Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2017

Chương 8: Chiến trường đồng bằng (1)



Một cuộc chiến tranh dài
Tập III
Chương 8: Chiến trường đồng bằng
(1)

Sau gần hai giờ bay, phi cơ hạ thấp xuống, nhà cửa và đường đi bên dưới rõ dần. Có tiếng bàn tán xì xào trong đám lính:
- Sắp tới rồi.
- Có phải phi trường Tân sơn nhất của Sài gòn không?
- Không phải đâu. Chung quanh Tân sơn nhất có rất nhiều nhà cửa. Ở đây chỉ thấy toàn là ruộng ngập nước. Kìa kìa, có một thành phố ngay bên dưới. Thành phố nầy nhỏ, nhất định không phải Sài gòn.
Máy bay tiếp tục hạ xuống. Gần ngang tầm cửa sổ, những bụi cây, những bờ đất phóng chạy về phía sau như điên cuồng. Phi cơ tiếp đất, chạy chậm lại và dừng hẳn ở cuối phi đạo. Tấm bửng ở phía sau bụng phi cơ hạ xuống, binh lính lần lượt chui ra.
Tân tập họp trung đội về một chỗ. Phi đạo tráng nhựa đen ngòm dài thẳng tắp, nổi cao hẳn giữa một vùng đất hoang ngập nước, với những đám cỏ dại xanh rì. Xa xa, vài chiếc phi cơ nằm im lìm cạnh hai dãy nhà tôn vắng vẻ. Gần đó, trung úy Bá và chuẩn úy Tám đang đứng cạnh người lính mang máy truyền tin. Tân đến chỗ Bá, hỏi:
- Anh Bá, đây là nơi nào?
- Phi trường Trúc giang của tỉnh Bến tre.
- Có lẽ đêm nay, chúng ta phải đóng quân tại phi trường nầy. Mọi nơi đều ngập nước cả. Vậy là mình phải cho lính cắm lều ngủ trên phi đạo.
Trung úy cười:
- Không bao giờ người ta cho phép ngủ trên phi đạo đâu. Ban đêm phi cơ vẫn có thể lên xuống mà. Đợi cả tiểu đoàn vào đủ rồi thì chúng ta sẽ phải di chuyển ra khỏi phi trường để tìm chỗ đóng quân trong một làng nào đó ở gần đây.
- Trong làng thì làm sao tìm được một chỗ trống đủ rộng để lập doanh trại cho cả một tiểu đoàn?
Chuẩn úy Tám nói:
- Trong miền Nam không có doanh trại cho các tiểu đoàn lưu động. Đi đâu cũng sống chung với dân. Binh sĩ và hạ sĩ quan thì căng võng mà nằm ngoài vườn, sĩ quan thì được xin vào ngủ trong nhà của dân.
Tân tỏ ra thích thú:
- Sống như thế thì vui hơn đi hành quân và đóng trại trong rừng núi hoang vu.
- Vui thực, nhưng phải luôn luôn đề phòng. Du kích và cán bộ Việt cộng cũng sống chung với dân. Chúng thường trốn trong các hầm bí mật đào ngoài vườn, cạnh bờ ao và ngay cả trong nhà nữa. Tôi đã từng hành quân nhiều năm trong Nam nên biết rất rõ. Có một lần xảy ra một chuyện vừa rùng rợn lại vừa buồn cười.
Tân nghe đến chuyện rùng rợn thì nói ngay:
- Chuyện gì rùng rợn, anh Tám kể cho em nghe đi trong khi chờ đợi cả tiểu đoàn mình đến.
Chuẩn úy Tám nói một cách chậm rãi:
- Câu chuyện xảy ra cách nay khoảng ba năm, lúc tôi còn là trung đội trưởng của sư đoàn Bảy. Trong một cuộc hành quân, tôi dẫn trung đội vào đóng trong một nhà dân có vườn rất rộng. Lính đều căng võng ngủ ngoài vườn còn tôi thì xin vào ngủ bên trong. Nhà thì có hai cái, một cái lớn lợp ngói rất khang trang và một cái nhỏ lợp lá, gần như bỏ trống. Tôi xin vào ngủ một mình trong nhà nhỏ lợp lá, trong đó chỉ có một bộ ván gỗ cũ kỹ, mặt ván có nhiều lỗ mọt, bên dưới chất đầy các dụng cụ làm vườn. Tôi là đứa sợ rệp còn hơn sợ Việt cộng nên không dám nằm trên bộ ván. Thấy mặt đất của nền nhà khá sạch nên tôi trải tấm vải nhựa nằm ngay bên dưới sát cạnh bộ ván. Thông thường, tiểu đoàn chính quy đi đến đâu cũng chỉ nghỉ lại một đêm rồi sáng tiếp tục hành quân. Không ngờ lần đó đơn vị dừng lại nhiều ngày. Đến bữa trưa của ngày thứ ba, tôi ăn cơm xong, nằm dỗ giấc ngủ thì thấy đống dụng cụ làm vườn dưới bộ ván nhúc nhích. Tôi vội nhỏm dậy và nhớ ngay rằng nhà nầy không nuôi con chó hay con mèo nào cả. Tôi vội rút súng lục ra lên đạn và ló đầu ra bên ngoài cửa dùng tay ra hiệu cho lính bao vây gian nhà. Đống dụng cụ tiếp tục động đậy mạnh hơn, một cây cuốc lăn lông lốc ra ngoài. Tôi hướng nòng súng vào đó bắn một phát. Bỗng trong đống dụng cụ, có tiếng la thất thanh: “Đầu hàng, đầu hàng, cho tôi ra, chịu hết thấu rồi.”
Tân hồi hộp hỏi:
- Việt cộng đang núp trong hầm bí mật phải không?
- Đúng rồi. Lúc đó, tôi la to: “Nằm im không được nhúc nhích”. Tôi cho lệnh siết vòng vây chung quanh nhà, súng lên đạn sẵn sàng. Trong nhà chỉ có tôi và một thằng binh nhì. Nó cẩn thận rút từng dụng cụ quăng ra ngoài. Một nắp hầm vuông vức đã hơi bị lệch sang một bên. Tôi ra lệnh: “Dở nắp chui ra, hai tay cầm vũ khí đưa lên khỏi đầu”. Tôi hồi hộp căng mắt ra nhìn, đề phòng hắn quăng lựu đạn lên thì lập tức phóng ra cửa. Tấm nắp hầm nặng nề được nâng lên và xê dịch sang một bên. Hai cánh tay trần nâng cây carbin ló lên rồi tới một đầu tóc bù xù. Thằng binh nhì của tôi vội chui xuống ván chụp lấy cây súng và nắm tay thằng Việt cộng định lôi lên. Bỗng thằng binh nhì la cái oái thực to rồi bỏ thằng Việt cộng lại, cầm cây súng chui ra. Tôi hét : “Tại sao mày không túm lấy nó?”. Thằng lính quay lại, tay bịt mũi nói: “Thúi lắm, không chịu nổi”. Bây giờ tôi mới ngửi thấy mùi phân người từ dưới hầm bí mật xông lên mỗi lúc một nồng nực.
Chuẩn úy Tám ngưng nói, cười sằng sặc. Tân hỏi tiếp một cách sốt ruột:
- Rồi sao nữa?
- Thì nó phải tự chui ra, nét mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn. Tôi cho lính dẫn nó ra bờ ao để tắm rửa rồi dẫn nó về giao cho tiểu đoàn . Sau đó, theo lời anh sĩ quan an ninh kể lại, nó khai rằng bên dưới hầm chẳng còn gì cả ngoài một ít nước uống ở đáy của một cái thùng. Thức ăn thì hết từ ngày hôm qua, nhưng nó bảo có thể nhịn đói ít nhất là hai ngày nữa. Sức chịu đựng của nó về ăn uống thực là đáng nể. Nhưng nó không thể giải quyết được cái món thối tha mà cơ thể nó buộc phải thải ra hằng ngày. Trong cái khoảng không gian nhỏ bé vừa một người ngồi đó, chất thải tích trữ trong quần nó ngày nầy qua ngày khác làm cho nó không thể chịu đựng được nữa nên đành phải ngoi lên từ giã “cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi” của nó.
Chuẩn úy Tám và trung úy Bá cười ha hả. Tân cũng muốn cười theo để gọi là hòa đồng với người khác. Tuy nhiên, cậu vẫn đứng yên chăm chú nhìn chiếc phi cơ đang hạ cánh xuống phi đạo. Cậu cảm thấy trong lòng mình nỗi xót xa cho thân phận con người hơn là sự vui thích vì câu chuyện lý thú.
Trung úy Bá hình như chưa thỏa mãn với sự kết thúc câu chuyện. Anh hỏi chuẩn úy Tám:
- Anh nằm kế đó ngủ cả đêm mà không ngửi thấy mùi hôi à?
- Không có mùi gì cả. Cái nắp đậy rất kín. Nếu không có đống dụng cụ bên trên thì cũng khó nhận ra được.
- Cái hầm bí mật nhỏ xíu chỉ vừa một người ngồi thì làm sao đủ không khí cho tên Việt cộng đó?
- Khi đưa nó đi rồi, tôi mới sực nghĩ đến điều đó nên sai lính dở bộ ván ra xem xét thực kỹ. Cuối cùng, lính phát hiện ra một lỗ thông hơi được che đậy rất khéo, ngay sát vách và nằm bên ngoài gian nhà, nên tôi nằm phía trong không có mùi gì cả.
Chuẩn úy cười và nói tiếp:
- Về sau nầy, tôi vẫn giật mình khi nhớ lại, trong ba đêm liên tiếp, tôi và hắn, hai kẻ thù đang tìm cách hại nhau lại ở kế cận bên nhau không quá một mét. Sau khi đưa tên Việt cộng đi rồi, tôi cho lính đào đất bên ngoài vào lấp cái hầm lại. Đêm hôm đó tôi nằm tại chỗ cũ, thao thức mãi không ngủ được. Đến nửa đêm, tôi đành phải mang đồ đạc ra ngủ ngoài sân. Cũng may, lúc đó đang giữa mùa nắng.
- Sau đó, anh và an ninh của tiểu đoàn có bắt chủ nhà không?
- Không bắt nhưng chúng tôi có tra hỏi. Chủ nhà bảo rằng chẳng bà con gì với tên Việt cộng đó và cũng không biết hắn từ đâu đến. Hắn yêu cầu cho đào hầm bí mật để ẩn núp và chủ nhà không thể từ chối được. Thế là thôi, không điều tra nữa.
Trung úy Bá vẫn còn thắc mắc:
- Tôi nghe nói an ninh quân đội luôn luôn không bỏ lỡ cơ hội nào khai thác đến cùng để hỗ trợ cho ban Hai mà.
- Khai thác trực tiếp tên Việt cộng đủ rồi. Ai cũng hiểu rằng chủ nhà chẳng biết gì nhiều. Họ sống trong vùng mất an ninh, Việt cộng xách súng tới thì muốn làm gì mà chẳng được. Thậm chí có nơi, Việt cộng còn nhảy lên bàn thờ của người ta kéo màn che lại để trốn, dân đau đớn lắm nhưng chẳng dám hé môi. Mình không thể trách dân được mà phải tự trách mình không đủ sức bảo vệ dân. Chúng tôi cũng không muốn chủ nhà khai thêm bất cứ điều gì vì có thể tới tai Việt cộng thì tính mạng chủ nhà sẽ lâm nguy. Mình không bảo vệ được họ đã là một tội lỗi rồi, nỡ nào dồn họ vào sự nguy khốn nữa. Đôi khi tôi nghĩ rằng trong cuộc chiến với kẻ thù xảo quyệt mà chúng ta còn bị trói buộc bởi lòng nhân đạo thì khó đi đến chiến thắng. Nhưng không thể làm khác hơn được.
Trung úy Bá chỉ tay lên trời:
- Thêm một chiếc C130 nữa đến rồi. Đó là chiếc cuối cùng. Thế là cả tiểu đoàn vào đủ rồi. Các anh đi tập họp trung đội mình lại, đừng cho lính đi tản mác. Có lệnh là phải đi ngay, xế bóng rồi đó.
Tân trở về ban lệnh cho trung đội xong thì gặp Bính đi tới. Bính tươi cười:
- Đây là phi trường Bến tre, anh biết chưa?
- Biết rồi. Khi nãy đến giờ em ở đâu?
- Vừa xuống phi cơ là trung sĩ nhất Mạnh, trung đội phó của em kéo em lại khoe nơi đây là quê hương của anh ấy. Nhà Mạnh ở quận Mõ cày. Anh ấy nói cho em nghe kinh nghiệm hành quân ở vùng đồng bằng nầy. Nguy hiểm hơn nhưng lý thú hơn ở vùng rừng núi. Điều mà em thích nhất khi xuống phi cơ là nơi đây chỉ cách Sài gòn chưa đầy một trăm cây số. Em sẽ về thăm ba em một chuyến. Nhớ ông quá.
- Em làm đơn xin nghỉ phép đi. Ai có thể cấp phép cho sĩ quan nhỉ? Tiểu đoàn hay trung đoàn?
Bính lắc đầu:
- Em có hỏi trung úy Bá rồi. Ở đơn vị tác chiến khó xin phép về thăm nhà lắm. Lúc nào người ta cũng kêu ca thiếu sĩ quan chỉ huy ngoài mặt trận.
- Vậy thì làm thế nào?
- Trốn đi! Trung úy Bá đồng ý cho ba chuẩn úy trong đại đội thay nhau, cứ hai tháng một người trốn về một lần. Vị chi một năm được hai lần về thăm nhà. Mỗi lần chỉ vắng mặt tại đơn vị từ ba đến bốn ngày mà thôi. Trung úy sẽ lờ đi như không hề hay biết gì. Nếu rủi gặp chuyện nghiêm trọng thì rán mà chịu lấy.
- Chuyện nghiêm trọng là thế nào?
- Là đi đường bị Việt cộng hay quân cảnh bắt. Và nếu đụng trận lớn, trung đội bị thiệt hại nặng trong khi mình vắng mặt thì phải ra nhận tội trước tòa án quân sự mặt trận.
- Tại sao chỉ kể ba chuẩn úy thôi, còn trung úy Bá thì sao?
- Trung úy không dám rời đại đội nếu không được cấp phép đàng hoàng. Đại đội trưởng thì gay lắm. Trung đội trưởng mà đi thì có trung đội phó thay thế, còn đại đội thì không có đại đội phó nên đại đội trưởng gánh hết trách nhiệm mọi nơi, mọi lúc. Vả lại, trong các cuộc hành quân của đơn vị chính qui, trung đội luôn luôn đi chung với đại đội còn đại đội thì thường phụ trách một mũi tiến công riêng. Không có đại đội trưởng thì ai chỉ huy. Trung úy Bá nhà mình lại là dân hiện dịch của Võ bị Đà lạt, nghiêm túc hơn dân trừ bị của Võ khoa Thủ đức nhiều. Trong quân đội, Sĩ quan Võ bị luôn luôn được mọi người kính trọng và cấp trên tín nhiệm. Mà quả thực, em nghe nói mọi sĩ quan Võ bị đều xứng đáng với lòng kính phục và sự tín nhiệm đó.
- Thế đại đội trưởng không bao giờ được về thăm nhà à?
- Có chứ nhưng phải được cho phép đàng hoàng. Cùng với tờ giấy phép cấp cho đại đội trưởng là lệnh đề cử người tạm thời thay thế, bằng văn thư hay công điện chính thức để quy trách nhiệm rõ ràng trên chiến trường. Em phải lợi dụng thời gian còn là trung đội trưởng trốn về thăm ba em chứ nay mai lên đại đội trưởng rồi thì khó về lắm.
- Anh sẽ đề nghị với trung úy Bá cho em về trước tiên và sau đó đến phiên anh thì anh cũng cho em về luôn.
- Cám ơn anh.

Có lệnh tập họp và di chuyển. Cả tiểu đoàn được xe chở ra khỏi phi trường, ngang qua thành phố, đến một làng ở ngoại ô. Làng có vẻ trù phú với những nhà ngói cổ xưa nằm trong những vườn dừa sai trái.
Mỗi trung đội được vào đóng trong một khu vườn. Tân dẫn trung đội mình vào một khu vườn rộng rãi với những con mương song song chạy suốt bề dọc, hai bên là hai hàng dừa tàn lá giao nhau, phủ bóng mát xuống làn nước có cá lội tung tăn.
Chủ nhà là một nông dân đứng tuổi. Tân nói với ông:
- Đơn vị chúng tôi hành quân qua đây và được lệnh dừng lại để nghỉ qua đêm. Tôi xin phép bác cho anh em chúng tôi được mắc võng ngoài vườn để nghỉ ngơi.
Ông chủ nhà vui vẻ:
- Được, mấy chú cứ tự nhiên, muốn nghỉ ở đâu cũng được. Chú là sĩ quan chỉ huy phải không? Chú vào nhà mà nghỉ. Vợ chồng con cái chúng tôi ở gian bên nầy, gian giữa là chỗ thờ phượng, còn gian bên kia dành cho khách. Hôm nay, khách là sĩ quan thì cũng vui lắm.
Tân nhìn quanh:
- Cháu muốn xin phép bác gái nữa.
- Ối, khỏi lo. Nói riêng với tôi là đủ rồi. Bà nhà tôi hiền lành và biết thương người lắm.
Ông chỉ tay xuống bếp và nói tiếp:
- Kìa, bả đang lăng xăng đi kiếm củi khô cho lính nấu cơm đó. Chú nói với mấy em trong đơn vị cứ tự nhiên, cần muối mắm hay dao thớt, nồi niêu gì cứ nói với bả, đừng có ngại. Thấy mấy em đi đánh nhau cực khổ mà thương.
Tân cám ơn và bước ra sân tìm trung sĩ Hy. Anh vừa cắt đặt chỗ canh gác xong. Cậu hỏi:
- Xong cả chưa anh Hy?
- Dạ xong rồi. Tôi đã phân xong chỗ đóng quân cho các tiểu đội.
- Dặn anh em canh gác cẩn thận. Chúng ta đóng quân mà không có tuyến phòng thủ rõ rệt.
Trung sĩ cười:
- Không sao đâu chuẩn úy. Vùng nầy còn an ninh lắm, sát nách thành phố mà. Tôi đã hỏi kỹ dân ở đây, Việt cộng chưa bao giờ dám về, chuẩn úy cứ yên tâm. Chuẩn úy mới bệnh xong, cần phải nghỉ ngơi, cho có sức để đi hành quân. Đêm nay mọi việc để tôi lo cho.
- Cám ơn anh.
Quả thực, Tân cảm thấy rất mệt mỏi. Bệnh chưa dứt hẳn lại di chuyển suốt ngày hôm nay. Cơm nước xong, cậu chui vào mùng và ngủ ngon lành.

Tân thức dậy thì trời đã sáng tỏ. Cậu bước ra ngoài, gặp ngay trung sĩ Hy.
- Trong đêm có gì lạ không trung sĩ? Lính đi đâu cả rồi?
- Tôi cho chúng nó đi ra chợ ăn sáng, chỉ còn lại mấy đứa canh gác thôi. Về tới miền Nam, thấy chợ búa hàng quán, lính mình thích quá. À, chuẩn úy Bính mới sang tìm chuẩn úy để đi uống cà phê mà chuẩn úy chưa dậy. Hồi hôm, lúc chuẩn úy ngủ rồi, chuẩn úy Bính cũng có sang tìm, hình như chủ nhà bên đó làm gà mời các sĩ quan nhậu. Lúc đó chuẩn úy ngủ say lắm. Tôi bảo để chuẩn úy ngủ cho có sức chuẩn bị hành quân.
- Cám ơn anh Hy. Anh dặn lính gác coi chừng súng đạn cho anh em. Tôi qua bên chuẩn úy Bính.
- Vâng, chuẩn úy cứ đi, có tôi giữ nhà, không lo.
Tân bước qua nhà kế cận. Vừa thấy cậu, Bính reo lên:
- Anh Tân, khỏe không?
Tân gật đầu:
- Khỏe rồi, nhờ được một giấc ngủ ngon lành suốt đêm.
- Anh vẫn còn xanh xao lắm. Cần phải ăn uống bồi dưỡng.
- Vào đây rồi thì không lo thiếu thốn chất bổ đâu.
- Bây giờ mình ra chợ uống cà phê và ăn sáng đi.
- Rủ anh Bá và anh Tám nữa.
- Hai ông đó đi rồi. Em đợi anh nên chưa đi.
Hai anh em ra chợ, chọn một cái bàn nhỏ đặt riêng bên hè một quán ăn. Bính nói khi vừa ngồi xuống ghế:
- Vào miền Nam em thích quá chừng. Dân chúng tỏ ra rất tốt với quân đội của mình. Họ niềm nở và sốt sắng đến đỗi làm cho em ngạc nhiên và cảm động.
- Gia đình nơi trung đội anh ở cũng vậy. Họ thực tốt và tỏ ra có rất nhiều cảm tình đối với mình. Anh đang suy nghĩ về điều đó. Trước đây, khi còn trong hàng ngũ của cộng sản, anh cứ đinh ninh rằng lòng dân bao giờ cũng hướng về phía Việt cộng. Nhiều năm sau nầy, dù đã từ giã cộng sản, anh vẫn còn định kiến đó. Bây giờ, chứng kiến tận mắt thái độ của người dân đối với quân đội, anh mới nhận ra cái định kiến sai lầm đó đã đeo theo anh bao nhiêu năm trời. Có lẽ dân mình bắt đầu hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản và nhận ra, trong cuộc chiến tranh nầy, chính nghĩa thuộc về bên nào?
Bính lắc đầu:
- Em không nghĩ như thế. Dân chúng ở nhà quê chẳng đủ khả năng để nhận xét như anh nói đâu. Họ không biết chủ nghĩa, chế độ là gì, cũng chẳng quan tâm đến chính nghĩa, phi nghĩa gì cả. Họ không cần biết bộ máy cai trị hiện nay gồm những ai. Đối với họ, chính phủ là mấy ông công chức của mình trong xã, hoặc mấy ông cán bộ Việt cộng thỉnh thoảng lén lút về, những người mà họ nhìn thấy và có thể nói chuyện trực tiếp được. Nếu những người đó tỏ ra đàng hoàng với họ, thế là chính phủ tốt, chế độ tốt. Ngược lại, mấy ông công chức hay cán bộ đó không làm họ vừa lòng thế là chính phủ xấu, chế độ xấu. Ý kiến đó không phải của riêng em mà là của trung úy Bá và anh Lành nữa.
- Anh Lành nào?
- À, em chưa nói với anh. Anh Lành là con ông chủ nhà, nơi trung đội em đóng. Anh ấy là giáo sư triết học ở trường trung học công lập ngoài thị xã Bến tre. Chính bác Năm, ba anh ấy, giới thiệu với em. Em cũng cao hứng giới thiệu anh là chuẩn úy, nguyên là giáo sư trung học, còn em thì có hai chứng chỉ văn khoa. Ôi thôi, bác Năm và nhất là anh Lành mừng quá, vội vàng bắt gà làm thịt mời tất cả sĩ quan. Em qua tìm anh thì anh ngủ rồi, trung sĩ Hy không cho em gọi dậy. Tiếc quá. Anh Lành nói chuyện hay lắm. Một con người uyên bác và sâu sắc, đúng là một giáo sư triết học.︠ Trung úy Bá và chuẩn úy Tám thích lắm, bốn người ngồi uống rượu và nói chuyện đến khuya. Rất tiếc là anh không gặp được anh Lành để thảo luận về cuộc chiến tranh ở Việt Nam hiện tại.
- Chiều nay, anh ấy có về không?
- Không, anh Lành về thị xã dạy luôn năm ngày, thứ bảy mới trở về. Anh ấy đang soạn tiểu luận cao học. Em nghe nói mê quá chừng. Không biết chừng nào em mới được trở về đi học lại. Nếu mình còn ở tại đây lâu ngày thì anh có dịp gặp anh Lành.
- Theo ý kiến anh Lành thì dân chúng ở tỉnh Bến tre nầy, hiện nay ngã về bên nào?
- Em đã trình bày với anh rồi đó. Dân không có một chính kiến nào cả. Ai tốt với họ thì họ theo, thế thôi. Việt cộng rất hiểu điều nầy nên luôn luôn giáo dục đội ngũ cán bộ của họ phải rán sức tỏ ra có lòng tốt đối dân. Chung quy, đó chỉ là một trò lừa bịp rộng lớn và tinh vi nhưng họ đã đạt được hiệu quả rất khả quan. Đa số cán bộ của họ được dân che chở và tiếp tế để họ theo đuổi cuộc chiến tranh mà họ đang gây ra ở miền Nam nầy. Anh Lành bảo rằng họ đã dùng xảo thuật để thu phục lòng dân và khi đã đạt được kết quả rồi thì họ bèn rêu rao rằng dân chúng thích cộng sản, dân thù ghét đế quốc tư bản. Dân có biết gì là cộng sản hay tư bản đâu. Họ đem mấy cái thứ quỷ quái đó gắn vào những tấm lòng đơn sơ, chân thật và hồn nhiên của dân quê mình.
- Nhưng anh thấy dân ở đây vẫn tỏ ra có cảm tình với chúng ta chứ có riêng gì với cán bộ cộng sản.
- Đúng vậy, dân cũng có cảm tình với mình nhưng chỉ riêng với quân đội chính quy thôi. Với bảo an và dân vệ, họ vẫn chưa có cảm tình.
- Sao lạ vậy, lính nào thì cũng là lính. Bảo an và dân vệ là lính địa phương lại gần gũi và có họ hàng với họ còn lính chính quy chúng ta là người tứ xứ, từ xa đến mà.
- Thế mà dân có cảm thình riêng với lính chính quy thôi. Cảm tình đó cũng chỉ mới phát triển mạnh từ vài năm trở lại đây.
- Tại sao vậy?
- Nhờ có đội ngũ sĩ quan trong quân đội mình. Tất cả sĩ quan mới ra trường bây giờ đều là người có học, phần lớn được đưa ra chỉ huy trung đội và đại đội là những đơn vị trực tiếp gặp gỡ dân. Có học thì đương nhiên phải có hạnh. Trí thức và đạo đức thì gần như luôn luôn đồng hành, ai cũng phải chấp nhận điều đó. Kể từ khi chính phủ ban hành chính sách động viên trí thức thì quân đội mình trở thành nơi tập trung trí tuệ vào loại cao nhất trong xã hội. Lúc mình đang học ở khóa Mười bốn sĩ quan trừ bị Thủ đức, có một phái đoàn Sĩ quan và sinh viên sĩ quan của Pháp qua thăm viếng và tiếp xúc với anh em mình rồi về bên Pháp tuyên bố rằng trình độ học vấn của sinh viên sĩ quan Việt Nam cao vào bậc nhất thế giới. Anh còn nhớ việc đó không?
- Anh còn nhớ việc đó.
Bính gật đầu có vẻ hài lòng:
- Ở đâu có trí thức thì ở đó các khuynh hướng vô đạo đức phải e dè và rút lui. Thực vậy, bây giờ lính chính quy đi hành quân thì không có chuyện bắt gà hay phá phách cây trái của dân chúng. Sĩ quan như anh và em nếu thấy lính mình có hành động sai trái với dân thì đâu có thể làm ngơ được. Vì vậy, dân có cảm tình với lính chính qui.
Tân cười:
- Thế thì sĩ quan mình và cán bộ cộng sản đều tỏ ra đứng đắn với dân, nghĩa là có tư cách như nhau?
- Nhìn qua thì giống nhau nhưng động cơ thì khác nhau. Cộng sản tốt với dân vì mục đích tô vẽ cho bề ngoài của họ. Còn chúng ta đứng đắn với dân vì “trí thức và đạo đức là hai người bạn đồng hành”. Người cộng sản tỏ ra thương dân là vì đảng của họ buộc họ phải làm như thế còn chúng ta thương dân là do tấm lòng chúng ta thúc đẩy. Khác là chỗ đó nhưng hiệu quả lại giống nhau. Ai tỏ ra thương dân thì được dân che chở và giúp đỡ. Ai làm cho dân bất mãn thì lãnh hậu quả bất lợi.
- Vì vậy, cộng sản gọi đây là chiến tranh nhân dân.
- Đúng vậy, cộng sản biết rõ rằng họ phải núp trong nhân dân thì mới có thể duy trì cuộc chiến tranh xâm lược nầy được. Chúng ta có vũ khí tối tân, chúng ta có các sư đoàn rất thiện chiến nhưng họ được nhân dân che chở thì chúng ta khó đánh bật họ ra khỏi miền Nam nầy. Chỉ có thể lấy chiến tranh nhân dân để chống lại chiến tranh nhân dân chứ không thể lấy súng đạn đơn thuần mà chống lại chiến tranh nhân dân được.
- Chúng ta phải làm gì để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân như em nói?
- Trước hết là chính quyền và quân đội phải có nhận thức rõ về điều nầy. Chính quyền thì anh biết rồi, gồm toàn những người cho rằng mình chỉ có bổn phận hoàn thành các thủ tục hành chánh do pháp luật qui định. Hầu hết họ là người tốt nhưng nói về chiến tranh nhân dân thì họ chẳng thèm nghe đâu, có lẽ đợi đến khi mất nước rồi thì may ra họ mới thấm thía. Quân đội thì còn khó hơn nữa. Sĩ quan cao cấp là những người thuần túy võ biền và được đào tạo dưới thời thực dân Pháp nên rất khó lòng thuyết phục họ chấp nhận quan điểm chiến tranh nhân dân được. Chỉ trông chờ ở nhóm sĩ quan trí thức bọn mình thôi, nhưng anh em mình hầu hết cấp bậc thấp, ai mà thèm nghe lời mình.
- Anh rất ngạc nhiên và thán phục tư tưởng của em về chiến tranh nhân dân.
- Không phải của em, đó là ý nghĩ của anh Lành. Anh ấy đang làm tiểu luận triết học về đề tài đó. Anh Lành cũng bảo rằng thấy anh em mình đi vào quân đội và xông pha nơi trận mạc, anh ấy rất cảm phục và đôi khi tự thấy hổ thẹn khi đứng bên lề cuộc chiến để suy tưởng về cuộc chiến. Nếu sau nầy, lệnh động viên tới tay thì anh sẽ vui vẻ lên đường; lúc đó sẽ mất đi sự an thân nhưng sẽ an tâm để suy tưởng. Anh ấy luôn luôn đề phòng mình trở thành trí thức xa lông. Nói chuyện với anh Lành, em thấy rất thú vị. Thôi bây giờ, em đi trả tiền rồi mình về.
- Từ đây vào thị xã không xa lắm lại có xe lôi chạy thường xuyên. Mình vào đó chơi cho biết, đến trưa về cũng được.
- Không em về Sài gòn ngay bây giờ.
Tân trố mắt nhìn. Bính cười:
- Hồi hôm em xin trung úy Bá về thăm ba em. Anh ấy đồng ý ngay.
- Anh Bá thực tốt. Anh em mình may mắn mới gặp người chỉ huy trực tiếp như thế.
- Trung úy bảo rằng, tiểu đoàn mình vào đây trước, có lẽ vài ngày nữa trung đoàn mới vào tới. Vì vậy mình có thể vẫn ở đây ít nhất là ba ngày. Nếu tiểu khu có mượn để đi lùng thì cũng sáng đi chiều về thôi. Em xin trung úy đi trong ba ngày, ngủ lại Sài gòn hai đêm. Em giao trung đội lại cho trung sĩ Mạnh lo. Nếu cần anh giúp đỡ cho em.
- Được, em yên tâm. Nhưng tại sao em không đi từ sáng sớm?
- Anh Bá bảo rằng không nên đi sớm, đợi tới giờ nầy không có lệnh gì thì mới nên đi. Đường đi bây giờ thuận lợi lắm, xe đò rất nhiều và chạy nhanh. Trưa nay em có mặt ở Sài gòn rồi. Nghĩ đến chuyện gặp lại ba em, chị Mai và bé Bình, em nôn nao lắm.
- Em cũng nên đề phòng trường hợp tiểu đoàn mình thình lình di chuyển khỏi chỗ nầy.
- Có, em đã dự trù chuyện đó. Trung sĩ Mạnh có cho em địa chỉ của một người chị ruột sống tại thành phố Bến tre. Nếu có di chuyển thình lình thì anh Mạnh sẽ ra đó nhắn lại người chị, em về đó sẽ biết ngay.
- Thế được rồi, em cứ đi. Cho anh gởi cái nầy.
Tiếng móc túi lấy ra một số tiền trao cho Bính:
- Anh nhờ em, khi về đến Chợ lớn, ghé mua một món đồ chơi trẻ em về cho cháu Bình. Em nói với cháu rằng đây là quà của đại tướng Tân nhờ đại tướng Bính trao lại cho Bình.
Bính cười:
- Nó thích em làm đại tướng lắm. Nay thêm một ông đại tướng Tân gởi quà cho nữa thì thằng Bình sướng như lên tiên. Thôi chúng ta hãy đi về, em thay áo quần rồi đi ngay.
Bính về chỗ đóng quân, thay bộ quân phục tác chiến bằng áo quần thường phục. Tân trông thấy ngạc nhiên:
- Ở đâu em có bộ đồ dân sự nầy? Cả đôi giày da nữa. Nhìn em giống công chức chứ không giống quân nhân nữa.
- Em vẫn mang theo kể từ khi ra đơn vị, dự trù khi đi phép thì mặc vào để qua mắt Việt cộng. Bây giờ không phải qua mắt Việt cộng mà qua mắt quân cảnh. Áo quần và đôi giày dân sự nầy từ nay thành của chung cho tất cả sĩ quan đại đội dùng đi phép hay trốn về thăm nhà như em hôm nay.
Bính nói xong, bắt tay những người có mặt rồi hối hả ra đi.



*
* *



Đại đội tiếp tục ở yên tại chỗ. Đến trưa ngày thứ ba, Bính trở lại đơn vị. Mọi người bu quanh hỏi thăm tin tức. Bính lắc đầu:
- Tình hình chính trị căng thẳng lắm. Các nhà sư liên tục sách động dân chúng xuống đường chống chánh phủ. Các thầy thường xuyên tổ chức những buổi thuyết pháp công khai, nội dung chính yếu không phải là truyền bá phật pháp mà là tố cáo chính phủ có chủ trương kỳ thị tôn giáo. Với tình hình nầy thì chỉ có Việt cộng hưởng lợi mà thôi. Dân chúng chăm chú theo dõi hoạt động của các thầy mà không còn quan tâm đến cuộc chiến tranh xâm lược của Việt cộng nữa. Chính quyền thì lúng ta lúng túng và nguy nhất là đã có dấu hiệu chia rẽ trong quân đội. Nhiều quân nhân, kể cả sĩ quan ngã theo các nhà sư để chống lại chính phủ. Tình hình đang rất bất lợi cho chúng ta.
Nghe Bính nói, ai cũng thấy bi quan. Khi chỉ còn hai anh em ngồi với nhau trên hai chiếc võng căng ở mái hiên, Tân hỏi:
- Bác ở nhà có khoẻ không?
- Ba em không được khoẻ lắm, ông thường bị bệnh luôn.
- Bạch Mai và cháu Bình?
- Hai mẹ con đều khỏe mạnh. Bình ngoan lắm. Chị Mai độ nầy buôn bán cũng khá, sự sống gia đình em tạm ổn. Ba em cứ nhắc đi nhắc lại muốn anh về thăm. Tâm lý người già là sống nhiều với quá khứ nên thường muốn gặp lại những người quen cũ. Có lẽ ba em muốn găp lại anh cũng vì lý do đó.
- Vâng, anh sẽ về thăm bác một chuyến. Nghe em nói, anh rất cảm động. Anh mồ côi từ thuở nhỏ; ở miền Nam nầy anh chẳng còn người thân nào cả nên lòng thương yêu của người khác luôn luôn là một ân huệ đối với anh.
- Nhưng anh không nên đi ngay bây giờ, có thể gặp rủi ro. Việt cộng lợi dụng sự bất ổn chính trị ở thủ đô, tăng cường hoạt động. Quân cảnh cũng tìm cách ngăn chận sự đi lại của quân nhân vì sợ bị lôi cuốn vào cơn khủng hoảng.
Tân lắc đầu:
- Không. Đâu có trốn về ngay được. Trung úy Bá đã quy định là mỗi hai tháng mới có một sĩ quan trung đội trưởng về thăm nhà. Anh sẽ thương lượng với chuẩn úy Tám nhường kỳ sắp tới cho anh.
- Với tình hình nầy, hai tháng nữa chưa chắc đã yên. Quân cảnh phối hợp với cảnh sát chận ở các cửa ngõ vào thành phố, sợ quân nhân bỏ đơn vị về Sài gòn tham gia biểu tình với các nhà sư. Chính trị nát bét rồi. Miền Nam nầy chỉ còn trông nhờ vào quân đội nữa thôi. Nếu quân đội cũng bị các nhà sư phá hỏng thì chắc chắn nhân dân mình sẽ chịu sự thống trị của cộng sản.
Bính thở dài nói tiếp:
- Bên ngoài, kẻ thù đang nổ lực đánh phá mà trong nhà anh em lại xâu xé lẫn nhau, làm sao tránh được sự diệt vong.
- Anh thấy em có vẻ thiên về phía chính phủ và có ác cảm với Phật giáo.
Bính cãi lại:
- Không, em không có ác cảm với Phật giáo đâu; trái lại, em dự định khi về già sẽ qui y như ba em để trở thành đệ tử của nhà Phật. Nhưng thật tình em không có cảm tình với các nhà sư đang khua tay múa chân hiện nay. Em nhớ anh em mình đã từng tranh luận vấn đề nầy lúc còn ở quân trường. Đến bây giờ em cũng chưa thay đổi được cái nhìn của em đối với các nhà sư. Các bạn em đã từng đi nghe thuyết giảng và đều có nhận xét rằng mấy ông mặc áo cà sa đó, không phải ai cũng là đại diện chân chính của đức Phật từ bi. Còn đối với chính quyền, thực tình, em chẳng ưa gì bản thân mấy ông đang cầm quyền hiện nay nhưng phải hiểu rằng, các ông ấy đang chính thức điều hành công cuộc tự vệ của miền Nam chống lại cuộc xâm lược của cộng sản. Đó là một guồng máy khổng lồ không thể thay đổi bất cứ lúc nào, nhất là trong lúc đất nước đang lâm nguy. Không muốn hợp tác với chính quyền thì hãy lui về làm công dân hạng hai chứ đừng có hành động gì làm cho miền Nam càng thêm nguy khốn.
Vẻ bất mãn hiện ra trên gương mặt của Tân. Cậu ngắt lời:
- Anh không muốn lao vào cuộc tranh luận với em, nhưng anh thấy khó chấp nhận lập trường của em vì anh thấy nó giống như các bài xã luận trong tờ báo của chính phủ. Anh không có chút cảm tình nào với tờ báo đó.
Mặt Bính hơi đỏ lên. Cậu hăng hái đáp lời:
- Em công nhận lập luận của em gần giống lập luận của cơ quan phát ngôn của chính phủ. Thế thì đã sao đâu, chẳng có gì là sai trái hay đáng xấu hổ cả.
Bính cố gắng giữ bình tĩnh và làm cho giọng nói dịu lại:
- Anh là một sĩ quan, nhưng em hiểu rằng anh không có cảm tình với bất cứ chính phủ quốc gia nào nên ghét lây bất cứ lập trường nào giống lập trường của chính phủ. Đó là dư âm của một thời chống chính phủ cuồng nhiệt trong quá khứ của anh. Hơn nữa, cái chính phủ nầy đã từng bắt anh, tra tấn anh, giam cầm anh gần ba năm nên trong lòng anh vẫn chưa dứt hết thù hận. Điều đó cũng phù hợp với bản tính rất người của anh.
- Nói gì thì nói, anh vẫn mong có sự thay đổi trong bộ máy cầm quyền hiện nay.
- Em cũng chiều theo ý muốn thay đổi của anh nhưng em xin thêm hai điều kiện. Một là sự thay đổi không gây xáo trộn để cộng sản lợi dụng mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam. Hai là chính quyền mới phải có khả năng cao hơn, đặc biệt là về việc bảo vệ được miền Nam nầy.
- Chứ em không cần chính quyền tôn trọng tự do dân chủ hay sao?
- Có chứ. Tự do dân chủ là nhu cầu không thể thiếu được cho đời sống, nhưng nhu cầu đó chỉ có được sau khi bảo vệ xong đất nước. Mất nước rồi thì tự do dân chủ cũng chẳng còn.
Tân không nói nữa. Cậu ngồi im, mặt có vẻ không vui. Bính nói:
- Thôi, tranh luận như thế đủ rồi. Bây giờ trở về nhiệm vụ lính chiến của mình. Em đoán những ngày sắp tới sẽ rất nặng nề và vất vả đối với mình. Việt cộng sẽ lợi dụng sự bất ổn chính trị ở thủ đô và các tỉnh miền Trung để tăng cường hoạt động, trong khi nội bộ của mình có biểu hiện đáng ngại. Lính tráng thuộc các gia đình sùng đạo Phật chắc chắn có ít nhiều tư tưởng bất mãn, nhiều người sẽ hoang mang vì bất ổn chính trị, không còn tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của mình. Tinh thần của quân đội ắt giảm sút. Việt cộng sẽ đánh mạnh hơn với hi vọng gây nhiều thương vong để làm cho tinh thần quân đội mình càng giảm sút hơn nữa.
Bính đứng dậy, nói tiếp:
- Thôi, anh nghỉ đi, em về coi sóc trung đội của em.

Quả như lời tiên đoán của Bính, tin tức từ tình báo tiểu khu cho thấy Việt cộng đang tìm cách áp sát thành phố Bến tre. Cần phải tìm cách chận đứng và đuổi quân địch càng xa thành phố càng tốt. Nếu họ đến gần trong tầm hỏa tiễn địa địa, họ sẽ mang thứ vũ khí đáng sợ đó phóng vào thị xã thì chắc chắn sẽ gây thiệt hại rất lớn cho dân chúng và gây tiếng vang hoàn toàn bất lợi cho phía quốc gia đối với dư luận trong nước và thế giới. Sẵn có một tiểu đoàn chính quy từ ngoài Trung di chuyển vào đang đóng quân tại chỗ nên tiểu khu mượn tạm để hành quân càn quét cùng với lực lượng quân sự địa phương.
Lệnh hành quân được ban đến cho tiểu đoàn và các đại đội vào chiều tối. Tờ mờ sáng hôm sau, đoàn quân xa của tiểu khu chở tiểu đoàn đến địa điểm xuất phát trên bờ một con lộ đá. Tiểu đoàn sẽ thọc vào vùng nghi ngờ có địch bằng ba mũi tiến công. Chính giữa có đại đội Ba đi đầu mở đường cho bộ chỉ huy tiểu đoàn và đại đội trọng pháo, tiến vào làng bằng con đường đất khô ráo xuyên thẳng vào giữa những vườn dừa và cây trái um tùm. Đại đội Một bên trái và đại đội Hai bên phải, tiến song song và cách tuyến giữa khoảng hai trăm mét, để yểm trợ hai bên sườn của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Hai đại đội nầy không đi trên đường mà phải băng qua những liếp dừa, cách nhau bằng những con mương nước sâu từ đầu gối đến thắt lưng.
Cả ba cánh quân tiến rất chậm chạp vì tuyến giữa vừa đi vừa dò mìn bẫy, hai mũi bên thì phải leo lên liếp rồi tuột xuống mương liên tục. Từ hơn một năm nay, khu nầy mất an ninh nên phần lớn dân chúng bỏ lên thị xã sinh sống hay tập trung vào các ấp chiến lược. Vườn dừa không được săn sóc thường xuyên, cỏ dại mọc um tùm khắp nơi, cao ngập đầu người. Trong làng, phần lớn nhà cửa bỏ hoang, xiêu vẹo và vắng vẻ, thỉnh thoảng mới thấy một hai người già cố bám lấy khu vườn để thu nhặt những quả dừa khô rụng xuống đất.
Dẫn đầu cánh quân bên trái là trung đội Hai của Tân. Sau hơn hai giờ, cậu ước lượng mới đi được chừng hai cây số mà thôi. Tình hình vẫn yên tĩnh nhưng là cái yên tĩnh rờn rợn. Với địa thế rậm rạp và đầy hầm hố, cộng quân có thể phục kích và tấn công bất ngờ.
Tân nghe tiếng gọi từ phía sau:
- Chuẩn úy Tân!
Cậu dừng lại hỏi:
- Gì đó?
Một người lính trả lời:
- Trung úy nói chuẩn úy chỉnh lại hướng đi. Mình cách tiểu đoàn khá xa rồi, áp sát lại một chút.
Tân nhìn lui sau:
- Trung đội vẫn đi đúng hướng chứ có lệch bên trái đâu. Hỏi lại trung úy xem.
- Trung úy bảo vì con đường làng quặt sang phải, tiểu đoàn cũng quặt theo. Chúng ta buộc phải áp sát vào.
Tân vượt lên, qua mặt hai binh sĩ dẫn đầu, đi về bên phải một đoạn ngắn và bước lên một bờ đất. Chung quanh đầy những bụi rậm. Cậu cố nhóng cổ nhìn về phía trước để gióng hướng và tìm một cây cao có hình dáng đặc biệt dễ nhận thấy để làm chuẩn mà di chuyển tới.
“Ầm”, một tiếng nổ lớn vang lên từ tuyến giữa. Tân nhảy xuống nằm mọp, kê súng lên bờ đất. Một loạt súng nổ, cũng từ hướng đó. Cậu nói thầm:
- Chúng ta rơi vào ổ phục kích rồi.
Cậu ngẩng đầu lên, nhìn về phía sau, nhưng cỏ ở đây khá rậm rạp nên cậu không nhìn thấy binh sĩ của trung đội mình. Tuy nhiên cậu cũng yên tâm vì hiểu rằng, sau tiếng nổ, toàn thể đại đội đang mọp xuống, súng hướng về phía trước và sẵn sàng nhả đạn.
Cậu quay qua phải chăm chú nhìn về hướng tiếng nổ và tiếng súng. Cậu bò sang một bên để tránh bụi cây trước mặt. Cậu giật mình vì thoáng thấy một bóng người sau những lá cây của khu vườn. Tân nhìn sửng, tim đập thình thịch. Bóng người nhích dần về phía cậu. Hắn đi thụt lùi, mặt quay về hướng bộ chỉ huy tiểu đoàn tức là hướng đối nghịch với Tân. Hắn đã ra khỏi khu vườn rậm rạp và hiện ra một cách rõ ràng, chỉ cách Tân hơn hai mươi mét mà thôi. Hắn ở trần, mặc quần xà lỏn đen, không mang súng nhưng có hai quả lựu đạn lủng lẳng bên hông. Lập tức Tân hiểu rằng hắn vừa giật mìn xong và chạy về hướng nầy và không ngờ có một cánh quân của cậu đang phục ở đây.
Hắn dừng lại, lưng vẫn quay về phía cậu. Tân nâng nòng súng lên, kê mắt vào bộ máy ngắm. Cậu nhìn thấy rõ cái lưng trần rám nắng, nung núc thịt của tên Việt cộng nằm ngay trên đỉnh đầu ruồi của nòng súng và tại trung tâm lỗ chiếu môn của bộ máy ngắm. Tân sực nhớ, khi cậu lãnh cây súng nầy tại Kannack, anh trung sĩ quân cụ của tiểu đoàn đã nói với cậu: “ Súng nầy chính tay tôi điều chỉnh tác xạ rồi, chuẩn úy nhắm rồi thì cứ bóp cò, bảo đảm mười phát trúng cả mười.”
Tân nhắc lại lầm thầm “mười phát trúng cả mười”. Súng đã lên đạn từ sáng sau khi xuống xe. Tân lẳng lặng mở khóa an toàn và đưa ngón tay trỏ chạm vào cò súng. Tân bỗng nghe tim mình nhói lên một cái và cảm thấy vật gì đó đè mạnh vào lồng ngực làm cho cậu khó thở. Một tiếng nói nhỏ mà sắc như dao xuyên qua màng nhĩ: “Đừng, đừng giết người, không được giết người!”. Mắt cậu hoa lên nhưng rõ ràng cái lưng trần vẫn ở yên trên đỉnh đầu ruồi xuyên qua trung tâm lỗ chiếu môn của bộ máy ngắm. Tiếng nói sắc lẻm vang lên một cách khẩn cấp trong đầu: “Đừng giết, anh ta đã từng là đồng chí của nhà ngươi! Đừng giết người, không được giết người!”
Bỗng dưng, Tân ghếch nòng súng lên cao, bóp cò liền hai cái và la to:
- Việt cộng. Đó đó, Việt cộng chạy đó.
Cái lưng trần phóng về phía trước và biến mất trong khu vườn rậm rạp. Tân đứng thẳng người nhìn vào nhưng không thấy gì cả. Hai người lính của trung đội hấp tấp chạy đến:
- Việt cộng đâu chuẩn úy?
Tân đưa tay chỉ vào khu vườn:
- Đó, nó chạy vô đó.
- Nó có súng không?
- Không có súng nhưng có lựu đạn. Tụi bây đừng vào nguy hiểm. Đợi tao báo với đại đội trưởng bao vây mới được vào lục soát.
Tân quay sang trung sĩ Hy vừa mới đến đứng cạnh:
- Anh Hy quay lui báo cáo với đại đội trưởng và xin lệnh đi. Nhớ hỏi tình hình bên cánh quân của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đi nhanh lên rồi trở về ngay.
Mười phút sau, trung sĩ Hy quay lại, thở hổn hển:
- Trung úy Bá bảo không bố trí lục soát. Nó chạy mất rồi thì thôi. Ở đây rậm rạp và có thể có nhiều hầm bí mật, phải mất cả ngày chưa chắc tìm ra. Chúng ta còn phải càn quét thêm năm cây số nữa rồi rút ra trước khi trời tối.
- Tiếng nổ khi nãy có phải là do mìn hay không? Cánh quân giữa bị thiệt hại thế nào? Trung úy có liên lạc được với tiểu đoàn không?
Trung sĩ Hy đáp lời:
- Có, trung úy đã liên lạc ngay. Tụi nó giựt mìn. Mìn không gài mà bấm bằng điện. Tiểu đoàn tịch thu được một đoạn dây điện rất dài và một cục pin. Chúng nó đợi đại đội Hai qua rồi mới cho nổ. Cũng may nó cho nổ hơi sớm, có lẽ vì nó hoảng sợ. Nếu nó đợi thêm vài phút rồi châm ngòi thì có lẽ gây thiệt hại nặng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn rồi.
- Có ai bị thương hay chết không?
- Chỉ có một binh nhất bị thương ở chân mà thôi, hình như không nặng lắm. Tiểu đoàn đang đưa người bị thương trở ra đường lộ. Bây giờ tiếp tục đi. Trung úy bảo phải quan sát cẩn thận hơn. Càng vào sâu càng nguy hiểm.
Tân nghe xong, thấy trong lòng ngổn ngang cảm xúc. Cậu vừa tránh được trong gang tấc một hành động giết người. Nhưng nếu quả mìn kia đã giết chết vài người thì liệu lương tâm của cậu có yên ổn hay không sau khi tha mạng cho một kẻ đã giết chết đồng đội của mình?
Tân khoát tay cho cả trung đội đứng lên và ra lệnh cho tiểu đội đi đầu tiến tới.
Đến quá trưa, cả tiểu đoàn đến được tọa độ được chỉ định một cách an toàn. Địa điểm đó là một khoảng đất trống trên bờ một con rạch nhỏ nhưng khá sâu, hai bên bờ có những bụi rậm um tùm. Tiểu đoàn dừng lại ăn trưa, nghỉ ngơi chốc lát rồi rút lui trở về vị trí xuất phát trên mặt lộ đá. Tại đây, đoàn xe chờ sẵn, trả tiểu đoàn lại vị trí đóng quân cũ.

Tiểu đoàn được nghỉ ngơi một ngày rồi nhận được lệnh hành quân. Từ sáng sớm, xe đến chở tiểu đoàn ra bờ sông lớn, nơi đã có sẵn nhiều tàu đổ bộ nằm chờ sát bờ. Tất cả nhanh chóng lên tàu, ngồi xuống sàn, chung quanh có những tấm bửng sắt bảo vệ, ngăn đạn từ trên bờ bắn xuống. Tàu bắt đầu chạy được một đoạn thì vào nhánh sông nhỏ hơn và tiếp tục xuyên qua những khu vườn um tùm và những cánh đồng mênh mông vắng vẻ.
Xa xa xuất hiện một chòi canh trông thực lạc lỏng và cô đơn, bên trên những bụi cây lúp xúp. Trung úy Bá thét to:
- Anh em chuẩn bị đổ bộ. Tư thế tác chiến. Coi chừng có Việt cộng ẩn núp trên đó.
Những chiếc tàu quay ngang, lủi thẳng vào bờ. Các bửng ở mũi tàu hạ nhanh xuống, lính ào ào phóng lên, ngồi hay quỳ xuống bờ đất ẩm, căng mắt nhìn vào đám cây rậm rạp phía trước.
Một lúc sau, thấy yên tĩnh, Tân đứng dậy nhìn quanh. Cách nơi đổ bộ chưa đầy hai trăm mét là một cái đồn be bé. Một dãy nhà lá lụp xụp ẩn sau bờ đất khá cao. Vài người tách khỏi toán vừa đổ bộ tiến về phía đồn. Vài phút sau, Trung úy Bá, một tay cầm súng, một tay cầm bản đồ từ trong đồn tất tả đi ra, đến nói với Tân:
- Anh cho trung đội ăn trưa đi. Trong vòng nửa giờ nữa chúng ta tiến quân và có lẽ sẽ di chuyển liên tục trong sình lầy, không có chỗ khô ráo để nghỉ ngơi và dùng bữa đâu.
Tân chỉ cái đồn và nói:
- Tôi tưởng mình sẽ vào nghỉ trong đồn đó chứ.
- Không đâu. Tiểu đoàn đến đây giải vây cho đồn và tiếp tục tảo thanh để mở rộng vòng đai an ninh cho nó.
- Giải vây cho đồn? Tôi có thấy tên Việt cộng nào bao vây nó đâu.
- Bị Việt cộng bao vây gần một tháng rồi. Đồn nầy do hai tiểu đội bảo an trấn đóng, mục đích là bảo vệ làng xóm bên trong. Tôi, đại úy An, chuẩn úy Bính và vài binh sĩ vừa vào trong đồn để thăm viếng và hỏi tin tức. Mọi người trong đó đều hết sức mừng rỡ, lính dẫn cả vợ con ra chào đón chúng tôi. Cậu thiếu úy trưởng đồn kể rằng vùng nầy trù phú vui vẻ lắm. Con sông nầy thường tấp nập ghe thuyền lên xã, lên quận. Từ gần hai tháng nay, Việt cộng về bao vây đồn, bắt dân chúng trong các ấp đóng thuế bằng tiền bạc hay lúa gạo, có nhà bị truy thu luôn một vài năm về trước nên dân bỏ nhà bỏ vườn, đi đến sống ở vùng an ninh hơn. Lính trong đồn không dám ra ngoài đánh đuổi Việt cộng để bảo vệ cho dân vì không biết lực lượng bao vây nhiều hay ít. Có lẽ, chúng nó khá mạnh, có cả súng cối, thỉnh thoảng rót đạn vào đồn. Chúng bao vây khắp ba mặt chung quanh đồn. Hễ lính bước ra cổng hay trèo lên chòi canh là lập tức bị nhắm bắn. Cũng may là chưa ai bị trúng đạn, nhưng lương thực cạn dần, đời sống thiếu thốn khổ sở lắm. Lính trong đồn khổ, dân chúng bên ngoài cũng chẳng sung sướng gì. Cái trò “giải phóng” của Việt cộng ở đâu cũng thế cả.
Tân thắc mắc:
- Nhưng mình đổ bộ lên đây chẳng thấy “ông giải phóng” nào cả.
- Mới chiều hôm qua, chúng còn bắn mấy phát vào đồn, thế mà sáng nay rút đi hết. Chắc chắn chúng đã được tin mình vào giải vây. Tình báo Việt cộng dễ sợ thực, vừa chính xác, vừa nhanh chóng.
- Đây thuộc về vùng nào? Còn trong tỉnh Kiến hòa không?
- Vẫn còn. Vùng nầy thuộc về xã Hương mỹ. Theo bản đồ, chúng ta còn cách trụ sở xã hơn bốn cây số nữa. Tiểu đoàn sẽ tiến quân về hướng đó để tái lập sự liên lạc giữa đồn nầy với xã. Sau đó mình tảo thanh một vòng quanh ấp chiến lược rồi mới dừng lại đóng quân qua đêm. Chút nữa chúng ta tiến quân bằng hai mũi, đại đội mình đi bên phải, bên trái là đại đội Hai, bộ chỉ huy tiểu đoàn và phần còn lại đi phía sau. Nếu chạm địch phía trước hay bên phải thì cho lính nổ súng cho chúng nó chạy đi và không truy kích. Nếu địch xuất hiện bên trái thì lập tức cùng đại đội Hai siết chặt vòng vây để tiêu diệt. Từ đây mình đi về hướng đông nam, lấy cây cao đằng kia làm chuẩn.
- Đại đội vẫn tiến theo hàng một phải không?
-Đúng vậy. Trung đội anh vẫn đi đầu. Nghe anh thiếu úy trưởng dồn nói ruộng ở đây khá sâu, lớp bùn bên dưới cũng dày lắm nên buộc phải đi trên bờ ruộng. Như thế là rất nguy hiểm vì mìn bẫy của chúng. Anh dặn mấy cậu khinh binh đi đầu phải cẩn thận từng bước một. Lính trong đồn sẽ cho chúng ta vài que nhọn để xom phía trước, đề phòng hầm chông. Chỗ nào có cỏ rậm và lá khô thì phải xem xét cẩn thận, đề phòng mìn bên dưới. Cần quan sát thực kỹ. Gặp chỗ nào có dấu đất mới đào lên thì phải tránh. Thấy sợi dây căng ngang qua đường thì phải đánh dấu và︠bước ngang qua không được động đến. Anh nhớ nhắc nhở lính nhé.
- Vâng, tôi sẽ đi ngay sau hai cậu mở đường để nhắc nhở chúng nó.
- Được. Có anh lo việc mở đường thì tôi cũng an tâm. Thôi anh ăn cơm trưa với trung đội đi. Ăn xong là chúng ta khởi hành ngay, cố gắng đi hết đoạn đường cho sớm để tìm chỗ nghỉ qua đêm.
Vừa nuốt xong vắt cơm, Tân được lệnh lên đường. Tân đi sau hai binh sĩ. Cả ba quan sát rất kỹ từng bụi rậm phía trước, nhìn kỹ mặt đất của con đường trước khi đặt chân vào. Bầu trời phủ đầy mây trắng xóa, mặt trời ẩn sau làn mây mỏng rọi ánh sáng dìu dịu xuống mặt đất; từng cơn gió nhẹ thổi qua, gây nên tiếng xào xạc trong những những khu vườn và tạo nên những làn sóng nhấp nhô trên những cánh đồng lúa xanh mơn mởn. Phong cảnh đồng quê miền Nam Việt Nam xinh đẹp và hữu tình như một bức tranh nhưng không làm giảm được chút nào sự căng thẳng trong đầu của những người lính chiến đang im lặng tiến từng bước một.
Cuối cùng, khi chiều đến, tiểu đoàn cũng vượt qua hết quãng đường nguy hiểm để đến địa điểm dừng quân.
Đây là một ngôi làng nho nhỏ dễ thương, được bao bọc trong một vòng rào ấp chiến lược. Rải rác hai bên con đường làng ngoằn ngoèo, những mái lá cũ kỹ đứng im lìm trong những khu vườn xanh tươi.
Bố trí chỗ ở cho trung đội đội mình xong, thấy trời còn sáng, Tân tìm sang trung đội Ba để gặp Bính. Vừa qua khỏi một khúc quanh, Tân nghe có tiếng đàn dìu dặt. Cậu biết ngay đó là tiếng đàn của Bính.
Trên cái sân đất sạch sẽ của một ngôi nhà nhỏ, Bính đang ngồi trên một khúc cây, tay ôm đàn chơi một khúc nhạc đồng quê, cạnh đó ba đứa trẻ đứng nghe một cách vui thích. Tân đứng im nhìn và mỉm cười. Bính đàn xong khúc nhạc, ngước lên, gọi:
- Anh Tân, đến đây chơi. Phong cảnh đồng quê nơi đây làm em hứng thú lắm.
Bính đứng dậy, khoát tay một vòng rồi nói tiếp:
- Khu vườn nầy, mái nhà nầy, con đường làng nầy. Nếu không có chiến tranh, được về đây sống cùng những người dân hiền lành chất phác thì còn gì vui thích hơn phải không anh?
Tân cười:
- Anh nhớ lúc ngồi trên bãi biển Tuy hòa, em ước mơ đến khi hòa bình về cất nhà sống trên bờ biển, rồi bây giờ về đây, em lại mơ ước sống ở đồng quê.
Bính cười theo:
- Đất nước mình chỗ nào cũng xinh đẹp, cũng làm cho em say mê. Có hòa bình rồi thì sống nơi nào cũng thích thú.
Bính chậc lưỡi rồi nói tiếp:
- Còn bây giờ, thôn quê mình nhiều nơi như địa ngục của trần gian. Khi nãy, anh có vô trong đồn, nơi mình đổ bộ lên bờ không?
- Không, anh không vào. Nghe trung úy Bá nói trong đó người ta sống cực khổ lắm.
- Vâng, thực là tội nghiệp. Binh sĩ và các gia đình trong đó bị vây hãm suốt hơn một tháng trời. Gần như đêm nào, chúng cũng bắn vào một lúc rồi vác loa gọi đầu hàng.
- Trong đồn không phản ứng gì cả hay sao?
- Có chứ. Lính bắn vào chỗ có tiếng loa phát ra để đáp lại lời kêu gọi đầu hàng của chúng, nhưng không dám ra. Gần hai tháng rồi, hôm nay, cửa đồn mới mở toang để đón mình. Thực là cảm động khi thấy toàn thể quân nhân và gia đình của họ mừng rỡ lúc anh em mình bước vào đồn. Có một ông già, sống cùng con trai là lính trong đó đến cầm tay em và nói: “Đây nầy, quân giải phóng thiệt rồi đây. Cái bọn ngoài kia đêm nào cũng xưng là quân giải phóng rồi bắn vào đồn, thiệt là chướng tai. Đó, mấy em nhìn bên ngoài xem, dân bỏ đi hết chớ có chịu nổi với cái quân tự xưng giải phóng đó đâu”. Trong khi đại úy An bàn bạc với thiếu úy trưởng đồn, em và trung úy Bá đi vào xem chỗ ở của gia đình binh sĩ, chật chội và thiếu thốn lắm. Tội nhất là những đứa bé theo cha vào sống ở đây. Anh trưởng đồn cho biết các em vẫn đi học ở trường tiểu học trên xã, nhưng từ khi Việt cộng về đây thì bị nhốt trong nầy luôn, ló ra ngoài để đi học thì Việt cộng cũng không tha. Nếu mình về đây lập lại được an ninh cho những đứa bé nầy lại ngày ngày cắp sách đến trường, thì em thấy công sức của mình lặn lội vào đây cũng không uổng phí.
Tân nói:
- Tại sao lại để cho vùng nầy mất an ninh và đồn bị bao vây cả hơn một tháng ròng rã như thế. Chi khu có thể xin pháo binh hoặc phi cơ đến đuổi họ đi chứ.
- Thiếu úy trưởng đồn bảo rằng đồn nầy nằm trong vòng tác xạ của đại bác 155 ly ở chi khu. Tuy nhiên, vùng nầy mới bị mất an ninh nên chưa được liệt vào cùng oanh kích tự do; pháo binh và phi cơ chỉ yểm trợ khi nào đồn bót bị chúng nó tấn công mạnh và có nguy cơ thất thủ. Hiện nay, lực lượng của chúng nó không biết ít hay nhiều lại rải ra sống chung với dân. Pháo binh và phi cơ không thể tiêu diệt chúng mà không làm cho dân lành chết oan. Cái trò của Việt cộng núp trong dân và dùng dân làm bia đỡ đạn, quả thực gây khó khăn cho quân đội mình rất nhiều.
Bính thở dài và nói tiếp:
- Mình hành quân qua đây có thể xua đuổi Việt cộng để cho dân chúng làm ăn và sinh sống nhưng khi mình rút đi rồi, em e rằng chỉ vài ngày sau chúng nó trở về thì tình hình lại xấu như cũ. Quân đội chính qui phải lưu động rày đây mai đó. Lực lượng địa phương thì quá mỏng và quá yếu, không đủ sức bảo vệ lãnh thổ. Cuộc chiến tranh du kích và phá hoại nầy của Việt cộng thực là một tai họa khó dẹp được.
Bính ngừng nói, đăm chiêu nhìn mấy cánh cò trắng muốt bay trên đồng lúa. Tân cố gắng xua đi nỗi bi quan của bạn:
- Chúng ta hãy kiên nhẫn. Không lẽ cứ đánh nhau mãi sao? Trong lịch sử nhân loại, có cuộc chiến tranh nào là vô tận đâu. Rồi cũng có lúc phải chấm dứt để dân mình được sống trong hòa bình và hạnh phúc.
Bính cười một cách gượng gạo:
- Em mong muốn sớm thấy hoà bình thực sự. Tất cả những người lính chúng mình đều mong muốn hòa bình. Không có gì vừa tha thiết vừa có tính bi thảm bằng hi vọng hòa bình của những con người hằng ngày phải vác súng lang thang ngoài chiến địa. Tại sao hình ảnh đó không làm lay chuyển được con tim của những người gây ra cuộc chiến tranh khốc liệt nầy nhỉ?
Tân đứng dậy nói:
- Thôi, em đừng suy tư quá nhiều thêm nặng nề. Cứ vui vẻ chấp nhận số phận hẩm hiu của mình và của cả dân tộc mình. Em nghỉ đi, anh về sắp đặt các phiên gác cho trung đội.
Nói xong, cậu về nơi đóng quân của mình. Hôm nay đại đội phải đặt nhiều vọng gác dọc theo bờ rào ấp chiến lược.
Đêm xuống dần, trời đầy mây, ánh trăng sáng lờ mờ. Tân căng võng ở hiên nhà. Sau một ngày mệt nhọc, cậu ngủ thiếp đi nhanh chóng.
Nửa đêm, Tân giật mình thức giấc vì một tiếng súng nổ. Cậu ngồi dậy, lắng tai nghe. Lại một tiếng súng nữa. Có bóng người đi đến. Tân hỏi nhỏ:
- Ai đó?
- Tôi, trung sĩ Hy đây. Có hai tiếng súng, chuẩn úy có nghe không?
- Có, tôi nghe rồi. Có nên báo động để lính ra bố trí ngoài vòng rào ấp chiến lược không?
Hy trả lời:
- Không, chưa cần, tiếng súng nghe chát chúa như thế là ngoài bắn vào. Cứ để cho anh em ngủ để giữ gìn sức khoẻ. Nếu chúng đã tập trung lực lượng và dự định tấn công thì không bao giờ lên tiếng như thế để gọi mình thức dậy. Tôi nghĩ rằng một tên du kích nào đó đến quấy để phá giấc ngủ của anh em mình. Nếu cứ nghe súng là báo động, thế là mắc mưu nó rồi. Nhiều nơi, chúng quấy phá vài đêm cho lính mình mòn mỏi rồi sau đó mới tấn công. Nó bắn vào mà mình cứ im lặng thì nhất định nó phải e sợ mình.
- Theo trung sĩ, chừng nào mình mới phải báo động?
- Khi nào có tiếng súng do lính gác bắn ra. Lúc đó, chắc chắn, lính mình đã trông thấy Việt cộng đến gần rồi.
Tân bước xuống võng, nói:
- Tôi và trung sĩ đi quanh một vòng để kiểm tra các vọng gác. Anh có mang súng theo đó không?
- Có chứ, ban đêm lúc nào súng cũng dính liền với người. Tôi đang bắt đầu đi tuần tra đây. Có cả chuẩn úy đi nữa thì càng hay.
Hai người lò mò đi trong đêm tối. Mọi nơi, lính đều gác một cách nghiêm túc. Tân hài lòng trở về, leo lên võng ngủ tới sáng.
Ba ngày sau đó, tiểu đoàn tiếp tục hành quân qua nhiều thôn xóm nhưng không hề gặp một sự kháng cự nào. Ngày truy lùng, tối đến rút vào ấp chiến lược để đóng quân. Mỗi buổi chiều, sau khi dừng quân, Bính lại ôm đàn vừa gảy vừa ca hát trong khi các sĩ quan khác uống trà và chuyện trò vui vẻ.
Đêm thứ ba, tiểu đoàn gọi trung úy Bá đến nhận lệnh. Khi trở về, anh nói với các sĩ quan trong đại đội:
- Theo tin tình báo mới nhất thì ở đây Việt cộng có một đại đội địa phương quân và hai trung đội dân quân du kích thoát ly. Chúng nó không bao giờ dám đụng với quân chính quy của mình mà chỉ theo dõi các đơn vị bảo an và dân vệ, lựa lúc sơ hở để tấn công. Mấy hôm nay, mình đi truy lùng, chúng nó đã thừa đêm tối vượt sông Cửu long qua địa phận tỉnh Trà vinh rồi. Sáng mai, tiểu đoàn chấm dứt hành quân, rút về chỗ cũ.
Trung úy ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Đại úy An cho biết toàn thể sư đoàn đã vào Nam cả rồi. Bộ tư lệnh đóng tại Sa đéc.
- Còn trung đoàn của mình?
- Tại Cao lãnh. Trung đoàn có nhiệm vụ chế ngự vùng Đồng tháp mười. Nhiệm vụ nặng nề lắm đó.
Nghe nói đến Đồng tháp mười, bỗng nhiên Tân cảm thấy nôn nao. Cậu tiếp tục hỏi:
- Tiểu đoàn mình có trở lại với trung đoàn không?
- Tôi không biết. Tôi cũng mong trở về với trung đoàn nhưng không hi vọng lắm. Hôm nọ đại úy An, tiểu đoàn trưởng, có nói rằng bộ tư lệnh sư đoàn thích tiểu đoàn mình nên không có ý trả lại cho trung đoàn. Thôi, cuộc đời lính chiến thì ở đâu cũng thế. Về với trung đoàn, lặn lội trong Đồng tháp mười thì cũng chẳng vui sướng gì.
Tân trở về. Đêm đó cậu nằm thao thức mãi. Cái tên Đồng tháp mười mà trung úy Bá nói đến gợi cho cậu biết bao kỷ niệm của thời thơ trẻ. Cậu nằm nhớ lại thời gian sống trong nông trường tự túc của tỉnh đoàn Mỹ tho, mãi đến khuya mới chợp mắt.
Hôm sau, đoàn tàu đến rước tiểu đoàn về nơi đóng quân gần thị xã Bến tre.


*
* *



Sau hai ngày nghỉ dưỡng sức, tiểu đoàn được lệnh lên đường. Trọn buổi sáng, đoàn xe chở tất cả vượt qua đoạn đường dài với hai lần qua sông rộng bằng phà.
Tiểu đoàn dừng lại nghỉ qua đêm trong một vùng dân cư, cạnh quốc lộ. Thu xếp chỗ ở cho lính xong, các trung đội trưởng được trung úy Bá gọi đến.
Tân bước vào một nhà ngói khá to và khang trang, gặp trung úy Bá đang ngồi trên chiếc bàn ở gian giữa của ngôi nhà, ngay phía trước một tấm màn đỏ dùng che nơi thờ phượng. Tân biết đó là nơi trang trọng nhất mà dân quê dùng làm nơi tiếp khách quí. Mặt bàn trải tấm vải nhựa màu sắc sặc sỡ, trên có chiếc khay gỗ đựng một bình trà và nhiều chén tách.
Tân bước vào, ngồi xuống ghế trước mặt trung úy Bá. Thấy cậu nhìn quanh gian nhà, trung úy nói:
- Dân vùng nầy thực tốt. Khi tiểu đoàn trưởng đi cùng chính quyền địa phương đến xin cho mình đóng quân để truy lùng địch thì nhà nào cũng tỏ ra sốt sắng. Biết tôi là đại đội trưởng, ông chủ nhà nầy nhất định mời tôi vào ở và giao luôn nhà lớn nầy cho mình làm việc và hội họp. Bà chủ lại còn pha cho anh em mình một bình trà rồi xách nón, nói là đi chợ để mua bánh về đãi sĩ quan chúng mình. Anh thấy chưa, dân trong miền Nam quí sĩ quan chính qui lắm. Để tôi hỏi thăm trong xóm nầy có cô nào đẹp mà chưa chồng thì tôi làm mai cho anh và chú Bính, đồng ý không?
Tân cười ha hả:
- Được lắm chứ, trung úy xúc tiến nhanh lên đi. Nhưng rồi hành quân đến nơi khác cũng gặp dân tử tế như thế nầy thì sao?
- Thì cứ tiếp tục. Mỗi nơi lập một hậu cứ thì cuộc đời lính chiến càng thêm lý thú.
Bá nói xong cũng cười ha hả.
Từ ngoài sân, hai chuẩn úy Tám và Bính bước vào. Tám hỏi:
- Có chuyện gì vui làm hai anh cười to vậy. Mới bước vào ngõ đã nghe tiếng cười rồi.
- Vào đây, nhiều chuyện vui lắm nhưng hãy nhận lệnh hành quân trước đã.
- Còn trung đội trưởng vũ khí nặng đâu?
- Anh ấy đang cho lính chùi dầu lại cây đại liên và súng cối. Hành quân trong Nam lúc nào cũng lội nước nên súng dễ bị rỉ sét. Các anh nên nhắc nhở và kiểm tra lính lau chùi vũ khí của mình. Đụng trận mà kẹt đạn là kể như chết. Bây giờ, tôi xin phổ biến lệnh hành quân. Ngày mai chúng ta bắt đầu lên đường rất sớm. Các anh nên cho trung đội nấu cơm vào buổi tối rồi vắt lại để ăn buổi sáng và trưa mai.
Bính hỏi:
- Vùng nầy thuộc về tỉnh nào?
- Tỉnh Kiến phong. Nơi đây cách thành phố Sa đéc mười cây số.
- À, hôm nọ anh có nói bộ tư lệnh sư đoàn đóng tại thành phố nầy phải không?
Trung úy gật đầu:
- Đúng rồi. Ngày mai chúng ta hành quân với mục đích mở rộng vòng đai an ninh cho bộ tư lệnh. Chúng ta sẽ truy lùng để tiêu diệt và xua đuổi Việt cộng đi cho xa ngoài tầm phóng hỏa tiễn và súng cối của chúng vào bộ tư lệnh sư đoàn.
- Điểm xuất phát của cuộc hành quân có gần đây không?
- Ngay tại nơi nầy. Chúng ta sẽ đi cặp theo bờ sông nhỏ, tiến sâu vào độ sáu kilomét rồi đổi hướng đi theo một con rạch và bọc ra lộ tại một điểm cách đây khoảng tám ki lô mét.
- Thế là ngày mai chúng ta phải hành quân trên đoạn đường dài bao nhiêu cây số?
- Khoảng mười lăm cây theo bản đồ. Với khoảng đường dài như thế, chúng ta không thể băng đồng được vì đang cuối mùa mưa, ruộng nước ngập khá sâu. Đại đội sẽ đi hàng một dài theo bờ sông. Trung đội Hai của anh Tân vẫn đi đầu mở đường, trung đội Ba bọc hậu. Con đường nầy dân đang dùng hằng ngày nên ít sợ mìn bẫy. Cũng không sợ phục kích vì chúng ta được sự yểm trợ của pháo binh sư đoàn Bảy bắn rất chính xác. Ngoài ra phi cơ của quân đoàn Bốn tại Cần thơ cũng sẵn sàng cất cánh khi có yêu cầu không trợ. Điều đáng ngại nhất ở đây là du kích bắn sẻ nên đi thì phải quan sát thực kỹ các khu vườn, các gian nhà hai bên đường.
Trung úy Bá lắc đầu nói tiếp:
- Có lệnh thì phải đi chứ tôi thấy rồi chẳng có kết quả gì, cũng như các cuộc hành quân ở Bến tre vừa rồi.
Bính gật đầu đồng tình:
- Chúng ta đưa quân về đây một cách rầm rộ, mọi người đều biết mình sắp hành quân, làm sao qua được con mắt tình báo của Việt cộng.
- Không phải chỉ riêng sự tập trung của tiểu đoàn mình ở đây để lộ kế hoạch hành quân. Chiều nay pháo binh sư đoàn Bảy cũng đã kéo đại bác về đặt trên một sân vận động cách đây một cây số. Đứa con nít trong vùng nầy cũng biết là để yểm trợ hành quân thì Việt cộng không biết sao được. Chúng ta có thể chuẩn bị kín đáo hơn nhưng không thực hiện.
- Tại sao?
- Đặc điểm của chiến trường đồng bằng là những trận đánh luôn luôn nổ ra trong vùng dân cư đang sinh sống và người dân vô tội bị kẹt giữa hai lằn đạn. Lính của hai bên biết ẩn núp còn dân thì chẳng có kiến thức quân sự cho nên phải chịu nhiều thương vong. Chúng ta hành quân cốt yếu để bảo vệ dân nên cố tránh gây thiệt hại cho dân. Vì vậy, trong những cuộc hành quân lớn, chúng ta thường chịu bất lợi về quân sự vì không giữ kín ý định hành quân, có khi còn bắt loa trên phi cơ bay qua bay về kêu gọi dân rời vị trí sắp hành quân nữa.
Tân cãi lại:
- Tôi thấy trong các cuộc hành quân của chúng ta ở Bến tre, mình vẫn gặp dân chúng sinh sống bình thường, chứ họ đâu có bỏ đi nơi khác.
Trung úy Bá giải thích:
- Đó là những cuộc hành quân nhỏ chỉ với mục đích lục soát, khó xảy ra đụng độ lớn. Mặc khác, bây giờ ở vài vùng, dân mình khổ quá đổ lỳ đối với súng đạn. Họ không bỏ đi lánh nạn hết đâu. Chỉ có người già và trẻ con dùng ghe xuồng ra đi với một ít đồ đạc, người lớn ở lại tại chỗ để giữ nhà và chịu đựng. Cũng có nơi, không có ai chạy được vì bị Việt cộng giữ lại làm bia đỡ đạn để mình không nỡ tấn công mạnh. Nếu ngày mai, dân thoát được sự ngăn cản của Việt cộng mà chạy đến chỗ an toàn thì các anh cứ để cho họ đi nhưng phải đề phòng Việt cộng núp theo dân đánh úp mình. Nhớ rằng Việt cộng không từ bỏ bất cứ cơ hội nào. Dân càng chết nhiều thì họ càng mạnh miệng rêu rao tuyên truyền.
Bính lắc đầu:
- Dùng thường dân làm bia đỡ đạn, thực là hết sức tàn nhẫn, chỉ những kẻ lạc hậu và man rợ mới áp dụng mà thôi.
Trung úy Bá tỏ vẻ đồng tình:
- Trên thế giới cũng thế, chỉ có bọn người lạc hậu mới dùng biện pháp đó. Xã hội văn minh coi trọng sinh mạng người dân nên không bao giờ làm chuyện tàn nhẫn đó. Hơn nữa, theo quy chế của Liên hiệp quốc về chiến tranh thì điều nầy bị cấm.
Chuẩn úy Tám cười gằn:
- Việt cộng đâu có kể gì đến quy chế của Liên hiệp quốc.
Trung úy Bá kết thúc buổi họp:
- Bây giờ các anh về cho trung đội mình chuẩn bị đi. Nhớ đêm nay canh gác cẩn thận. Du kích có thể đến quấy phá cho chúng ta mất ngủ để làm giảm bớt sức lực dành cho cuộc hành quân ngày mai.

Hôm sau, trời vừa rựng sáng, mọi người đều chuẩn bị xong để lên đường. Lao xao có nhiều tiếng người nói từ xóm trong vọng ra. Tân đang dỏng tai nghe thì một người lính chạy vào gọi to:
- Chuẩn úy Tân. Chuẩn úy ra giải quyết nhanh một việc quan trọng.
- Chuyện gì vậy?
- Em và thằng Cán gác trên bờ kinh, trời chưa sáng đã thấy có nhiều ghe của dân đốt đuốc từ bên trong chèo ra. Họ bảo, hôm nay mình hành quân vào nên họ ra ngoài lộ để lánh nạn. Tụi em chận lại không cho đi, bảo phải đợi để em vào báo cáo cho cấp chỉ huy.
Tân vỗ vai thằng lính:
- Được rồi, chú về nơi gác đi, tôi ra ngay bây giờ. Mình cho họ đi qua nhưng phải quan sát cho kỹ, coi chừng Việt cộng trà trộn, tung lựu đạn vào nơi đóng quân của mình.
Tân theo chú lính ra bờ sông. Trong lòng sông nhỏ, cách vọng gác khoảng một trăm mét, có đến gần hai mươi chiếc ghe chở đầy đồ đạc và người. Trời đã sáng hẳn, Tân thấy toàn là đàn bà và trẻ con. Cậu khoát tay; những người trên ghe mừng rỡ, khoắng ngay mái chèo xuống nước cho ghe tiến tới. Từ xóm trong, nhiều ghe xuồng khác vội vã chèo ra.
Tân trở vào và nhận được lệnh lên đường. Mọi người khoác ba lô lên vai, súng cầm tay, lần lượt ra khỏi điểm đóng quân.
Đường dễ đi vì bằng phẳng và khô ráo dù mùa mưa chưa chấm dứt. Tuy nhiên càng tiến sâu vào, tiểu đoàn càng đi chậm lại, một phần vì phải quan sát cẩn thận, một phần vì có nhiều cầu khỉ làm bằng một cây nhỏ bắt ngang qua con mương rộng.
Làng xóm ở đây khá trù phú. Dân chúng sống dọc theo hai bên bờ sông, trong những căn nhà lá khang trang và sáng sủa. Chung quanh mỗi nhà đều có vườn cây ăn trái, sau vườn là đồng lúa mênh mông, đám thì mơn mởn xanh tươi, đám thì bắt đầu úa vàng với những bông lúa nặng hạt.
Nhà nào cũng mở toang cửa, nhìn vào là thấy ngay một người lớn tuổi ngồi im lặng trông ra ngoài, dáng điệu như muốn chứng tỏ cho người ngoài biết đây là nhà dân vô tội, không hề giấu giếm thứ gì phạm pháp. Tân dừng bước trước một gian nhà, phía trước có một liếp hoa cúc vàng rực rỡ. Cậu ngắm những đóa hoa, cảm thấy niềm vui dậy lên trong lòng. Một người đàn ông đang ngồi bên thềm vội đứng dậy cúi chào thực lễ phép, miệng mỉm cười, hiện rõ sự cố gắng để gây cảm tình. Tân chợt thấy rõ tâm trạng của người dân yếu đuối và đáng thương trong khung cảnh đầy bạo lực của chiến tranh.
Cậu quay lại định bước tới thì một binh sĩ đang đi phía trước quày quả quay trở lại, hỏi:
- Chuẩn úy, tiểu đội Một đi đến một ngã ba, phía trước có con rạch chắn ngang. Đi thẳng hay rẽ phải?
- Cho nghỉ một chút rồi rẽ phải đi bọc ra lộ.
Tân vén tay áo nhìn đồng hồ, nghĩ thầm:
- Đi được non sáu cây số rồi. Còn độ chín cây số nữa. Có thể kết thúc cuộc hành quân vào xế chiều.
Sau khi nghỉ ngơi một lúc, Tân đốc thúc trung đội lên đường. Một giờ đồng hồ nữa trôi qua, mọi người thấm mệt. Tân uể oải bước qua một cây gỗ nhỏ bắt qua một con mương, đi thêm vài mươi bước rồi định dừng lại để xin lệnh dừng quân ăn trưa.
“Ầm”, một tiếng nổ khá lớn ngay sau lưng cậu. Tân vội ngồi thụp xuống và quay đầu nhìn lui. Qua làn khói mỏng, cậu thấy một thân người nằm dài trên mặt đất rên la đau đớn. Cái thân cây nho nhỏ dùng làm cầu khỉ văng tuốt xuống nước. Có tiếng la:
- Chuẩn úy ơi, thằng On bị mìn gãy chân rồi.
Tân hét to, bảo lính bố trí, đề phòng địch xung phong lên tấn công. Cậu đứng dậy quan sát một vòng rồi lấy trớn phóng qua mương đến gần người bị thương. Binh nhì On nằm dài trên mặt đất, mặt nhăn nhó vì đau đớn. Hạ sĩ Bi đang ngồi bên cạnh:
- Để em coi, băng bó cho nó.
Tân ngồi xuống kế bên, hỏi:
- Vết thương thế nào?
Hạ sị Bi trả lời:
- Chỗ bị thương không chảy máu. Có thể bàn chân và gót chân bị chấn động bên trong. Cũng may quả mìn nhỏ, có lẽ là thứ “đạp lôi” tự tạo nên vết thương không nặng lắm. Quả mìn gài ngay bên dưới cây gỗ làm cầu khỉ nên khi nổ làm cây nầy bật vào chân gây chấn động bên trong.
Tân nhìn cái lỗ do sức nổ tạo ra ở mé mương:
- Tại sao cả trung đội Hai đã đi qua, rồi tôi là người cuối cùng bước lên đó mà không nổ?
- Có lẽ quả mìn được chôn hơi sâu nên, lúc đầu, ngòi nổ còn cách cây gỗ một khoảng ngắn. Nhiều người đạp lên, đầu cây lún dần xuống, đến phiên thằng On thì phát nổ. Thằng Việt cộng nầy rất khôn. Nó làm như thế là không muốn cho mìn nổ ngay đứa đầu tiên thường là binh sĩ mà nổ ở khoảng giữa, hi vọng trúng cấp chỉ huy của chúng ta.
- Tân vỗ nhẹ vào mặt thằng On:
- Còn đau lắm không?
Nó gật đầu, mặt tiếp tục nhăn nhó.
Hạ sĩ Bi nói:
- Đau lắm chứ. Tuy không chảy máu nhưng có thể gãy xương và đứt gân bên trong. Bây giờ phải bó bàn chân cho chặt rồi xin phương tiện tải thương đưa về quân y viện.
- Được rồi, anh em dừng lại bố trí cẩn thận. Tôi quay lui báo cáo và xin lệnh đại đội trưởng.
Trung sĩ Hy dứng kế bên nói:
- Để tôi đi liên lạc. Chuẩn úy hãy ở lại đây để chỉ huy trung đội. Chúng nó có thể thừa lúc mình có người bị thương tấn công hay phóng lựu đạn vào.
- Vâng, trung sĩ đi giúp rồi trở về cho nhanh.
Hy vụt chạy đi, vài phút sau trở lại nói trong hơi thở hổn hển:
- Trung úy bảo rằng bị thương nhẹ như thế không thể xin phương tiện tải thương được. Cũng không thể quay lui vì bộ chỉ huy hành quân đã di chuyển sang điểm đến chứ không còn ở địa điểm xuất phát nữa. Vì vậy, trung đội phải tự giải quyết, đưa người bị thương đi theo cho đến khi ra lộ sẽ có xe cứu thương chở về quân y viện.
Tân lấy tay vỗ trán:
- Gay go nhỉ.
Cậu quay sang hạ sĩ Bi, ra lệnh:
- Tiểu đội Hai lấy ra một cái võng và hai người khiêng đi. Đồ đạc, súng ống của ba người chia cho hai người khác mang.
Trung sĩ Hy cắt ngang:
- Không được đâu chuẩn úy. Làm như thế là mất đi năm người chiến đấu. Đoạn đường sắp tới chắc chắn nguy hiểm hơn đoạn vừa qua, cần phải bảo toàn tối đa lực lượng chiến đấu. Chuẩn úy nên tính cách khác đi.
Tân lại đập tay vào trán:
- Trung sĩ nói đúng. Phải có phương cách khác.
Cậu quay mặt vào căn nhà gần đó, thấy một người đàn ông đang đứng tựa cửa nhìn ra. Cậu đưa tay vẫy gọi. Người nầy hoảng hốt bước nhanh ra, mặt mày tái mét. Tân hỏi:
- Còn ai trong nhà nữa không?
- Dạ thưa không, chỉ có một mình tôi. Nhưng không phải tôi làm việc nầy, xin quí ông soi xét đừng bắt tội tôi.
Ông vừa nói với giọng run run vừa đưa mắt nhìn người bị thương. Tân xua tay:
- Chuyện nầy không liên can gì tới chú. Nhà kế bên có ai khoẻ mạnh nữa không?
- Dạ có, em rể tôi. Nhưng nó hiền lắm, không làm gì mang tội đâu. Nó chỉ ở đây làm ruộng như tôi vậy thôi. Sáng nay ra ruộng, nghe nói có hành quân nên hai anh em rủ nhau về coi nhà. Mấy ông hành quân xong thì chúng tôi lại ra ruộng chứ không dại dột làm gì khác.
Tân tỏ ý bực mình:
- Đừng phân trần nữa, chúng tôi không bắt tội các ông đâu. Đi gọi em rể chú ra đây. Mang theo một cái đòn dài từ hai thước rưỡi đến ba thước. Có hay không?
- Dạ có.
- Thế thì nhanh lên đi.
Người nông dân vụt chạy đi. Vài phút sau, hai người trở ra với một cái đòn bằng tre. Tân cho cột hai đầu võng vào đòn và bảo hai người nông dân:
- Tôi nhờ hai chú khiêng người lính bị thương nầy theo chúng tôi. Hai chú có bằng lòng không?
- Dạ được, dạ được. Chúng tôi xin khiêng đi. Chúng tôi quen đi trên đường nầy rồi. Hai anh em tôi khiêng thì êm lắm, qua cầu khỉ cũng nhẹ nhàng như đi trên đường bằng.
- Được, tốt lắm, thôi lên đường.
Cuộc hành quân tiếp tục đến bốn giờ chiều thì chấm dứt. Đích đến là một vùng nằm sát lộ. Thằng On lập tức được đưa lên xe chở về quân y viện Sa đéc. Hai người nông dân xếp võng lại giao cho trung sĩ Hy và ngồi đợi bên vệ đường. Khi thấy Tân đi đến, hai ông vội đứng dậy, dáng điệu khúm núm, giọng nói run run:
- Dạ thưa, ra đến đây rồi, bây giờ anh em tôi xin quý ông mở lượng từ bi cho chúng tôi trở về nhà. Chúng tôi không hề nhúng tay vào cái chuyện rủi ro vừa rồi của quý ông.
Tân nói:
- Được, xong việc rồi, anh em chú sẽ về nhưng nghe tôi hỏi đây. Hai chú làm ruộng được nhiều hay ít?
- Dạ mỗi đứa được hơn mười công.
- Làm ruộng nhà xong, hai chú có đi làm thuê cho người khác không?
- Dạ cũng có, để kiếm thêm tiền chợ cho má sắp nhỏ.
- Mỗi ngày làm thuê được bao nhiêu tiền?
- Dạ thường thì được năm chục đồng.
Tân móc túi quần móc ra tờ bạc một trăm đồng và nói:
- Đây, tiền công của hai chú. Chúng tôi hết sức cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của hai chú.
Hai người nông dân đứng há hốc nhìn Tân một cách lạ lùng, như không tin lời nói của Tân là thực lòng.
Người nông dân đưa trả tờ bạc lại cho Tân, giọng ấp úng:
- Dạ thưa, dạ thưa….
Tân đỡ lời:
- Tôi là chuẩn úy trung đội trưởng.
- Dạ thưa quan, tôi không dám lấy tiền của quan đâu. Tôi không ngờ, tôi không ngờ.
Tân nhíu mày:
- Chú không ngờ cái gì? Không ngờ tôi trả quá ít tiền phải không? Tôi phải trả cho hai chú bao nhiêu thì vừa phải?
Ông nông dân xua cả hai tay, hít vào một hơi dài, cố lấy giọng bình tĩnh:
- Dạ không phải chê ít đâu. Khi nãy mìn nổ ngay trước nhà tôi, thấy có người ngã xuống thì tôi đã cầu khẩn đức Quan thế âm cứu mạng cho gia đình tôi. Khi quan gọi tôi ra thì tôi tưởng tai nạn tới rồi nên bủn rủn tay chân. Tôi chắc thế nào cũng bị đánh đập để tra khảo cho ra cái kẻ gài mìn rồi đi ở tù ít nhất vài năm, vợ con ở nhà sẽ nheo nhóc. Tôi không ngờ gặp quan nhân đức, từ bi. Anh em tôi xin đội ơn và xin trở về, không dám nhận tiền của quan đâu.
Tân vừa cảm động, vừa buồn cười. Cậu giả bộ nghiêm nét mặt:
- Hai chú phải nhận món tiền công nầy vì mất nguyên một ngày làm việc hôm nay. Còn nếu không nhận thì phải khiêng người bị thương trả lại chỗ cũ cho tôi.
Câu nói khôi hài làm mọi người chung quanh bật cười. Tân nhét tờ bạc vào túi ông nông dân và nói:
- Thôi hai chú đừng từ chối nữa mất thì giờ, chúng tôi sắp phải lên xe rồi. Nên nhớ sĩ quan chúng tôi rất sòng phẳng với dân chúng. Hai chú đã đổ mồ hôi giúp chúng tôi thì đương nhiên được đền bù công khó nhọc, đó là lẽ công bình.
- Dạ dạ, chúng tôi xin nhận và không bao giờ chúng tôi quên lòng tốt của quan và mấy anh em ở đây. Cầu Trời Phật phù hộ cho quan và mấy anh em.
- Cám ơn hai chú, thôi xin giã từ nhé.
Tân đứng im nhìn theo hai người nông dân lủi thủi đi trên con đường làng cho đến khi khuất bóng.
- Tội nghiệp!
Tiếng nói ở phía sau làm Tân giật mình quay lui, thấy Bính đang đứng mỉm cười và nói tiếp:
- Anh Tân, anh vừa có một hành động rất đẹp và rất cảm động. Cuộc chiến tranh tàn ác nầy buộc những người dân quê hiền lành chất phác của mình phải sống với một tâm trạng bất an, lúc nào cũng sợ hãi lo âu. Hành động vừa rồi của anh rất xứng đáng là của một người thực sự yêu nước thương dân.
Trung sĩ Hy cũng cao hứng phụ họa:
- Trung đội Hai chúng tôi may mắn có được chuẩn úy Tân, cấp chỉ huy đức độ. Người dân quê mình thực là đáng thương, phải không chuẩn úy?
Tân gật đầu:
- Ừ, thực là đáng thương.

Đến gần tối, tiểu đoàn nhận được lệnh đóng quân tại chỗ. Liên tiếp trong mười ngày, tiểu đoàn tổ chức những cuộc hành quân nhỏ, chung quanh thị xã và không hề đụng một trận nào. Các đơn vị vũ trang của Việt cộng có lẽ đã lánh đi nơi khác, nên vùng an ninh chung quanh bộ tư lệnh sư đoàn mở rộng ra, dân chúng trong vùng được yên ổn làm ăn.
Một buổi chiều, trung úy Bá đi họp ở bộ chỉ huy tiểu đoàn về, triệu tập ngay các trung đội trưởng lại. Anh nói:
- Ngày mai chúng ta lên đường di chuyển đi nơi khác.
Chuẩn úy Tám hỏi ngay:
- Đi đâu vậy?
- Hà tiên.
- Hành quân vùng biên giới phải không?
- Không, chúng ta đi đóng đồn.
Tám ngạc nhiên:
- Tại sao đóng đồn? Đó là nhiệm vụ của bảo an và dân vệ mà. Mình là lính chính qui, sao lại làm công việc đó. Hay lại làm mồi nhử Việt cộng như dạo ở ngoài Trung.
Trung úy cười:
- Đừng lo, không phải làm củ khoai nhử chuột nữa đâu. Kỳ nầy thì đóng đồn để giữ an ninh thực sự. Đây là một địa điểm rất quan trọng đang được một tiểu đoàn bảo an giữ gìn nhưng có tin một đơn vị khá lớn của Việt cộng xuất hiện gần đó nên chúng ta phải đến thay thế cho tiểu đoàn bảo an đó.
- Chỗ nào mà quan trọng vậy?
- Nhà máy xi măng Hà tiên đặt tại Kiên lương.
Bính cướp lời:
- Tôi biết rồi. Nhà máy nầy do Pháp viện trợ cho mình. Từ trước đến giờ, Việt Nam chỉ có một nhà máy xi măng duy nhất tại Hải phòng, nay thuộc về miền Bắc. Từ sau khi đất nước bị chia đôi, miền Nam phải nhập cảng xi măng của ngoại quốc, trong khi nguyên liệu ở xứ mình thì không thiếu.
Bá nói tiếp:
- Đúng vậy. Người Pháp biết rất rõ điều nầy nên giúp mình xây dựng nhà máy ở Kiên lương một vùng thuộc Hà tiên, nơi có rất nhiều núi đá vôi. Đây là một công trình kinh tế loại lớn giúp kiến thiết miền Nam. Vì vậy nhất định Việt cộng sẽ cố gắng đánh phá vì sợ miền Nam mình phát triển thì dân chúng sẽ ấm no và giàu lên. Chúng ta cần chận đứng âm mưu nầy của Việt cộng. Về đó, chúng ta sẽ không nhọc nhằn như trong các cuộc hành quân nhưng cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ mà mình sắp đảm nhiệm.
- Chừng nào chúng ta lên đường?
- Sáng sớm mai. Phải mất trọn một ngày di chuyển. Từ đây đến Rạch giá đường khá tốt, nhưng từ Rạch giá đến Kiên lương thì đường xấu lắm nên xe sẽ chạy rất chậm. Các trung đội phải thức dậy từ khuya, nấu cơm cho ba bữa ăn, sáng, trưa và chiều. Chúng ta sẽ đến nơi khá trễ, lính không thể tìm ra củi để nấu cơm.
- Ở đó có sẵn doanh trại cho mình không?
- Tôi không biết và tiểu đoàn cũng chẳng biết đâu.
- Nhưng ở đó đã có một lực lượng bảo an canh giữ bấy lâu nay rồi mà.
- Đúng vậy, nhưng mình đâu biết họ ăn ở thế nào. Có khi họ ở trong các lều vải và khi đi thì cuốn lại mang theo.
Tân vẫn còn thắc mắc:
- Lực lượng bảo an phần nhiều là lính địa phương quen với địa thế và công việc canh phòng bấy lâu nay, tại sao lại phải thay thế?
Trung úy giải thích:
- Theo tin tình báo, địch đang tập trung khá đông để phá hoại công trình, sợ tiểu đoàn bảo an không giữ nỗi nên đưa chúng ta đến. Vả lại, về nguyên tắc, tại những nơi trọng yếu, đơn vị canh giữ không được ở quá lâu. Sau một thời gian lại phải đổi đơn vị đồn trú khác.
- Đề phòng nội tuyến?
- Chớ sao. Kẻ thù của chúng ta rất tinh quái, tìm trăm mưu ngàn kế để mua chuộc lính mình. Lúc mình đóng đồn ở Kannack thì không lo chuyện nội tuyến vì chẳng có người dân nào ở chung quanh, nhưng vô miền Nam nầy thì phải hết sức cẩn thận. Ban an ninh của tiểu đoàn yếu lắm không lo hết việc được đâu. Chính các trung đội trưởng phải lo kiểm soát lính mình. Đó thực sự là công tác phản gián, các trung đội trưởng phải ý thức thực đầy đủ để hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với quốc gia và cũng là bảo đảm cho mạng sống của chính mình. Đại úy tiểu đoàn trưởng dặn tôi thông báo kỹ cho anh em như thế, những chi tiết khác, chúng ta sẽ biết thêm khi đến nơi. Anh em có ý kiến gì nữa không?
Trung úy dừng lại nhìn mọi người nhưng không nghe ai nói gì nên anh tiếp:
- Còn điều nầy nữa. Từ ngày bắt đầu xây dựng công trình thì dân tập trung lại càng ngày càng nhiều. Hiện nay nhà máy ở Kiên lương đã bắt đầu khai thác đá vôi, nghiền ra chở về nhà máy ở Thủ đức để chế biến. Cùng lúc, công trình xây dựng vẫn tiếp tục. Vì vậy số công nhân càng ngày càng tăng lên, cộng thêm với lính đồn trú nên tại nơi đó bây giờ khá đông đúc. Hễ chỗ nào có đông người xa nhà tập trung thì chỗ đó có nhiều gái điếm đến hành nghề và chúng ta phải đề phòng bị lây bệnh và đề phòng gián điệp tổ chức nội tuyến. Tóm lại chúng ta luôn luôn phải cảnh giác. Địch chỉ tấn công khi mình sơ hở. Phòng thủ chắc thì chúng nó không dám tấn công. Bây giờ các anh về hỏi lính có thiếu nợ hàng quán ở đây không. Nếu có thì phải lo trả cho hết đi. Không trả dân sẽ bảo rằng lính mình ăn cướp rồi Việt cộng nhân đó tuyên truyền bôi nhọ quân đội mình.
Sáng sớm hôm sau, một đoàn quân xa đến chở tiểu đoàn rời khỏi Sa đéc.


*
* *


Trên cánh đồng Hà tiên rộng mênh mông, phủ đầy cỏ dại và hoang vu, nổi lên nhiều núi đá vôi hình thù kỳ dị. Mà máy xi măng Kiên lương nằm tựa lưng vào một trong những hòn núi đó. Trước mặt nhà máy là một con kênh khá rộng dẫn nước lũ trong nội đồng đổ ra vịnh Thái lan. Dọc theo con kinh là một lộ đá nối liền Rạch giá với Hà tiên.
Sau một ngày di chuyển, khi trời sắp tối, đoàn công voa đến nơi, đậu cạnh một xóm nhà lá ven lộ. Mọi nhà đều đã lên đèn. Hầu hết các nhà là những quán tạp hoá nhỏ và những quán ăn tồi tàn. Bên kia con kênh, nhà máy xi măng nép mình dưới chân một hòn núi đen thui như một chú voi khổng lồ.
Sau khi xuống xe, đại đội Một được lệnh qua kênh với một chiếc ghe và đóng quân trên một bãi đất bằng phẳng sát bờ kênh.
Trung úy Bá triệu tập các trung đội trưởng để truyền lệnh. Anh nói:
- Chúng ta đóng ở đây và trấn giữ mặt nầy cho nhà máy, các mặt khác do các đại đội kia trấn giữ. Tiểu đoàn cho hay nhiệm vụ chúng ta rất nặng vì trước hết Việt cộng phải tràn ngập phòng tuyến của chúng ta rồi mới có thể tấn công vào nhà máy được. Tôi sẽ chỉ định chỗ đóng quân cho các trung đội. Các anh thấy đây là miếng đất trống không có nhà cửa gì cả. Đêm nay chúng ta ngủ tạm giữa trời, bắt đầu ngày mai sẽ lo chỗ ở. Mình sẽ ở đây trong nhiều tháng nên mỗi tiểu đội phải cất một cái nhà. Việc nầy thì lính mình đã quen lắm rồi nhờ thời gian sống ở Kannack.
Anh chỉ xóm nhà bên kia sông và nói tiếp:
- Dân tụ tập về ở bên đó. Họ sống nhờ buôn bán với lính đồn trú và công nhân của công trường. Vài cô gái điếm sống và hành nghề lẫn lộn trong đó. Ở đây không có chính quyền nên số dân đó gần như sống ngoài vòng pháp luật. Tôi rất mừng là chỗ đóng quân của mình cách xóm dân đó bằng con kênh khá sâu nầy. Chúng ta được nhà máy cấp phát cho một chiếc xuồng ba lá. Tôi ra lệnh chỉ được sử dụng ban ngày mà thôi. Ban đêm thì giới nghiêm không được qua lại. Tôi sẽ xin lệnh tiểu đoàn để ấn định giờ giới nghiêm sau. Bây giờ các anh theo tôi để nhận vị trí cho trung đội mình và sắp đặt chỗ canh gác. Mỗi trung đội có ba vọng gác cho ba tiểu đội.
Các trung đội trưởng theo chân trung úy Bá. Vị trí đóng quân của cả đại đội là một khu vuông vức. Ba trung đội trấn ba phía, trung đội vũ khí nặng lo canh gác mặt kênh.
Một đêm qua yên tĩnh. Ngày hôm sau, ngoài những người canh gác, cả đại đội vào trong cánh đồng hoang để đốn cây, cắt tranh về làm nhà. Sau ba ngày, những căn nhà nho nhỏ xinh xinh mọc lên, cuộc sống đồn trú bắt đầu ổn định.
Một tuần lễ sau ngày đến, tiểu đoàn tổ chức liên tiếp trong ba ngày những cuộc hành quân truy lùng địch để mở rộng vòng đai an ninh cho nhà máy.
Hơn nửa tháng trôi qua, cuộc sống của những người lính “trấn thủ lưu đồn”, tuy không cực nhọc nhưng đã bắt đầu nhàm chán. Ban ngày, chiếc xuồng cấp phát cho đại đội liên tục chở lính qua về con kênh. Đêm đến, mọi người vào tuyến phòng thủ, luân phiên canh gác suốt đêm.
Tân và Bính ngày nào cũng gặp nhau sáng và chiều. Chẳng còn chuyện gì để thảo luận, hai cậu ra ngồi trên bờ kênh để câu cá. Một hôm, Bính nói với Tân:
- Bây giờ rảnh rỗi, anh nên xin trung úy Bá cho về Sài gòn chơi một chuyến và ghé thăm ba em. Ông đang mong anh lắm đó. Sẵn dịp nầy, anh lấy về đây một số sách để anh em mình đọc cho bớt thì giờ nhàn rỗi. Trong tủ sách của em có nhiều sách hay, em mua mà chưa kịp đọc, anh chọn lấy không phải đi mua đâu cả.
- Nhưng từ chuyến đi vừa rồi của em đến nay mới có một tháng rưỡi thôi. Anh Bá quy định phải hai tháng mới cho một người trốn về thăm nhà, em không nhớ sao?
- Anh trọng nguyên tắc thái quá. Anh cứ xin anh Bá đi. Bây giờ đang ở yên tại chỗ, thế nào anh ấy cũng cho đi.
Theo lời khuyên của Bính, Tân đi tìm trung úy Bá. Sau khi nghe Tân trình bày, trung úy nói với giọng ôn tồn:
- Anh về thăm nhà bây giờ thì không có gì trở ngại cho việc phòng thủ của đại đội. Tuy nhiên anh nên suy nghĩ lại. Tình hình chính trị ở Sài gòn đang rất bất ổn. Tôi vừa mới nói chuyện với sĩ quan an ninh của tiểu đoàn. Nhiều đài phát thanh ngoại quốc tiên đoán sắp có đảo chánh ở Sài gòn. Cũng có tin đồn Mỹ không còn ủng hộ tổng thống nữa nên tổng thống đang tìm trung gian để hòa giải với cộng sản Bắc Việt. Nội bộ miền Nam đang bị chia rẽ trầm trọng, các phe phái đang ghìm nhau. Tuần rồi tất cả sĩ quan an ninh tiểu đoàn và trung đoàn được chỉ thị phải theo dõi và báo cáo trong đơn vị mình phụ trách sĩ quan nào muốn thỏa hiệp với cộng sản, sĩ quan nào ủng hộ sự tranh đấu của Phật giáo và nếu đảo chánh xảy ra thì sĩ quan nào sẽ theo phe đảo chánh, sĩ quan nào sẽ trung thành với chính phủ.
- Sĩ quan an ninh tiểu đoàn mình báo cáo thế nào?
- Anh ta bảo chẳng biết rõ trong bụng người ta nghĩ gì nên chưa báo cáo được, xin hẹn lại để nghiên cứu tiếp. Tôi nói như thế để anh hiểu sĩ quan chúng mình bị ngay phe mình để ý khá gắt gao. Anh về Sài gòn, tôi nhắc lại, đối với công việc của đại đội thì không có gì trở ngại nhưng nếu vướng vào chuyện gì đó thì rất phiền phức cho anh.
- Anh đã nói rõ như thế thì tôi sẽ để ý tránh tất cả những gì có thể gây phiền phức.
- Được rồi, nếu anh muốn thì cứ đi và về càng sớm càng tốt. Nhớ đừng bao giờ đến gần các đám biểu tình chống chính phủ do Phật giáo tổ chức. Nếu hình chụp đám biểu tình nào đó mà có mặt anh thì nguy lắm. Đi đường, nên cẩn thận, tốt hơn hết là tránh đi xe đêm; bị Việt cộng chận lại một giờ thôi thì anh sẽ bị an ninh điều tra cả tháng chưa xong rồi còn có thể bị thuyên chuyển ra vùng hỏa tuyến nữa. Sau cùng, nếu có đảo chánh thì anh phải tìm cách về đây ngay. Tuyệt đối không tỏ thái độ theo ai cả. Quân đội phải đứng trên mọi tranh chấp chính trị.
- Tôi xin nghe theo tất cả lời khuyên của anh.
- Tốt lắm. Anh dự trù đi mấy ngày?
- Ba ngày. Nếu kẹt đường thì bốn ngày. Sáng mai tôi khởi hành được không?
- Được. Từ đây anh đi xe về Rạch giá rồi từ đó mới có xe về thẳng Sài gòn. Chúc anh đi may mắn và vui vẻ. Trước khi đi nhớ bàn giao công việc cho trung sĩ Hy.
Sáng hôm sau, Tân vừa qua kênh, tới đường lộ thì may mắn gặp chuyến xe về Rạch giá và sang xe đến Sài gòn khi đường phố mới lên đèn. Cậu xuống xe buýt ở đầu đường Phan đình Phùng, ôm gói trái cây mua ở bến phà Mỹ thuận, đi dài theo đường Vườn chuối. Nhà ở đây thay đổi nhiều so với tám năm về trước, thời cậu còn đi học và còn hoạt động cho thành đoàn. Cậu chăm chú nhìn các số nhà. Kia rồi nhà của Bính là tiệm tạp hóa có đèn sáng trưng phía trước. Cậu đi đến và dừng lại nhìn vào. Một thiếu phụ mảnh mai đang ngồi làm việc gì đó bên trong. Cậu khẽ gọi:
- Mai!
Nàng đứng bật dậy, nhìn sửng sốt. Tân bước vào nói nhỏ:
- Mai, chào em, em khỏe không?
Bạch Mai đưa hai bàn tay lên áp vào khuôn mặt ửng hồng, giọng thì thào:
- Anh Tân, anh về nhà em đó à?
Tân nghe tim mình đập rộn rã. Cậu cố giữ vẻ thản nhiên và mỉm cười:
- Sao Mai hoảng hốt vậy? Anh về thực mà chứ có phải hồn ma đâu. Bác trai đâu? Bình đâu?
- Hai ông cháu đang nằm trong phòng. Anh ngồi chơi để em mời ba ra. Anh về được lâu không, ở tại nhà nào?
Tân lắc đầu:
- Anh chỉ về được một ngày thôi. Ở đây anh chẳng có nhà cửa gì cả. Anh về thăm Sài gòn, thăm… Mai và nghỉ tại đây, Mai có bằng lòng không?
Nàng nhìn Tân, mắt ướt như sắp khóc:
- Sao anh lại hỏi em như vậy? Em mong điều nầy tự biết bao năm rồi. Lúc nào em cũng đau đớn vì nghĩ rằng anh giận và ghét em nên không bao giờ đến nhà em nữa.
Nàng quay lại, bước vào trong và gọi lớn:
- Ba ơi ba. Anh Tân ở đơn vị về thăm đây nầy.
Có tiếng nói khàn khàn già nua:
- Cái gì? Con nói ai? Cậu Tân hả? Ừ, ba xuống ngay.
Mai quay lui:
- Anh Tân, anh vừa mới xuống xe phải không?
Tân gật đầu. Mai nói tiếp:
- Thế là anh chưa ăn cơm tối.
- Nhà dùng cơm chưa?
- Xong rồi, bây giờ anh đợi một chút, em đi bắc cơm.
- Thôi, đừng nấu mất thì giờ. Tí nữa, anh ra ra ngoài, ăn qua loa được rồi. Anh là lính chiến mà.
Mai bước đến gần Tân, giọng hơi nũng nịu:
- Không, anh để em nấu anh ăn. Em mong làm việc nầy từ lâu rồi mà.
Mai nói xong, mặt hơi ửng đỏ vì hổ thẹn. Nàng vội quay lui, đi xuống bếp.
Trong buồng có tiếng dép lẹp xẹp. Ông cụ bước ra, bé Bình theo sau. Ông đưa cả hai tay về trước nắm lấy tay Tân, giọng vui vẻ:
- Tân, cháu về một mình, Bính không cùng về à?
- Thưa bác, trong đại đội mỗi lần chỉ được vắng mặt một sĩ quan thôi.
- Ừ phải rồi, nó mới về cách nay chưa đầy hai tháng. Đêm nào, ngày nào cũng nhớ nó nên hai tháng dài như hai năm.
Ông quay lui:
- Bình, con chào bác đi.
Bình ngoan ngoãn vòng tay cúi đầu chào. Tân cúi xuống bế bé lên chỉ gói trái cây mà cậu để trên bàn lúc mới vào:
- Quà của cậu Bính gởi cho cháu đó.
Ông cụ cười hiền lành:
- Kỳ trước thằng Bính về có đưa cho nó cây súng bằng nhựa bảo rằng của bác đại tướng Tân gởi cho, nó thích quá, tối nào cũng mang vào mùng ôm ngủ. Kỳ nầy cháu về thằng Bính có biết không?
- Dạ biết, chúng cháu ở chung một đại đội.
- Tôi biết điều đó. Trong cái rủi cũng có cái may. Ra chiến trường hiểm nguy, có anh em bạn bè thân thiết giúp đỡ nhau thì là điều may vậy. Hai anh em còn ở Bến tre không?
- Không còn ở đó nữa. Đơn vị cháu rời Bến tre qua Sa đéc hành quân một thời gian, bây giờ về đóng đồn để giữ an ninh cho công trường xây dựng nhà máy xi măng Hà tiên.
- Ở đó có yên không?
- Tiểu đoàn cháu mới đến hơn nữa tháng nay và chưa thấy hoạt động nào của phía bên kia. Tuy nhiên cũng phải đề phòng vì nhà máy Kiên lương là một công trình lớn của miền Nam.
- Ừ, qua báo chí, bác có biết việc xây dựng nhà máy đó. Bác thích lắm. Miền Nam nầy mà đừng có chiến tranh, dân được yên ổn sản xuất, chính phủ thì lo xây dựng nhà máy, chẳng bao lâu chúng ta sẽ giàu hơn tất cả các nước ở Đông nam Á nầy.
- Dạ cháu cũng nghĩ như thế. Người mình giỏi, siêng năng và chịu khó. Sinh viên Việt Nam du học ở Âu Mỹ, rất nhiều người nổi danh là thông minh và hiếu học. Thế mà đất nước mình cứ lận đận mãi. Ở thành phố có an ninh dân còn đỡ khổ. Đi hành quân vào thôn quê, cháu thấy dân mình khổ vì chiến tranh mà xót xa. Những người gây ra cuộc chiến tranh nầy quả có tội với Tổ quốc và với dân tộc.
Ông cụ gật đầu:
- Họ là những người có tội. Trước đây bác cũng đã từng theo họ nên không muốn kết án họ. Nhưng càng suy nghĩ càng thấy đau lòng. Từ bỏ họ là hợp với lẽ phải, hợp với đạo lý làm người. Bác cũng mong tất cả người miền Nam thấy rõ được bản chất của họ, không ủng hộ họ nữa thì chiến tranh mau chấm dứt. Bác cầu mong điều đó để được vài năm sống với thằng Bính, cưới vợ cho nó, trông thấy mặt cháu nội rồi vui lòng về bên kia thế giới gặp gỡ mẹ nó.
Giọng cụ trầm xuống, với nụ cười buồn bã. Tân tiếp lời:
- Bính cũng có ước mơ như bác. Đi tới chỗ nào có phong cảnh đẹp, Bính cũng bảo rằng hòa bình rồi sẽ làm nhà ở chung với bác để lo cho tuổi già của bác.
- Tội nghiệp cho nó. Chừng đó tuổi đầu mà chưa bao giờ nghĩ tới điều gì ích lợi riêng cho mình. Nó là đứa con rất hiếu đễ của gia đình bác. Lúc mẹ nó mất, con Mai vừa mới sinh con, bác bệnh lên, bệnh xuống, tiền lương hưu đổ cả vào thuốc men, gia đình lâm cảnh khốn cùng. Chính nó đã cứu nguy cho gia đình. Cái tiệm tạp hóa nầy của con Mai, tấm áo lành lặn của thằng cháu Bình, sức khoẻ của bác và mọi tiện nghi trong nhà là do công sức làm việc ngày đêm của nó.
- Dạ cháu biết chuyện đó. Bính có kể cho cháu nghe. Cháu kính phục Bính lắm.
Ông cụ gật đầu hài lòng:
- Ừ, từ khi còn học trong quân trường đến khi ra đơn vị, mỗi lần về phép, thằng Bính luôn luôn nhắc đến cháu. Nó tỏ ra quí mến cháu lắm. Ngoài chiến trường, anh em gần gũi nhau, thương yêu nhau như thế là tốt lắm. Nó nhỏ tuổi hơn cháu, cháu để ý chỉ vẽ thêm cho nó.
Tân cười:
- Cháu lớn tuổi hơn Bính nhưng cháu cần học hỏi ở Bính rất nhiều điều. Bính rất xứng đáng được sự yêu mến và kính nể của mọi người.
Vừa lúc đó, Mai từ dưới bếp bước lên, nói một cách vui vẻ:
- Cơm sắp chín rồi, ba ngưng nói chuyện để anh Tân đi tắm rửa rồi dùng cơm. Anh Tân đói bụng lắm rồi phải không? Anh hãy đi theo em.
Tân lấy cái túi đựng đồ dùng, đi theo sau lưng Mai. Nàng đưa tay chỉ vào một cánh cửa nhỏ:
- Nhà tắm trong đó, anh vào tắm đi, rồi ra đây dùng cơm. Nguyên cái phòng phía trước dùng bán hàng nên cả nhà dùng cơm dưới bếp nầy. Tuy khách là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, nhưng em cũng đãi ăn tại đây luôn.
Tân bước đến cánh cửa nhưng không đi vào lại đứng tần ngần tại chỗ. Mai quay lại ngạc nhiên:
- Anh vào tắm đi, đủ nước và xà bông trong đó rồi.
Tân ngập ngừng:
- Anh phải ra ngoài một chút.
- Để làm gì vậy? Có ai đợi ngoài đó hay chưa trả tiền xe ích lô? Vào tắm đi. Để em ra trả cho.
- Không phải, anh cần đi mua cái khăn lau. Sáng nay đi gấp anh quên mang theo.
Mai cười:
- Đàn ông thường đãng trí.
Nàng hạ giọng:
- Thôi, anh khỏi đi mua, anh dùng tạm khăn của em cũng được.
Nàng nói xong, mặt hồng lên một cách đáng yêu trong khi rút chiếc khăn trắng đang phơi trên dây trao cho Tân.
Khi Tân tắm xong, cậu áp cái khăn của Mai vào mặt và ngây ngất vì hương thơm từ đó tỏa ra.
Sau bữa cơm, ba người lớn ngồi nói chuyện với nhau khá lâu. Ông cụ tiếp tục hỏi thăm đời sống và công việc ở đơn vị tác chiến. Tân mô tả cho cụ nghe những cuộc hành quân và những điều mà cậu đã chứng kiến ở miền quê đang quằn quại vì chiến tranh.
Ông cụ nghe và lắc đầu buồn bã:
- Quê mình khổ quá. Thành phố thì bình yên hơn nhưng không biết còn yên ổn đến bao giờ.
- Thưa bác, nghe nói thủ đô bây giờ bất ổn lắm phải không?
- Bề ngoài, người ta vẫn làm ăn, buôn bán như thường, nhưng ai cũng chờ đợi trong lo âu. Các đài ngoại quốc thường bình luận tình hình và tiên đoán một cuộc đảo chánh trong nay mai.
- Ai làm đảo chánh? Có phải Phật giáo không?
- Không, Phật giáo có hậu thuẫn của công chúng nhưng không có lực lượng. Chỉ có quân đội mới có khả năng thực hiện đảo chánh. Chắc chắn quân đội sẽ mượn danh Phật giáo để giải thích hành động của họ. Nghe nói, mấy ông tướng trong quân đội còn chờ Mỹ đồng ý mới tiến hành lật đổ chính phủ.
- Miền Nam mình đang lệ thuộc ngoại bang quá nhiều, phải không bác?
- Không lệ thuộc sao được. Mỹ đã chịu tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của và cả nhân lực nữa để giúp cho miền Nam đứng vững thì mình không lệ thuộc họ sao được. Nguyên nhân cũng là do Việt cộng dựa vào Liên xô và Trung cộng để đưa quân và vũ khí vào đây để chiếm cả miền Nam luôn, mình phải nhờ đến Mỹ. Nhờ cậy người ta thì làm sao tránh khỏi sự tùy thuộc. Nếu không có chiến tranh, mình tự lực để sống thì chẳng phải lệ thuộc ai.
Ông Tư ngừng một chút rồi lắc đầu nói tiếp:
- Miền Nam phải nhờ có Mỹ giúp đỡ thì mới có thể đứng vững được. Nhưng bây giờ đang có nhiều tin đồn nói rằng Mỹ không còn hậu thuẫn cho chính phủ hiện nay nữa.
- Tại sao họ không hậu thuẩn nữa?
- Bề ngoài, chính phủ Mỹ bảo rằng chính phủ làm mất lòng dân, nhưng theo bác, lý do chính yếu là tổng thống luôn luôn tìm cách thoát ra khỏi sự lệ thuộc Mỹ nên bị mất hậu thuẩn. Theo bác, cuộc đảo chánh để lật đổ chính phủ chỉ còn là vấn đề thời gian nữa thôi.
Tân tỏ ra lo lắng:
- Như thế là tình hình đang rất trầm trọng. Việc cháu bỏ đơn vị về đây có thể rất nguy hiểm phải không bác?
Ông cụ trầm ngâm:
- Bác không hiểu có nguy hiểm lắm không. Nhưng nếu xảy ra đảo chánh thì nhất định phải có giới nghiêm ngày đêm, xe cộ không còn lưu thông được. Có thể cháu sẽ phải vắng mặt ở đơn vị trong nhiều ngày.
Tân tiếp lời với giọng lo lắng:
- Không được. Cháu chỉ trốn về nhiều nhất là ba ngày thôi. Nếu đi lâu hơn, đại đội trưởng bắt buộc phải báo cáo sự vắng mặt của cháu lên tiểu đoàn. Hơn nữa, nếu có đảo chánh xảy ra, thế nào quân đội sẽ chia thành hai phe, một ủng hộ đảo chánh và một trung thành với chính phủ. Cháu không muốn bị kẹt vào cuộc tranh chấp giữa hai phe đó.
Ông cụ gật gù:
- Cháu nghĩ như thế là phải. Cuộc chiến tranh nầy đã là cuộc chiến huynh đệ tương tàn rồi. Bây giờ trong nội bộ miền Nam lại xảy ra huynh đệ tương tàn nữa thì quả là đau xót.
- Sáng mai cháu phải trở lại đơn vị ngay. Trước khi về, cháu nôn nao vì ý nghĩ có trọn một ngày đi thăm lại những nơi quen thuộc của thành phố thân yêu nầy. Nhưng thôi, cháu đành bỏ ý muốn nầy. Sáng mai cháu phải đi sớm, không dám ở lâu hơn.
- Bác rất tiếc, nhưng đành phải vậy. Lần sau yên ổn hơn, cháu về ở chơi với bác vài ngày.
Ông nhìn xuống thấy Bình đã ngủ say trong lòng ông:
- Thằng bé ngồi nghe rồi ngủ lúc nào không biết. Mai, con đóng cửa tiệm chưa?
- Dạ, con đóng lâu lắm rồi.
Nàng quay sang Tân:
- Hôm nay có anh về chơi nên em dẹp hàng sớm hơn thường lệ. Thôi khuya rồi, ba và anh Tân đi nghỉ đi. Anh Tân đi đường suốt ngày nay chắc chắn mệt lắm rồi. Anh vào ngủ trong phòng với ba em, trên giường trước đây của Bính. Em đã giăng mùng xong rồi.
Ông cụ đứng dậy, Tân đứng dậy theo. Chung quanh hoàn toàn im lặng, thành phố đã vào giờ giới nghiêm.
Đêm thực yên tĩnh. Tân ngủ một giấc ngon lành.

Cậu giật mình khi có tiếng xe Lam nổ lạch bạch ngoài đường. Cậu mở mắt và thấy ánh sáng từ dưới bếp rọi lên. Ở giường bên, ông cụ vẫn còn ngủ say, tiếng ngáy nho nhỏ đều đều. Tân hiểu rằng Mai dậy sớm và đang làm việc dưới bếp. Cậu vén mùng nhè nhẹ bước xuống cầu thang, lẳng lặng đến bếp, trông thấy Mai đang lúi húi bên chiếc lò dầu. Nàng quay lại nhìn Tân cười thật tươi. Tân hỏi nhỏ:
- Mai dậy sớm vậy à?
- Quen rồi. Sáng nào em cũng phải dậy nấu nước để ba em pha cà phê và trà, lo bữa ăn sáng cho cháu Bình, đưa cháu đi học rồi về dọn hàng ra bán.
Nàng nhìn lên đồng hồ treo tường:
- Còn hơn một giờ nữa mới sáng. Sao anh không ngủ tiếp đi.
Tân lắc đầu:
- Không, ngủ như thế đủ rồi, anh phải chuẩn bị về đơn vị càng sớm càng tốt.
Mai ngước nhìn Tân, mắt long lanh thực buồn:
- Em có một chuyện quan trọng muốn nói với anh. Hôm qua thấy anh về em mừng quá. Không ngờ vì tình hình bất ổn, anh phải đi gấp.
Tân ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy Mai?
Mai lắc đầu:
- Chuyện quan trọng nhưng không còn thì giờ để nói nữa. Em đã có cách rồi. Anh đi rửa mặt đi, em đang làm bữa ăn sáng cho anh đây.
Tân rửa mặt xong, ngồi xuống ghế nhìn quanh. Mai cười dịu dàng:
- Anh thấy nhà khác trước kia phải không? Em Bính gọi thợ lại sửa cách đây ba năm.
Tân chỉ chiếc cầu thang gần như dựng đứng:
- Cầu thang nầy dẫn đi đâu?
- Khi sửa nhà bếp, Bính cho bóc bỏ mái ngói và đúc mặt bằng, phía trên làm sân thượng. Chiếc cầu thang nầy dẫn lên sân thượng đó. Buổi chiều tối ba em và cháu Bình thường lên đó hóng mát. Đó là chỗ hai ông cháu rất ưa thích vì nhìn thấy cả bầu trời rộng.
- Mai cũng thường lên đó chứ?
- Em chỉ lên buổi sáng sớm để tập thể dục trong vài phút. Đứng trên đó nhìn được một vùng khá rộng chung quanh, nhà cửa, chỗ tối, chỗ sáng, chỗ lờ mờ trong ánh đèn đường, trông cũng thích thú. Đi, anh đi với em lên đó để thấy khung cảnh thích thú mà em đã ngắm nhìn ba năm nay rồi.
Mai nói xong, bước lên cầu thang, Tân theo sau. Cả hai đứng yên, không khí buổi sáng mát dịu. Giọng Mai nhỏ nhẹ thực dễ thương:
- Sáng nào em cũng lên đây độ mười lăm phút, hít thở không khí trong lành. Ở thành phố, giờ nầy là đẹp nhất vì không gian vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ. Trong khung cảnh êm đềm nầy, em tập vài động tác thể dục xong thì thường đứng im nhớ đến những ngày thơ ấu, nhớ đến biết bao nhiêu người thân yêu.
- Mai nhớ đến ai?
- Nhớ mẹ em, nhớ Bính và….
Giọng Mai bỗng nghẹn ngào:
- Nhớ cả anh nữa.
Tân đưa tay chạm vào mái tóc mượt mà của Mai. Nàng nghiêng người tựa vào Tân. Cậu đưa cả hai tay ôm choàng lấy tấm thân mềm mại vào ngực mình. Hơi thở cậu dồn dập, trong khi Mai rùng mình, toàn thân run rẩy, hai bàn tay bám lấy vai của Tân. Cậu cúi xuống nhìn. Trong ánh sáng lờ mờ của đèn đường, hiện ra dưới mắt Tân một gương mặt cực kỳ diễm lệ. Cậu cúi sát xuống và hai đôi môi áp chặt vào nhau. Thời gian như ngừng lại, vũ trụ như tan biến trong hư vô.
Cả hai choàng tỉnh vì tiếng còi xe thực to trên đường phố. Họ rời nhau ra. Mai cầm tay người yêu đưa lên môi mình, nói như rên rỉ:
- Anh Tân, em yêu anh vô cùng. Em chờ đợi giây phút nầy biết bao năm rồi. Em biết anh cũng yêu em, phải không anh Tân?
Tân trả lời qua hơi thở:
- Em là mối tình đầu của anh cho đến ngày hôm nay. Lúc nào anh cũng nghĩ đến em và chỉ nghĩ đến em mà thôi.
Mai thở dài, giọng buồn bã:
- Cám ơn anh, em hằng mong ước được nghe câu nói đó từ miệng anh. Bây giờ, em đã được nghe rồi. Em bằng lòng lắm, bằng lòng với mối tình đầu đã đem đến cho em biết bao nhiêu đau khổ và hạnh phúc. Anh hôn em lần cuối đi.
Cả hai lại siết chặt nhau, chìm đắm trong nụ hôn dài và say đắm.
Họ buông nhau ra, lần lượt bước xuống cầu thang.
Mai nói:
- Anh ngồi đây, đợi em một chút.
Nàng đi vội vào phòng và trở ra, trên tay cầm một phong thư:
- Anh Tân, cái điều quan trọng mà em muốn nói với anh, nằm trong lá thư nầy. Em viết xong cách nay ba ngày và chưa biết cách nào gửi đến cho anh. Bây giờ em sung sướng được trao tận tay anh.
Mai cầm phong thư đưa về phía trước. Tân nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng:
- Mai, anh yêu em. Vài tháng nữa, anh sẽ về thăm em. Chúng mình hãy quên đi những chuyện đau buồn đã qua. Em có bằng lòng không?
Mai ngước nhìn lên, hai mắt mở to, hai giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má. Nàng lắc đầu:
- Anh cứ đọc lá thư nầy đi. Dù sao em cũng gửi tặng cho anh phân nửa tâm hồn và phân nửa quả tim của em. Thôi anh đi thay áo quần, rồi ăn sáng và đi kẻo trễ. Ba em cũng đang thức dậy rồi đó.
Quả thực trong phòng có tiếng dép lẹp xẹp đi ra. Ông Tư xuất hiện trên đầu cầu thang, nhìn xuống với nụ cười thực tươi:
- Cháu Tân dậy rồi à?
- Thưa bác, cháu chuẩn bị về Kiên lương.
- Ừ, trời sắp sáng rồi. Đi cho kịp chuyến xe đò thứ nhất. Đây về đó xa lắm mà.
- Dạ trên ba trăm cây số, qua hai cái phà. Xe chạy thông suốt cũng phải mất trọn một ngày.
Tân ăn sáng xong. Mai đưa cho cậu một gói quà khá to và nói:
- Anh chịu khó mang gói quà nầy của em tặng anh và Bính dùng chung.
Tân mang túi hành trang lên vai. Ông Tư dẫn thằng Bình trong buồng đi ra. Tân bế nó lên, hôn đôi má phinh phính rồi đặt xuống đất, cúi chào ông Tư và bước ra cửa. Mai nắm tay con bước ra lề đường, nhìn theo cho đến khi Tân khuất sau dãy phố trên đường Phan đình Phùng. Tân bước lên một chiếc taxi thẳng đến bến xe thì vừa kịp một xe đò sắp sửa rời bến để về Rạch giá.
Chuyến xe bị chậm vì phải dừng lại khá lâu ở hai bến phà và đến Rạch giá thì trời đã về chiều. Không còn xe nào dám về Kiên lương vào giờ nầy. Đoạn đường nầy không an ninh khi màn đêm buông xuống, nhất là khi đi ngang qua Hòn đất, một căn cứ địa của Việt cộng. Tân phải đành tìm chỗ trọ ở thị xã và sáng hôm sau mới tiếp tục cuộc hành trình.
Đêm hôm đó, cậu lấy lá thư của Mai ra đọc.

Sài gòn, ngày 15 tháng 10 năm 1963
Anh Tân thân yêu,
Em phải dành nhiều tháng mới gom đủ lòng can đảm để viết lá thư nầy cho anh. Em không rõ rồi đây lá thư nầy có đến được tay anh hay chỉ là nơi chôn cất lặng yên và vĩnh viễn tâm sự của một người đàn bà đã trải qua nhiều tháng năm đau khổ vì tình yêu.
Trước hết em muốn quay ngược dòng thời gian để trở lại với những ngày hoa bướm của tuổi học trò. Thuở ấy, hầu hết bọn con gái chúng em đều để ý đến anh. Anh có cái tướng vừa ngang tàng, vừa hiền dịu, đôi mắt anh trong sáng nhưng hình như chất chứa một nỗi niềm sâu thăm thẳm, nét mặt anh nghiêm nghị nhưng nụ cười của anh thì đầy vẻ bao dung. Tất cả những điều đó cho anh một sức quyến rũ làm cho em xao xuyến mỗi lần có dịp gần gũi anh. Lúc đầu sự xao xuyến đó chỉ là một nét lãng mạn hết sức thơ ngây, nhưng nó lớn dần lên và trở thành tình yêu đầu đời trong lòng em lúc nào em không rõ.
Thế rồi, em biết anh là người của cách mạng và em không hề đắn đo đi theo con đường mà anh đang đi. Đó, anh thấy nực cười cho cái gọi là “giác ngộ cách mạng” của em chưa?
Người cộng sản bảo con đường cách mạng là con đường vinh quang, nhưng đối với em, đó là con đường đau khổ. Với anh, đó cũng là con đường đau khổ phải không anh? Chính Bính đã nói cho em biết như thế. Và anh đã can đảm từ bỏ con đường đau khổ đó bằng cái giá phải trả là nhiều năm tù tội. Riêng em, em cũng phải trả một giá quá đắt là sự trinh trắng của đời người con gái.
Anh đã dẫn em vào con đường cách mạng và anh đã vào tù với mục đích từ bỏ con đường đó mà em đâu có hề hay biết. Vì vậy, sau khi anh bị bắt và chịu đựng tra tấn thì em vẫn cố gắng hoạt động để xứng đáng là người đồng chí nhỏ bé của anh. Lúc đó cơ quan an ninh hoạt động mạnh và hữu hiệu; quá nhiều cơ sở cách mạng bị đập bể tan tành, anh Đảnh đưa em chạy trốn và em phải trải qua những ngày oan nghiệt. Em xin anh tha thứ cho em. Lúc nào em cũng yêu anh, cả trong những ngày oan nghiệt ấy. Nhưng em là một người con gái yếu đuối, làm sao em có thể tự bảo vệ được mình trong hoàn cảnh cực kỳ gay go đó được.
Em không trách ai cả. Em cho đó là số phận. Số phận đã phết lên cuộc đời em một vệt đen kinh khiếp, gây nên nỗi đau đớn không phải riêng cho em mà cho mọi người thân thiết của em. Cũng vì em mà má em sớm từ bỏ cõi trần. Lúc đó, em có ý nghĩ tự kết liễu cuộc đời mình nhưng không nỡ giết chết luôn cái bào thai đang mỗi ngày một thành người trong bụng em. Em khất cái chết lại cho đến khi đứa bé ra đời. Nhưng em không ngờ, sau khi chào đời, thằng Bình tạo cho em một tình mẫu tử nhiệm mầu, giúp em từ bỏ ý nghĩ điên rồ và tạo cho em một sự can đảm để chịu đựng nốt cuộc đời ở trần thế nầy. Lạ lùng hơn nữa, thằng bé lại làm nẩy nở nhanh chóng tình yêu thương nơi ông ngoại và cậu Bính của nó. Em nghĩ đó là phép lạ của đấng thiêng liêng. Tình yêu thương của người thân, cộng thêm với lòng tin tưởng về một đấng thiêng liêng giúp cho em ổn định tâm lý và dần lấy lại niềm vui sống. Em vui sống, không phải cho em mà cho ba em, cho Bính và cho bé Bình của em nữa. Em nguyện dành tất cả cuộc sống còn lại của em cho những người thân đó.
Tuy nhiên, cuối cùng em không thể từ bỏ được ước mong sau rốt cho riêng mình. Đó là được anh cầm tay và nói “yêu em”.
Chỉ có thế thôi và em không hề đẩy xa ước mơ mình hơn nữa. Than ôi, ước mơ đó có quá lớn để em có thể kết thúc mối tình đầu đã kéo dài suốt tám năm trường đăng đẳng?
Từ hai năm nay, có đại úy Thế đến làm quen với em và ngỏ ý muốn cưới em làm vợ. Anh Thế đang làm ở tổng tham mưu. Đó là một sĩ quan có cách ăn nói, đi đứng nghiêm trang và dễ mến. Anh ấy đã có vợ và họ đã chia tay sau hai năm chung sống và chưa kịp có con với nhau.
Lần đầu tiên, anh Thế ngỏ lời, em đã từ chối thẳng thừng. Em từ chối không phải vì còn chờ anh Đảnh đâu. Không, dù thằng Bình là con của anh ấy nhưng em không bao giờ có ý nghĩ làm vợ suốt đời với anh ấy; điều nầy từ lâu trở thành cơn ác mộng đối với em.
Em từ chối, cũng không phải vì chờ đợi anh. Không, ngày nay, em không còn xứng đáng với anh nữa. Em đã phá hỏng cuộc đời của em, đã phá hỏng tình yêu vô cùng quí giá của mình rồi. Vả lại dù sao anh Đảnh cũng là đồng chí cũ của anh. Hai anh đã từng chia sẻ ngọt bùi với nhau, từng sống chết bên nhau, trước họng súng của kẻ thù lúc đó.
Không, em từ chối không phải vì chờ đợi một trong hai anh. Em từ chối vì em muốn dành cuộc sống còn lại của em cho cha, cho em trai và cho đứa con của mình. Và vì… -xin anh cho phép- em muốn dành trọn quả tim cho chỉ một mình hình bóng của anh ngự trị trong đó mà thôi.
Tuy nhiên, anh Thế là người kiên nhẫn. Anh ấy tiếp tục thường xuyên đến nhà, gây được cảm tình với ba em và với bé Bình. Ba em bảo anh Thế có tình cảm chân thật với ba em và với bé Bình chứ không phải là giả dối để lấy lòng em. Một hôm ba nói với em:
- Ba thấy đại úy Thế là người đứng đắn. Ông ấy có ý tiến tới hôn nhân với con đó. Con nghĩ thế nào?
Em trả lời:
- Không, con không lấy chồng đâu, con thích sống thế nầy để nuôi thằng Bình và săn sóc ba.
- Hay là con còn có ý đợi cha thằng Bình?
- Không, con hoàn toàn chấm dứt với anh Đảnh rồi. Thực ra giữa con và anh ấy cũng chẳng có gì đáng để chấm dứt. Con cho rằng việc xảy ra giữa con và anh ấy chỉ là một tai nạn cho con thôi. Sau đó, ba thấy rồi, đối với con và thằng Bình, anh ấy có tỏ một chút trách nhiệm của người chồng, người cha đâu. Anh ấy bảo rằng còn phải hi sinh cho cách mạng. Đó chỉ là một cái cớ thôi. Con đọc trong đôi mắt anh ấy một sự dửng dưng của người ngoại cuộc đối với sự sống của con và của thằng Bình.
Em muốn nói thêm với ba em một ý nữa, nhưng kịp kềm chế lời nói của mình. Anh biết em định nói điều gì không? Chắc chắn anh không thể biết và cũng không thể ngờ được. Với ba thì em không dám nói nhưng đối với anh , em phải nói cho hết lời, vì đây là những lời tâm sự cuối cùng của em nói với anh. Câu chuyện thế nầy.
Anh Đảnh về thăm mẹ con em lần cuối cùng lúc thằng Bình được gần một tuổi. Anh ấy không có một cử chỉ trìu mến nào đối với con. Thế mà anh ấy lại gạ gẫm em đi chơi và đến một khách sạn nào đó. Anh ấy bảo rằng cán bộ đi làm cách mạng để giải phóng quê hương, chịu bao nhiêu là thiệt thòi và phải hi sinh tất cả kể cả sinh mạng, nên dân miền Nam phải có bổn phận giúp đỡ họ, “ủng hộ” họ. Em đã từ chối vì quá khiếp đảm. Em thầm nghĩ rằng người con gái nào thích “giải phóng” thì cứ đi “ủng hộ” họ, còn em chẳng hề thích “giải phóng” thì chuyện đó chẳng liên can gì đến em. Tuy nhiên, em cũng xin tiền của Bính (dạo đó em nghèo lắm), sắm sửa cho anh ấy một ít thức ăn và đồ dùng. Chuyến đó anh ấy được lệnh ra Bắc và về sau em được tin anh ấy đi Liên xô học. Chắc chắn, khi trở về, anh ấy sẽ là một cán bộ cao cấp thống lĩnh một đoàn quân đông đúc trở vào để “giải phóng” miền Nam!
Đó, cái mà người đời gọi là tình nghĩa vợ chồng giữa em và anh Đảnh là thế đó! Chuyện thầm kín nầy của đời em, chỉ riêng em biết thôi. Và anh là người thứ hai.
Nhưng tại sao em lại đi nói chuyện đó với anh? Vì em muốn như thế. Vì em đã rất đau khổ, lắm lúc đau đến độ muốn từ giã ngay cõi đời nầy. Nói ra được với anh điều nầy, em hi vọng vơi bớt đau khổ trong lòng. Em muốn anh hiểu rằng em là một đứa con gái hư hỏng chỉ về thể xác thôi còn tâm hồn em chưa hư hỏng và tình yêu đầu tiên vẫn âm ỉ cháy trong tim em.
Em xin trở lại câu chuyện với ba em.
Sau khi trình bày cho ba em rõ là giữa em và anh Đảnh không có chút gì gọi là tình nghĩa vợ chồng và thằng Bình là con riêng của em thôi vì chỉ một mình em nuôi nấng nó từ khi còn trong bụng cho đến bây giờ. Nó không phải là con của anh Đảnh dù phân nửa cơ thể của nó là di sản của anh ấy.
Nghe em nói, ba em rơm rớm nước mắt. Em biết ba em thương em vô cùng vô tận. Lúc nhỏ ba em thường cõng em trên lưng đi khắp xóm. Có một lần, em bị bệnh nặng và lên cơn sốt mê man. Khi tỉnh dậy, mở mắt ra vào ban đêm, em thấy một đôi mắt đăm đăm nhìn em. Em đưa hai tay lên, đôi mắt hạ sát xuống mặt em. Em được nâng lên và nhận thấy hai giọt nước ứa ra từ đôi mắt ấy. Đôi mắt của ba em!
Chuyện đó xảy ra lúc em mới bốn tuổi, thế mà em vẫn còn nhớ đến tận bây giờ và chắc chắn cả đến khi đầu tóc em bạc phơ. Tình thương của ba em đối với em thực là bao la và đôi mắt của cái đêm xa xưa đó đã gây xúc động rất mạnh trong đầu óc non dại của em. Bây giờ, nhìn thấy ba em rơm rớm nước mắt, hình ảnh xa xưa kia vụt trở lại làm cho tim em như vỡ tung ra. Em ôm mặt khóc nức nở.
Đợi em hết khóc rồi, ba em mới nói với em, giọng rất bình tĩnh và ôn tồn:
- Thôi được, ba hiểu rồi. Thằng Đảnh ra Bắc và đi Liên xô học thì khó có thể trở vào đây được. Nhưng ba không muốn con sống như người góa bụa thế nầy. Ba muốn trước khi ba nhắm mắt, à không, ngay từ bây giờ thì tốt hơn, ba được thấy con sống trong một gia đình đầy đủ, có chồng, có con để hôm sớm nương tựa lẫn nhau, cả về vật chất lẫn tình cảm. Đại úy Thế là người chân thật, con có thể nương tựa suốt đời được. Ba không lầm đâu. Ba có hỏi kỹ về chuyện ông ấy ly dị vợ trước đây. Lỗi hoàn toàn do chị vợ.
Em trả lời:
- Với con thì được rồi. Đứa đàn bà lỡ đường như con mà được làm vợ một đại úy cũng là điều vẻ vang lắm. Nhưng còn thằng Bình thì sao? Bây giờ, nó còn nhỏ, chẳng có gì đáng nói nhưng khi lớn lên nó sẽ phản ứng thế nào khi biết mình sống nhờ một người đàn ông không phải là cha ruột của mình?
Ba em trả lời:
- Đó là điều quan trọng mà ba đã suy nghĩ rất nhiều. Ai cũng cần có một người cha xứng đáng để được hãnh diện; lúc còn nhỏ thì hãnh diện với bạn bè cùng lớp, lớn lên thì hãnh diện với bạn bè cùng nhiệm sở, với người yêu, với vợ con mình. Thằng Bình không có may mắn được sống với người cha ruột. Đó là nỗi bất hạnh của nó. Tuy nhiên, nó mới có sáu tuổi nên nó có thể chấp nhận một người khác làm cha nếu người đó thực sự yêu thương nó. Nó càng lớn lên thì sự chấp nhận càng khó khăn hơn.
Thấy ba em tỏ ra tha thiết và nôn nóng về việc nầy, em không nỡ từ chối nhưng cố gắng trì hoãn để tìm phương kế khác. Em thưa với ba em:
- Con không phản đối nữa nhưng con phải hỏi ý kiến em Bính trước đã rồi mới quyết định. Chính nhờ nó mà đời sống của mẹ con của con mới được như ngày nay. Nếu nó đồng ý thì con đồng ý, nếu nó không đồng ý thì nhất định con từ chối.
Ba em cười ha hả:
- Con khỏi hỏi. Chắc chắn là nó đồng ý rồi. Ngay từ khi ba còn miễn cưỡng coi thằng Đảnh là con rể thì nó đã cương quyết phản đối. Nó nói giữa con và thằng Đảnh chẳng có gì gọi là vợ chồng và sự ra đời của thằng Bình chỉ là kết quả đáng thương của một tấn thảm kịch mà thôi. Nó cũng vài lần khen tính tình của đại úy Thế. Dù nó chưa nói thẳng ra nhưng ba biết nó muốn đại úy Thế trở thành anh rể của nó.
Em vẫn tìm kế hoãn binh:
- Không, con phải trực tiếp nghe được ý kiến của em Bính bằng cách gặp mặt hay bằng lời thơ cũng được.
Câu chuyện trên đây giữa hai cha con em xảy ra cách nay vừa đúng một tháng rưỡi. Em vừa lấy giấy viết thư cho Bính thì cậu ta ngoài cửa bước vào. Rõ ràng là định mệnh. Em ngồi bất động và sửng sốt, không tin vào mắt mình thì nó quăng cái túi xuống đất, la to: “Chị Mai”, và chạy ào vào ôm đầu em hôn tới tấp vào tóc em. Ba em bước ra. Hai cha con ôm chầm lấy nhau. Sau khi buông ba ra, Bính hỏi:
- Bình đâu chị Mai?
- Bình đi học, chiều chị mới rước về.
Buổi chiều, Bình đi học về, hai cậu cháu vui mừng tíu tít, em cảm động quá, phải cố gắng lắm mới ngăn được nước mắt. Đúng lúc đó, đại úy Thế từ tổng tham mưu về chơi. Lại cũng là định mệnh. Bính khoe là mới được chuyển vào Nam, đơn vị đang ở Kiến hòa và nó trốn về thăm nhà. Đại úy thế cười:
- Trước mặt một đại úy tổng tham mưu mà cậu dám nói trốn đơn vị về nhà, chuẩn úy không sợ đại úy bắt nhốt sao?
Bính vụt đứng dậy, đưa tay chào:
- Dạ, đại úy nhốt thì em đành chịu. Nhưng đại úy hãy chịu khó về Kiến hòa chỉ huy trung đội giùm em. Nếu Việt cộng đánh vào mà em bị đại úy nhốt ở đây thì ai chỉ huy trung đội của em dưới đó?
Cả ba người đàn ông cười ha hả như họ đã quen thân nhau từ nhiều kiếp trước. Nhà binh của các anh thật là ngộ, gặp nhau là có thể thân mật với nhau một cách dễ dàng. Thấy ba người thân mật như thế, em cảm thấy số phận mình sắp được an bài.
Bính tiếp tục kể chuyện chiến trường, chuyện băng suối vượt non ngoài Trung, chuyện lên máy bay vào Nam. Đại úy Thế nói đã biết kế hoạch của tổng tham mưu đưa hai sư đoàn từ ngoài Trung vào tăng cường cho trong Nam. Đại úy hỏi Bính có muốn về chỗ yên ổn không thì đại úy sẽ vận động cho. Nó lắc đầu. Nó nói còn một người bạn hết sức thân thiết ở đơn vị không thể xa rời được. Em biết nó nói đến anh, em nghe nhói đau trong lòng. Nó nói tiếp rằng hai anh em tự nguyện đi vào chiến tranh một thời gian để chia sẻ thân phận bi đát của người miền Nam và làm nhân chứng lịch sử cho một giai đoạn cốt nhục tương tàn. Nghe nó nói, đại úy Thế gật đầu tỏ vẻ cảm động.
Ba em không bỏ lỡ dịp. Ông vào đề:
- Hôm nay thực là may mắn, có thằng con trai của tôi về, lại gặp đại úy đến chơi. Tôi muốn bàn bạc ngay vấn đề đại úy muốn tiến tới hôn nhân với con Mai nhà tôi. Đây là việc quan trọng nên cần có ý kiến của tất cả mọi người trong gia đình. Gia đình thì ngoài con Mai ra chỉ còn tôi và thằng Bính đây thôi. Tôi đồng ý rồi. Con Mai bảo phải đợi ý kiến của em nó. Bây giờ, thằng Bính về đây, thực là may mắn. Đáng lẽ chuyện nầy chúng tôi bàn riêng trong gia đình, trước khi thông báo đến đại úy, nhưng Bính về kỳ nầy quá gấp, chỉ được một ngày thôi nên tôi muốn vấn đề được giải quyết ngay bây giờ thì hay hơn. Vả lại đại úy và thằng Bính đều là sĩ quan Cộng hòa. Đã là quân nhân thì ai cũng có tính ngay thẳng, không rụt rè giấu giếm, thế thì cần gì phải có chuyện bàn riêng?
Ba em dừng một chút để dò phản ứng của mọi người. Em thì mắc cỡ quá muốn bỏ xuống bếp nhưng không dám vì em biết đây là giây phút cực kỳ quan trọng cho cuộc sống của hai mẹ con em sau nầy. Em đành ngồi yên ôm chặt lấy thằng Bình.
Thấy mọi người im lặng, ba em hỏi:
- Đại úy Thế, đại úy có bằng lòng bàn công chuyện hôm nay không?
Đại úy trả lời:
- Thưa bác, chẳng những bằng lòng không thôi mà con còn vui mừng và cám ơn bác nữa. Con muốn chuyện nầy ngã ngũ càng sớm càng tốt.
- Được rồi, còn Mai, con nghĩ thế nào?
Em cúi gầm mặt xuống gật đầu. Ba em hỏi tiếp:
- Sau cùng là Bính, con đồng ý bàn bạc hôm nay để đi đến quyết định dứt khoát vấn đề của chị con không?
Bính ngẩng đầu lên:
- Con đồng ý.
Ba nói tiếp:
- Thế thì con nói trước ý của mình đi.
Bính quay sang em, đưa cả hai tay ra:
- Bình, cháu qua đây với cậu.
Thằng Bình ngoan ngoãn bước sang. Bính cẩn thận đặt nó ngồi vào lòng và nói một cách trịnh trọng:
- Thưa ba, con mới gặp đại úy Thế lần nầy nữa là ba lần. Tuy chưa nói chuyện được nhiều nhưng đại úy đã cho con ấn tượng đầu tiên thực tốt đẹp. Thêm nữa, qua những nhận xét của ba, con nghĩ rằng đại úy là người đáng kính. Chị Mai được chung sống với đại úy là điều đáng mừng và con tin rằng hai người sẽ có hạnh phúc lâu dài. Tuy nhiên….
Bính cúi xuống hôn tóc cháu Bình rồi nói tiếp:
- Hạnh phúc của chị Mai là đáng quí nhưng điều con quan tâm hơn cả là thằng cháu Bình đây. Nó là cục vàng, cục ngọc của con. Chấp nhận hôn nhân là quyền của chị Mai và của ba, con không có quyền phản đối. Tuy nhiên, hỏi con có vui lòng hay không thì câu trả lời tùy thuộc vào giải pháp cho cháu Bình đây.
Ba em ngắt lời:
- Giải pháp thế nào cho cháu Bình thì làm cho con vui lòng?
Bính ngẩng lên, giọng thực nghiêm trang:
- Đại úy Thế, anh có thể nhận cháu Bình làm con chính thức của anh không?
Đại úy Thế không trả lời mà từ từ đứng lên, bước đến bên Bính, đưa hai tay bế bé Bình lên, hôn vào trán nó và dõng dạc:
- Nếu mẹ nó đồng ý thì đứa bé nầy là con chính thức của tôi. Ngay khi mẹ nó gật đầu thì tôi sẽ bế đứa bé đáng yêu nầy đến tòa Hòa giải rộng quyền, xin quan tòa ra án quyết đổi khai sanh của nó lại. Nó sẽ mang họ Huỳnh Đức của tôi. Tôi sẽ chăm sóc nó, ít nhất cho đến tuổi trưởng thành.
Đại úy trả bé Bình lại cho cậu nó và trở về chỗ ngồi. Ba em và Bính rơm rớm nước mắt vì cảm động, còn em thì ôm mặt khóc òa.
Thôi em không cần nói tiếp nữa vì đến đây anh cũng hiểu câu chuyện kết thúc rồi.
Sau khi ăn cơm chiều xong thì trời tối hẳn, cháu Bình ngồi chơi với ông ngoại, em rủ Bính lên sân thượng để nói chuyện. Em nói với Bính rằng đối với đại úy Thế em chỉ mới có lòng kính mến chứ chưa có tình yêu. Theo lời khuyên nhủ của ba và của Bính, em sẽ sống chung với đại úy, nếu tình yêu không đến được thì liệu có hạnh phúc hay không? Bính nói:
- Rồi dần dần chị sẽ có tình yêu. Thông thường tình yêu dẫn đến hôn nhân nhưng cũng không hiếm trường hợp hôn nhân tạo ra tình yêu. Nếu tình yêu đến được sau hôn nhân thì đó là tình yêu bền vững vì nó được kết tinh từ cuộc hôn nhân hài hòa. Còn loại tình yêu đến trước hôn nhân thì sôi nổi, nên thơ lắm nhưng rủi cuộc sống giữa hai vợ chồng không được hài hòa thì tình yêu khó có thể duy trì được.
Em nghe theo lời Bính vì nó nói về tâm lý nghe rất hay và hữu lý. Tuy nhiên, em nói với Bính rằng, đối với em, dù có sống chung với đại úy Thế đi nữa, tình yêu khó đến được nếu mối tình xưa cũ chưa đi đến kết thúc. Bính hiểu ngay là em muốn nói tình yêu của em đối với anh. Tuy nhiên cậu ta hiểu lầm ý em nên có vẻ giận và hơi lớn tiếng:
- Chị bảo thế nào là chưa kết thúc? Chị muốn sống với anh ấy à? Không được đâu, em hiểu anh Tân rất nhiều. Anh ấy yêu chị vô cùng nhưng tình yêu của anh ấy vẫn giữ y nguyên nét tinh khiết của buổi ban đầu. Không được đâu, thằng Bình là con của anh Đảnh, đồng chí cũ của anh ấy mà.
Bính kể lại nét mặt sững sờ và đau khổ của anh, lúc anh còn ở tù, khi nghe Bính báo tin em sắp có con với anh Đảnh. Sau đó, mỗi lần Bính nhắc đến em là trên nét mặt anh lại hiện lên vẻ đau đớn. Tuy nhiên anh và em không thể sống chung với nhau được, Bính nhấn mạnh điều đó nhiều lần và kết luận là chúng mình nên gói ghém tình yêu đó thực kỹ lưỡng và cất vào nơi kín đáo nhất của tâm hồn mình.
Nghe Bính nói, em cảm thấy được an ủi khá nhiều và nghĩ rằng cần thanh minh với Bính:
- Không, chị không bảo tình yêu của chị với anh ấy sẽ kết thúc bằng hôn nhân đâu.
Bính xẵng giọng:
- Thế chị muốn kết thúc tình yêu với anh Tân bằng cách nào?
- Chị muốn gặp riêng anh ấy một lần.
- Để làm gì?
- Để chị nói với anh ấy rằng chị đã yêu anh ấy từ thuở còn con gái cho đến bây giờ.
- Thế thôi à?
- Sau đó, chị hỏi anh ấy còn yêu chị nữa không? Còn hay hết cũng không sao, miễn chị được nghe chính lời của anh ấy mà thôi.
- Rồi sao nữa?
- Chị sẽ nói lời từ biệt để đi lấy chồng.
Bính cười:
- Chị bị lậm tiểu thuyết lãng mạn hơi nhiều rồi đó. Nhưng không sao, nguyện vọng của chị cũng đứng đắn và có thể thực hiện được. Em sẽ về đơn vị và đề nghị anh Tân về thăm gia đình mình một chuyến.
- Nhưng có thể anh ấy không về. Chị nhớ trong suốt mười tháng ở quân trường, em có mời anh ấy về nhà mà anh ấy từ chối vì không muốn gặp mặt chị. Em đã nói với chị một lần như thế kia mà, em không nhớ sao?
- Dạ, em nhớ rồi. Lần nầy thì em sẽ nói với anh Tân là ba hơi yếu và nhắn anh ấy về thăm ba. Chắc chắn, anh ấy sẽ về.
- Em nỡ nói láo với anh Tân sao?
- Nói láo mà vô hại thì không hề gì. Sau đó, xong việc cho chị rồi thì em sẽ xin anh Tân tha lỗi cho em. Được việc cho chị là em cứ làm.
- Chị cám ơn em.
- Chị khỏi phải cám ơn. Từ khi mẹ không còn nữa thì em dồn luôn cho chị tình thương mà em dành cho mẹ trước đây. Chị đang giữ của em hai khối tình thương khổng lồ. Em hành động có lợi cho chị mà cũng để thỏa mãn hai khối tình thương khổng lồ đó.
Một lần nữa, em lại chảy nước mắt vì lời nói của đứa em trai.
Bính trở về đơn vị được vài hôm là em bắt đầu trông ngóng anh. Em mong anh buổi sáng, em mong anh buổi trưa, em mong anh buổi chiều. Sau một tháng, đại úy Thế đến xin ba em cho làm lễ hỏi với em. Em xin hoãn lại một tháng. May quá, em vừa mới mua rẻ được một lô hàng rất lớn mà người ta lấy được từ trong PX của Mỹ ra. Hàng chất đầy nhà, bít cả đường đi nên em lấy đó làm cớ để xin hoãn lễ hỏi. Em nghĩ rằng sau một tháng, em không thể trì hoãn lần thứ hai và em không còn hi vọng gặp anh trước lễ hỏi được.
Thế là em lấy giấy ra viết lá thư này cho anh. Nguyện vọng của em là được gặp anh để nói lời từ giã rồi đi lấy chồng. Nhưng không được thì đành thôi vậy. Em biết tình hình đang rất căng thẳng, chiến sự rộn ràng khắp nơi ở đồng bằng Cửu long, nhiệm vụ người lính chiến quá trọng đại so với nguyện vọng nhỏ nhoi của một người đàn bà. Với lá thư nầy, em xin kết thúc tình yêu của em đối với anh. Không, em không kết thúc mà làm theo lời Bính, em gói ghém lại kỹ lưỡng và cất suốt đời ở nơi kín đáo và trang trọng nhất của tâm hồn em.
Người yêu bé nhỏ của anh
Nguyễn thị Bạch Mai

Tân xếp lá thư lại, mở to mắt nhìn quanh. Dưới ánh sáng của bóng đèn duy nhất từ trần nhà rọi xuống, cậu thấy ba người trọ cùng phòng đều đang ngủ say. Cậu se sẽ mở cửa bước ra ngoài, buồn bã nhìn con đường phố vắng lặng trong giờ giới nghiêm. Trong không gian tĩnh mịch, cậu nghe xa xa tiếng sóng biển vỗ vào bờ. Cậu trở vào cầm lá thư lên áp vào mặt và cảm thấy hương thơm ngào ngạt, hương thơm từ cơ thể người thiếu phụ yêu kiều mà sáng nay cậu đã say sưa siết chặt vào ngực mình.

*
*  *