:
- Rồi dần dần chị sẽ có tình
yêu. Thông thường tình yêu dẫn đến hôn nhân nhưng cũng
không hiếm trường hợp hôn nhân tạo ra tình yêu. Nếu
tình yêu đến được sau hôn nhân thì đó là tình yêu
bền vững vì nó được kết tinh từ cuộc hôn nhân hài
hòa. Còn loại tình yêu đến trước hôn nhân thì sôi
nổi, nên thơ lắm nhưng rủi cuộc sống giữa hai vợ
chồng không được hài hòa thì tình yêu khó có thể duy
trì được.
Em nghe theo lời Bính vì nó nói
về tâm lý nghe rất hay và hữu lý. Tuy nhiên, em nói với
Bính rằng, đối với em, dù có sống chung với đại úy
Thế đi nữa, tình yêu khó đến được nếu mối tình
xưa cũ chưa đi đến kết thúc. Bính hiểu ngay là em muốn
nói tình yêu của em đối với anh. Tuy nhiên cậu ta hiểu
lầm ý em nên có vẻ giận và hơi lớn tiếng:
- Chị bảo thế nào là chưa kết
thúc? Chị muốn sống với anh ấy à? Không được đâu,
em hiểu anh Tân rất nhiều. Anh ấy yêu chị vô cùng nhưng
tình yêu của anh ấy vẫn giữ y nguyên nét tinh khiết của
buổi ban đầu. Không được đâu, thằng Bình là con của
anh Đảnh, đồng chí cũ của anh ấy mà.
Bính kể lại nét mặt sững sờ
và đau khổ của anh, lúc anh còn ở tù, khi nghe Bính báo
tin em sắp có con với anh Đảnh. Sau đó, mỗi lần Bính
nhắc đến em là trên nét mặt anh lại hiện lên vẻ đau
đớn. Tuy nhiên anh và em không thể sống chung với nhau
được, Bính nhấn mạnh điều đó nhiều lần và kết
luận là chúng mình nên gói ghém tình yêu đó thực kỹ
lưỡng và cất vào nơi kín đáo nhất của tâm hồn mình.
Nghe Bính nói, em cảm thấy được
an ủi khá nhiều và nghĩ rằng cần thanh minh với Bính:
- Không, chị không bảo tình yêu
của chị với anh ấy sẽ kết thúc bằng hôn nhân đâu.
Bính xẵng giọng:
- Thế chị muốn kết thúc tình
yêu với anh Tân bằng cách nào?
- Chị muốn gặp riêng anh ấy
một lần.
- Để làm gì?
- Để chị nói với anh ấy rằng
chị đã yêu anh ấy từ thuở còn con gái cho đến bây
giờ.
- Thế thôi à?
- Sau đó, chị hỏi anh ấy còn
yêu chị nữa không? Còn hay hết cũng không sao, miễn chị
được nghe chính lời của anh ấy mà thôi.
- Rồi sao nữa?
- Chị sẽ nói lời từ biệt để
đi lấy chồng.
Bính cười:
- Chị bị lậm tiểu thuyết lãng
mạn hơi nhiều rồi đó. Nhưng không sao, nguyện vọng của
chị cũng đứng đắn và có thể thực hiện được. Em
sẽ về đơn vị và đề nghị anh Tân về thăm gia đình
mình một chuyến.
- Nhưng có thể anh ấy không về.
Chị nhớ trong suốt mười tháng ở quân trường, em có
mời anh ấy về nhà mà anh ấy từ chối vì không muốn
gặp mặt chị. Em đã nói với chị một lần như thế
kia mà, em không nhớ sao?
- Dạ, em nhớ rồi. Lần nầy thì
em sẽ nói với anh Tân là ba hơi yếu và nhắn anh ấy về
thăm ba. Chắc chắn, anh ấy sẽ về.
- Em nỡ nói láo với anh Tân sao?
- Nói láo mà vô hại thì không
hề gì. Sau đó, xong việc cho chị rồi thì em sẽ xin anh
Tân tha lỗi cho em. Được việc cho chị là em cứ làm.
- Chị cám ơn em.
- Chị khỏi phải cám ơn. Từ
khi mẹ không còn nữa thì em dồn luôn cho chị tình thương
mà em dành cho mẹ trước đây. Chị đang giữ của em hai
khối tình thương khổng lồ. Em hành động có lợi cho
chị mà cũng để thỏa mãn hai khối tình thương khổng
lồ đó.
Một lần nữa, em lại chảy nước
mắt vì lời nói của đứa em trai.
Bính trở về đơn vị được
vài hôm là em bắt đầu trông ngóng anh. Em mong anh buổi
sáng, em mong anh buổi trưa, em mong anh buổi chiều. Sau một
tháng, đại úy Thế đến xin ba em cho làm lễ hỏi với
em. Em xin hoãn lại một tháng. May quá, em vừa mới mua rẻ
được một lô hàng rất lớn mà người ta lấy được
từ trong PX của Mỹ ra. Hàng chất đầy nhà, bít cả
đường đi nên em lấy đó làm cớ để xin hoãn lễ hỏi.
Em nghĩ rằng sau một tháng, em không thể trì hoãn lần
thứ hai và em không còn hi vọng gặp anh trước lễ hỏi
được.
Thế là em lấy giấy ra viết lá
thư này cho anh. Nguyện vọng của em là được gặp anh để
nói lời từ giã rồi đi lấy chồng. Nhưng không được
thì đành thôi vậy. Em biết tình hình đang rất căng
thẳng, chiến sự rộn ràng khắp nơi ở đồng bằng Cửu
long, nhiệm vụ người lính chiến quá trọng đại so với
nguyện vọng nhỏ nhoi của một người đàn bà. Với lá
thư nầy, em xin kết thúc tình yêu của em đối với anh.
Không, em không kết thúc mà làm theo lời Bính, em gói ghém
lại kỹ lưỡng và cất suốt đời ở nơi kín đáo và
trang trọng nhất của tâm hồn em.
Người yêu bé
nhỏ của anh
Nguyễn
thị Bạch Mai
Tân xếp lá thư lại, mở to mắt
nhìn quanh. Dưới ánh sáng của bóng đèn duy nhất từ
trần nhà rọi xuống, cậu thấy ba người trọ cùng phòng
đều đang ngủ say. Cậu se sẽ mở cửa bước ra ngoài,
buồn bã nhìn con đường phố vắng lặng trong giờ giới
nghiêm. Trong không gian tĩnh mịch, cậu nghe xa xa tiếng
sóng biển vỗ vào bờ. Cậu trở vào cầm lá thư lên áp
vào mặt và cảm thấy hương thơm ngào ngạt, hương thơm
từ cơ thể người thiếu phụ yêu kiều mà sáng nay cậu
đã say sưa siết chặt vào ngực mình.
*
* *