Một cuộc chiến tranh dài
Tập I
Chương 4: Lao tù
(2)
Cậu bé học sinh vừa mới ở trại kỷ luật ra được đưa vào nhà riêng của giám đốc. Tin tức nầy được lan truyền nhanh chóng. Nhiều người lo sợ cậu được giám đốc nhà tù giao nhiệm vụ làm điềm chỉ viên trong trại. Lo sợ nhiều nhất chính là những đồng chí trong ban lãnh đạo bí mật, chi bộ đảng của nhà tù. Những đồng chí nầy phải luôn luôn đề cao cảnh giác, để tâm theo dõi tất cả anh em nào có dịp tiếp xúc với bất cứ nhân viên nào của nhà tù. Người được chi bộ giao trách nhiệm dò xét để tìm ra kẻ chỉ điểm chính là anh Thanh. Trong cương vị đại diện, anh có nhiều dịp lui tới văn phòng nên có nhiều khả năng hơn ai cả, thấy được anh em nào lén lút lên đây để báo cáo. Sáng hôm đó, Thanh đang kiểm tra thức ăn mà nhà thầu mang vào cho nhà bếp thì được tin Tân bị lính dẫn vào nhà giám đốc và sau đó đã trở lại vườn rau làm việc bình thường. Nghe tin, anh cảm thấy lo lắng. Nếu Tân bị tên giám đốc buộc làm điềm chỉ viên thì đó thực là điều tai hại cho cậu bé đáng thương nầy.
Sau bữa cơm trưa, mọi người về
chỗ ngủ, Thanh mon men lại gần Tân và buộc cậu phải
cho biết rõ đến nhà giám đốc gặp ai và để làm gì.
Tân thành thực bảo rằng bà đại uý biết cậu là học
sinh trung học nên nhờ cậu mỗi buổi tối kèm cho con
trai bà ấy học thêm. Nghe xong, Thanh thở ra một hơi dài
nhẹ nhõm:
- Em nhận lời chứ?
- Dạ, em đâu có dám từ chối.
Nhưng mà….
- Nhưng mà thế nào? Em không
thích việc đó à? Em nên làm đi. Các anh cũng muốn em làm
công việc đó.
- Vâng, em sẽ kèm cho thằng bé
con ông bà ấy học. Em đã từng tự nuôi sống mình bằng
công việc kèm trẻ nầy. Tuy nhiên, em rất xúc động khi
nghe bà đại úy đề nghị với em công việc nầy. Em có
quá nhiều kỷ niệm êm đềm của những năm còn cắp
sách đến trường và những tháng đi dạy thêm để kiếm
sống.
Thanh cũng cảm động khi nghe câu
nói dễ thương nầy của cậu bé, tuy nhiên do thói quen
của người cộng sản, anh chưa dứt hẳn sự nghi ngờ:
- Lúc em nói chuyện, còn ai khác
trong nhà nữa không?
- Không. Trong nhà chỉ có bà đại
úy và đứa con gái nhỏ mà thôi. Ông đại úy có lẽ
đang làm việc ở văn phòng còn cậu con trai thì đi học
ở Biên hòa từ sáng cho đến chiều.
- Ngoài việc dạy học ra, bà đại
úy còn nói gì khác với em nữa không?
Tân lẳng lặng lắc đầu. Thanh
cố nhìn sâu vào đôi mắt của cậu và yên tâm vì không
khám phá ra nét gian xảo nào trong đôi mắt ấy.
Buổi chiều, sau bữa cơm, người
lính lại xuống dẫn Tân lên nhà ông giám đốc. Độ nửa
giờ sau, cậu trở về, tay ôm một chồng sách. Thanh đón
cậu tại cửa phòng, giọng ân cần:
- Em chưa bắt đầu công việc à?
- Chưa, bà đại úy đưa cho em số
sách nầy về đọc một vài ngày để biết chương trình
và các bài học của cậu Dũng, con ông giám đốc.
Thanh mỉm cười tiếp lời:
- Vậy là từ ngày mai, em được
miễn công tác chăm sóc vườn rau.
- Không, em vẫn đi làm hằng ngày
với các anh cho vui. Chiều về cơm nước xong em mới phải
đi kèm cậu bé đó.
Hai ngày sau, công việc dạy học
thực sự bắt đầu. Ngay từ buổi học đầu tiên, cậu
đã tạo được sự kính nể nơi đứa học trò nhỏ. Về
phần mình, cậu cũng rất hài lòng vì được sống lại
những giờ phút êm đềm của cái thời còn được tự
do trong thành phố.
Cuộc sống bình lặng đều đều
trôi qua. Mỗi buổi chiều, từ nhà ăn trở về, Tân đến
thẳng nhà ông giám đốc để dạy học. Công việc tiến
triển thực tốt vì cậu đã quen từ trước; do đó, cậu
nhanh chóng chinh phục được cảm tình của mọi người
trong gia đình kể cả ông đại úy giám đốc. Ông là một
quân nhân, phải đảm nhiệm cai quản trại tù với mấy
trăm cán bộ cộng sản, những cái đầu đã chai lỳ với
lý thuyết Mác Lê. Tuy thế ông là người có tâm tính
hiền lành, là một người chồng, người cha tốt trong
gia đình. Ông sống trong một gia đình hạnh phúc. Bà đại
úy là một phụ nữ phúc hậu và đảm đang, thằng Dũng,
tuy sức học tầm thường nhưng ngoan ngoãn lễ phép và
con bé Loan, em nó mới lên bốn thì mũm mĩm thực dễ
thương. Đôi khi, cậu có cảm tưởng như đang được
chia sẻ hạnh phúc với gia đình bé nhỏ nầy và quên đi
trong chốc lát thân phận tù đày của mình. Hạnh phúc
gia đình bao giờ cũng là một ước mơ sâu xa và thầm
kín nhất trong lòng Tân.
Mỗi ngày cậu dạy học sau buổi
cơm chiều và trở về trại trong ánh đèn điện chiếu
sáng khắp nơi. Cửa phòng giam đã đóng từ lâu, người
giám thị tra chìa vào hai ổ khóa to tướng, mở cửa ra
cho cậu vào. Nhiều anh em ngước lên nhìn. Cậu lầm lũi
về chỗ ngủ của mình.
Anh đại diện Thanh càng ngày
càng tỏ ra thân thiết với cậu. Anh sẵn sàng chia sẻ
với cậu những món gia đình tiếp tế, khi thì món ăn,
khi thì đồ dùng. Tân rất cảm động về sự ưu ái ấy.
Một hôm vào ngày chủ nhật được nghỉ ngơi, anh mang
cái bếp nhỏ ra hiên nhà pha cà phê cùng thưởng thức
với Tân. Cà phê là món quý nhất trong tù. Khi uống xong
hớp cuối cùng, anh nhích lại ngồi sát bên Tân. Bằng
một giọng nửa ân cần, nửa cứng rắn, vừa đề nghị,
lại vừa như ra lệnh, anh giao nhiệm vụ cho Tân để ý
dò xét tình hình ở nhà ông giám đốc và báo cho anh ngay
mọi việc gì đặc biệt mà cậu nghe hay thấy.
Tân không ngạc nhiên chút nào.
Từ lâu cậu đã tiên đoán có ngày cậu bị giao cho trách
nhiệm nầy. Dĩ nhiên, cậu không thể nào từ chối. Cuộc
sống chung đụng ngày đêm ở đây đã kết mọi người
thành một khối duy nhất. Không ai có thể tự tách rời
ra để sống theo ý riêng của mình. Cái khối duy nhất đó
đang được một nhóm người điều khiển. Cậu hiểu
rằng không nên chống lại ý muốn của nhóm người nầy.
Anh Thanh tỏ ra vui vẻ khi thấy
cậu bằng lòng chấp nhận cái công tác dò xét mà anh bảo
là một nhiệm vụ cách mạng đầy vinh quang. Riêng cậu
thì chẳng vui vẻ tí nào. Cậu vẫn không quên rằng đi
tù là cái giá mà cậu phải trả để xa rời con đường
cách mạng, để được sống yên ổn không bị ràng buộc
bởi một lý tưởng nào cả. Nhưng bây giờ thì rõ ràng
cách mạng như một cái lưới vô hình một khi đã vướng
vào rồi thì khó lòng thoát ra được.
*
* *
Người tù nằm kế bên Tân
tên là Quý, chưa đến ba mươi tuổi. Quý và Tân cùng
chung tổ trồng rau lại nằm gần nên hai người thường
hay tâm sự với nhau. Quý kể rằng, lúc chưa vào tù, anh
là thợ hồ, công nhân của một nhà thầu xây dựng tư
nhân. Anh đã có vợ và một đứa con trai vừa được hai
tuổi. Cách nay trên ba năm, vợ anh là một cô gái xinh xắn
hàng ngày gánh cơm vào bán trong công trường nơi anh đang
làm việc. Hai người gặp nhau hàng ngày, yêu nhau và trở
thành chồng vợ. Tình yêu của hai người không có tính
thơ mộng nhưng thật là đằm thắm. Trong những ngày sống
hạnh phúc với vợ con thì anh được một cán bộ nằm
vùng trong công trường rỉ tai tuyên truyền để anh “giác
ngộ cách mạng” và đề nghị đưa anh vào hoạt động
trong một cơ sở của liên hiệp công đoàn. Anh cán bộ
đã mô tả cảnh huy hoàng cho cuộc sống của người lao
động như anh khi cách mạng thành công. Anh nghe mà thấy
náo nức trong lòng. Tuy nhiên anh chưa muốn tham gia hoạt
động bí mật mà chỉ muốn sống hạnh phúc với vợ
con. Nhưng tính anh hay cả nể nên không từ chối thẳng
thừng, vì vậy người bạn đồng nghiệp kia cứ tìm cách
tới lui, gián tiếp coi anh như là người của cách mạng.
Ít lâu sau, anh cán bộ bị bắt, cơ sở cách mạng bị
phá vỡ, anh cùng nhiều người khác cũng bị bắt theo và
cuối cùng bị đưa lên giam cầm tại đây. Thực là đau
đớn và oan uổng cho anh, vì anh chưa hề làm một việc
gì cho cách mạng.
Tân nghe anh Quý kể bỗng giật
mình. Anh cán bộ nằm vùng kia có lẽ vì không chịu nổi
đòn tra tấn mà phải khai ra một số người vô tội nào
đó để giữ an toàn cho tổ chức.
Tính tình Quý hiền lành và chân
thật nên anh không hề giấu giếm nỗi đau đớn của anh
khi buộc phải xa vợ xa con. Lắm lúc anh còn buông lời
oán trách người cán bộ đã tuyên truyền rủ rê anh đi
vào con đường cách mạng để bây giờ anh phải chịu
cảnh tù đày.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm nầy,
những lời oán trách đó làm cho mọi người xa lánh anh
vì hầu hết anh em ở đây đều là cán bộ nằm vùng, ít
nhất đã một lần dụ dỗ kẻ khác vào hoạt động bí
mật. Nếu không phải vì lý do đó thì anh em cũng ngại
tỏ tình thân mật với Quý. Ai cũng phải hiểu rằng ban
lãnh đạo bí mật ở đây cũng để ý và có thể đã
liệt Quý vào loại lập trường đã bị chao đảo, dễ
làm tay sai cho địch để được về sớm với vợ con. Tỏ
ra thân mật với một người bị để ý như thế thì
thực là bất lợi. Một hôm anh Thanh đã nói với Tân:
- Thằng Quý quá nặng tình cảm
với vợ con nên nó có thể bị địch lợi dụng. Đã
theo cách mạng mà không sẵn sàng hi sinh tất cả thì dễ
trở thành một kẻ phản bội. Em nằm gần nó thì hãy
chú ý dò xét, nếu thấy có gì khả nghi thì phải báo
ngay cho anh em biết.
Một lần nữa, cậu buộc phải
nhận lời, có nghĩa là nhận thêm một công tác nữa mà
cách mạng giao phó. Đó là công tác theo dõi, dò xét một
người bạn tù đáng thương mà đêm đêm cậu thường
nghe tiếng thở dài não ruột.
Công việc trong trại không nhiều.
Mấy trăm con người sống trên một mảnh đất rộng chỉ
khoảng hai mẫu nên tù nhân có quá nhiều thì giờ nhàn
rỗi. Sự nhàn rỗi chính là sự trừng phạt khó chịu
nhất đối với người ở tù. Người ta phải tìm cách
nào đó có thể tập trung sự chú ý vào bất cứ việc
gì để khỏi phải nhìn bánh xe thời gian quay chậm chạp
và đáng sợ. Có nhiều cách giải quyết thì giờ nhàn
rỗi đó: rủ nhau ngồi hàng giờ bên bàn cờ tướng, đọc
báo chí tới hàng chữ cuối cùng của trang quảng cáo,
miệt mài với kim chỉ để thêu thùa những bông hoa sặc
sỡ trên khung vải trắng, vân vân.
Riêng Quý thì thường mỗi ngày
hai buổi, anh cố tìm vui trong việc săn sóc vườn rau.
Vườn rau không lớn lắm lại có đến hơn năm mươi
người chăm sóc nên công viêc chỉ cần một đến hai giờ
buổi sáng để tưới, nhổ cỏ, bắt sâu là xong. Sau đó
mọi người rút về phòng, tắm rửa hoặc làm công việc
riêng tư. Trong khi đó, Quý vẫn ở lại vườn rau, tẩn
mẩn làm một số việc không cần thiết lắm. Tuy nhiên,
gần một tuần lễ nay, Quý không ở lại vườn rau nữa.
Trong khi tưới rau buổi sáng, anh lượm được một mảnh
xương bò. Anh mang về, cặm cụi mài mảnh xương trên
phiến đá nhám gần bên giếng nước. Sau ba ngày, có lẽ
công việc với mảnh xương đã xong. Quý gói kỹ trong một
mảnh vải bông và cất vào túi áo. Thấy anh trở vào chỗ
của mình với vẻ hài lòng, Tân hỏi đùa:
- Anh Quý vừa làm xong một tác
phẩm nghệ thuật để gởi đi triển lãm ở hội chợ
quốc tế phải không?
Quý lắc đầu, tay sờ vào túi
áo và mỉm cười:
- Một món đồ chơi làm quà cho
thằng Hiển, con trai tôi.
Tân thân thiện hỏi, cốt làm
vui lòng người bạn tù:
- Cháu dễ thương lắm, có đúng
không nào?
Nét mặt Quý dường như bừng
sáng lên:
- Vâng, dễ thương lắm, hết sức
dễ thương. Cháu là cục vàng, cục ngọc, là tất cả
nguồn vui sống và hi vọng của vợ chồng tôi.
Nói xong, anh vui vẻ ngồi xuống
bên Tân. Sau vài phút im lặng anh lại kể cho Tân nghe một
lần nữa tuổi thơ lắm long đong của anh ở làng quê mãi
tận Long xuyên. Khi chiến tranh tràn tới, anh bỏ nhà,
phiêu bạt lên tận Sài gòn để kiếm sống. Rồi anh cưới
vợ, có con, sống hạnh phúc chẳng được bao lâu thì
phải vào tù. Anh nắm lấy tay Tân, giọng nghe ngậm ngùi:
- Tôi biết ở đây, anh em không
muốn gần gũi, nên tôi chỉ có thể chuyện trò với chú
mà thôi. Thuở nhỏ, tôi chưa bao giờ được hưởng hạnh
phúc gia đình nên tôi yêu quý vợ con tôi vô cùng. Đáng
lẽ tôi phải dành trọn cuộc sống của tôi cho vợ con
thì tôi lại nghe theo lời người khác xúi giục tin theo
những thứ mơ hồ viễn vông để cho gia đình mình tan
vỡ. Tôi đau đớn và hối hận vô cùng.
Anh ngừng lại, chép miệng thở
dài và nói tiếp:
- Mới đó mà hơn một năm xa vợ,
xa con rồi. Không ngày nào tôi không nghĩ đến hai người
thân yêu nhất đời của tôi, không lúc nào mà tôi không
mơ ước được trở về sống cùng gia đình. Đời sống
bên ngoài mỗi ngày một đắt đỏ hơn, tôi lo lắng lắm.
Càng nghĩ, tôi càng thấm thía cho sự sai lầm và nông nổi
của mình. Lúc đó, tôi cứ tưởng người ta có lòng tốt
dẫn mình vào con đường vinh quang, không ngờ….
Quý ngừng bặt một phút rồi
mới nói tiếp:
- Đáng lẽ tôi không nên nói
điều đó với chú nhưng tôi cần phải có ai đó để
nói lên sự hối hận và buồn phiền của mình. Chú có
cho rằng tôi là một tên hèn nhát, mất lập trường, sẵn
sàng đầu hàng quân địch hay không? Ở đây tôi biết
nhiều người đánh giá tôi như thế, vì vậy, tôi thực
sự cô đơn ở nơi đông đúc ồn ào nầy. Anh em thường
nhắc nhở nhau giữ vững chí khí để sẵn sàng tiếp tục
hi sinh cho cách mạng. Vì vậy tôi phải câm nín, cố bịt
kín tấm lòng mình lại. Nói ra có thể nguy hại cho thân
mình.
Tân cảm động khi nghe lời tâm
sự của anh nhưng cậu im lặng vì không biết an ủi anh
thế nào cho phải lẽ.
Hai hôm sau là đến ngày thăm
nuôi hàng tuần. Từ lâu lắm rồi, Tân không còn cùng với
những người khác ngồi chầu chực để đợi chiếc loa
gọi tên mình nữa. Cậu tình nguyện xuống bếp làm việc
suốt ngày. Trước khi đi, cậu còn bắt tay anh Quý, chúc
anh hôm nay vui vẻ với vợ con. Anh cười rất tươi và
chỉ vào túi áo nơi có món đồ chơi bằng xương mà anh
bỏ ra nhiều ngày để làm nên.
Buổi chiều, nắng sắp tắt,
chiếc loa phóng thanh báo hiệu đợt thăm nuôi cuối cùng
chấm dứt, Tân ngạc nhiên thấy Quý cùng một số người
không được thăm nuôi uể oải đến nhà ăn để dùng
bữa. Thấy vẻ mặt anh buồn rầu nên Tân không muốn đến
trò chuyện.
Tối đến, sau cuộc liên hoan
thường lệ, Quý nằm yên bất động trên nền xi măng,
mắt mở thao láo, nhìn ánh đèn treo lơ lửng dưới mái
nhà, thỉnh thoảng thở dài.
Suốt tuần lễ sau đó, vẻ mặt
Quý lúc nào cũng buồn dàu dàu và lo lắng. Đêm cuối
cùng trước ngày thăm nuôi, Quý tỏ ra hết sức bồn
chồn, có lẽ anh thức suốt đêm để chờ đợi ánh bình
minh đến. Buổi sáng, khi Tân đi đến bếp để làm việc
thì đã thấy Quý áo quần tươm tất, ra dành một chỗ
ngồi chờ đợi ở đầu hông dãy văn phòng.
Trưa và chiều, như thường lệ,
chỉ một số ít người xuống ăn, trong đó không có Quý.
Tân thầm vui vì biết anh đã gặp vợ con. Bữa ăn chấm
dứt, Tân nhanh tay dọn dẹp và trở về phòng giam. Con
đường đi cũng như khoảng trống bên hông văn phòng vắng
vẻ hơn thường ngày, mọi người đang ở trong phòng để
soạn những món tiếp tế của gia đình. Cậu nghĩ đến
anh Quý và hình dung nét mặt rạng rỡ của anh sau khi đã
gặp được người thân và đã trao món đồ chơi cho con
trai mình.
Cậu bước vào, nhìn thấy mọi
người lao xao, tiếng cười tiếng nói ồn ào. Nhìn sâu
bên trong, Tân ngạc nhiên thấy Quý nằm co quắp như con
tôm, hai tay đưa lên ôm đầu. Cậu dừng lại ở cửa
phòng, thấy anh đại diện Thanh trên thềm nên ngồi xuống
kế bên và hỏi ngay:
- Anh Quý hôm nay cũng không được
thăm nuôi phải không?
Anh Thanh quay lại, thản nhiên:
- Có, vợ nó có lên thăm. Tội
nghiệp hai vợ chồng.
Tân ngạc nhiên, hỏi dồn:
- Tại sao tội nghiệp? Chuyện gì
vậy?
- Thằng con trai nó bị bệnh chết
cách nay mấy hôm rồi.
Tân sửng sốt:
- Trời đất ơi! Thiệt vậy sao
anh Thanh?
- Sao lại không thiệt? Vợ nó
ngồi khóc suốt giờ thăm nuôi. Nó cũng khóc theo làm cho
mọi người ở đó ai cũng xúc động.
Tân cảm thấy như nước mắt
mình sắp trào ra:
- Thằng bé bị bệnh thế nào,
không chữa trị được sao? Anh có hỏi thăm anh ấy không?
Anh Thanh gật đầu:
- Từ nhà thăm nuôi, nó chạy
thẳng về phòng, nằm im như chết, không nói với ai tiếng
nào. Tôi đến dỗ dành hồi lâu, nó mới chịu nói. Thực
là một nỗi bất hạnh hết sức to lớn cho vợ chồng
nó. Nó bảo rằng thằng bé bệnh nhiều ngày rồi, nhưng
cứ phải theo mẹ đi bán hàng, dầm mưa dãi nắng, nên
bệnh mỗi ngày một nặng hơn, đến lúc đưa vào nhà
thương thì thằng bé không còn sống được nữa.
- Tuần rồi, chị Quý không lên
thăm nuôi được, có lẽ vì đứa con mới mất.
- Không. Lúc đó, thằng bé đang
hấp hối trong nhà thương. Sau khi thằng bé mất, việc
tống táng nhờ nhà thương lo liệu, mẹ nó không có đủ
tiền bạc để đem xác con về nhà lo chôn cất.
Anh Thanh chép miệng thở dài rồi
nói tiếp:
- Tội nghiệp. Đời sống bên
ngoài bây giờ không dễ dàng gì. Vợ nó phải tảo tần
để nuôi con, chẳng có bà con nào giúp đỡ. Nó kể rằng,
sau khi nó bị bắt ít lâu, bao nhiêu tiền dành dụm bấy
lâu của hai vợ chồng tiêu tan hết vì vợ nó bỏ cả
công việc làm ăn, mấy tháng trời chạy khắp nơi để
hỏi han và thăm nuôi nó. Ở đây, ai cũng khổ, nhưng nỗi
khổ của nó thì lớn hơn mọi nỗi khổ của anh em mình.
Anh nằm xuống, lẩm bẩm như để
tự nhắn nhủ mình:
- Làm cách mạng là phải khổ và
phải can đảm chịu đựng.
Tân đứng dậy, trở về chỗ
nằm. Cậu đứng dưới đường đi, tần ngần nhìn thân
mình co quắp và bất động của Quý. Cậu nghểnh cổ dòm
túi áo trước ngực của anh. Chiếc túi hơi phồng lên,
cậu hiểu rằng món đồ chơi bằng xương bò của bé
Hiển đang nằm trong đó.
Những ngày tiếp theo, Quý luôn
luôn giữ im lặng. Có lẽ, nỗi đau quá lớn vượt quá
sự mong muốn được tâm sự với người khác. Nó như
một nhát dao khủng khiếp chém thẳng vào tâm hồn Quý
gây nên sự thương tổn vô cùng trầm trọng. Thấy anh
muốn tránh xa mọi người, Tân cũng ngại ngùng không muốn
gợi chuyện với anh.
Một tuần trôi qua, ngày thăm
nuôi lại đến. Từ sáng sớm, khi cửa phòng giam vừa mở,
Quý đã ra ngoài hông nhà để chờ đợi còn Tân vẫn
xuống nhà bếp làm việc thay cho anh em. Thỉnh thoảng cậu
về phòng để xem chừng chị Quý đã đến chưa. Lần nào
cũng vậy, cậu cũng bắt gặp anh Quý ngồi im lặng, hướng
tầm mắt về phía nhà thăm nuôi cho đến khi mọi người
đều ra về, Quý lẳng lặng vào xếp hàng để đến nhà
ăn.
Tân sực nhớ, cách đây hai hôm,
anh Thanh có kể thêm với cậu rằng trong ngày thăm nuôi
tuần trước, Quý đã nặng lời trách móc vợ về cái
chết của con. Chị khóc lóc rồi ra về trước khi đợt
thăm nuôi chấm dứt. Tân nghĩ rằng, có lẽ vì lý do đó
mà chị giận, không đi thăm anh tuần nầy. Nỗi bất hạnh
của anh Quý làm cho Tân thật xúc động nên cậu thành
tâm cầu mong chị Quý trở lên thăm chồng vào tuần tới.
Thế nhưng, tuần sau và những
tuần lễ kế tiếp, tiếng nói trên loa không hề gọi đến
tên anh. Nét mặt Quý thường xuyên ủ dột. Anh hay ra ngồi
một mình nơi một góc vắng vẻ, phía sau phòng giam.
*
* *
Đã gần hết tháng tư dương
lịch mà bầu trời vẫn còn trong xanh, suốt ngày mặt
trời đổ lửa xuống trần gian. Mùa nắng đã kéo dài
gần sáu tháng nên các giếng nước đã cạn đi rất
nhiều. Để có đủ nước tưới rau, người ta phải đào
thêm vào lớp đất sét pha cát trắng phau để giếng sâu
hơn. Ngoài ra, ở đáy giếng, người ta khoét sâu vào
chung quanh để giếng trữ được một khối nước lớn
hơn. Có tất cả năm giếng nằm rải rác khắp vườn
rau, và một cái thứ sáu đào sát vòng rào kẽm gai, giữa
hai vọng gác. Tân không múc nước ở giếng nầy vì những
luống rau chung quanh đó được giao cho Quý săn sóc. Thỉnh
thoảng, cậu cũng có đến đây, ngồi trên bờ đất,
nhìn qua hàng rào kẽm gai, ngắm xóm làng xa xa bên ngoài.
Hàng rào gồm hai lớp kẽm gai thẳng đứng cao hai thước
và cách nhau một thước, ở giữa chằng chịt những vòng
kẽm gai đan vào nhau. Bên ngoài hàng rào, cỏ mọc um tùm,
có nơi cao quá đầu người. Theo lời các giám thị, không
ai dám bước vào các đám cỏ um tùm đó vì có thể dẫm
phải những quả mìn mà người ta gài để ngăn ngừa tù
vượt ngục từ trong ra hoặc quân cách mạng tấn công từ
ngoài vào.
Cũng như những giếng khác, cái
giếng thứ sáu nầy sâu hơn hai mét, đáy được khoét
rộng nên không trông thấy thành bên dưới, nhìn xuống
chỉ thấy một khung trời hình tròn phản chiếu trên mặt
nước. Tân cố nghiêng mình quan sát và tưởng tượng đáy
giếng đã được khoét sâu vào bên dưới rào kẽm gai.
Cậu nghĩ rằng, chỉ cần một vài giờ trong đêm, tù có
thể khoét thêm vào, qua khỏi bề dày của hàng rào rồi
moi lên để thoát được ra ngoài.
Đó chỉ là sự tưởng tượng
của tuổi trẻ hay mơ mộng, trong một buổi chiều rảnh
rỗi, không ngờ lại chính là phương cách mà anh Quý dùng
để vượt ngục, một tháng sau ngày đứa con thân yêu
của anh qua đời.
Buổi sáng hôm đó, như thường
lệ, đèn chớp ba lần báo hiệu giờ thức dậy, tiếp
theo là tiếng hô lớn của anh Thanh đại diện:
- Tới giờ rồi, thức dậy anh
em ơi.
Tân vùng dậy cùng lúc với những
người khác. Cậu thấy kế bên cậu trống trơn, không có
Quý ở đó. Tân không quan tâm lắm vì khá lâu trước khi
đèn báo thức, nhiều người đã dậy, ngồi nối đuôi
nhau chờ đợi ở cuối phòng để lần lượt vào nhà vệ
sinh.
Người ta đi lui, đi tới trong
phòng, tiếng nói chuyện ồn ào mỗi lúc một to dần cho
đến khi có tiếng khóa khua rổn rảng bên ngoài và tiếng
hô to của anh đại diện:
- Tập họp điểm danh, anh em ơi.
Hai cánh cửa bật mở, viên giám
thị bước vào, một người lính vác súng đứng bên
ngoài. Mọi người nhanh chóng ngồi vào bốn hàng. Viên
giám thị ra lệnh:
- Đếm đi!
Người đầu tiên ở hàng bìa
đưa một cánh tay lên cao và la to:
- Một.
Anh hạ tay xuống thì người thứ
hai tiếp tục:
- Hai.
Cứ như thế đến người dưới
cùng:
- Hai mươi ba, hết.
Người đầu tiên của hàng thứ
nhì tiếp theo. Việc điểm danh tiếp tục gọn gàng và
nhanh chóng vì đây là công việc quá quen thuộc, lặp đi
lặp lại mỗi ngày hai lần. Người cuối cùng của phòng
hô to:
- Chín mươi bốn, hết
Mọi người đều giật mình vì
ai cũng biết phòng giam có tất cả chín mươi lăm người.
Viên giám thị hét to:
- Thiếu một người, điểm danh
lại.
Chấm dứt lần điểm danh thứ
nhì, vẫn cứ “chín mươi bốn, hết”. Giọng viên giám
thị trở nên hoảng hốt:
- Đúng lá thiếu một người.
Vào buồng vệ sinh xem có ai còn trong đó không.
Anh Thanh vội đứng dậy, chạy
về cuối phòng, xô cửa buồng vệ sinh nhìn vào và quay
trở lui ngay:
- Không có ai cả!
Viên giám thị ra lệnh:
- Các anh để ý người nằm kế
mình và báo ngay người vắng mặt, nhanh lên.
Tân theo lệnh nhóng cao đầu,
nhìn quanh, không thấy Quý đâu cả. Cậu la to:
- Anh Quý có đây không?
Mọi người nhốn nháo. Có nhiều
tiếng hỏi và trả lời trong các hàng:
- Quý đâu, Quý đâu rồi?
- Nó đi mất rồi.
Anh Thanh nhảy lên chỗ ngủ của
Quý, đưa chân đá vào tấm ván của bức vách ở đầu
nằm. Tấm ván bật ra tức thì, mọi người trông thấy
ngay một lỗ hổng rất rõ ràng trong ánh sáng ban mai.
Viên giám thị hét to:
- Tất cả ngồi im trong hàng.
Ông ta quay lại người lính đang
lấp ló ngoài cửa:
- Chú về báo với văn phòng có
tù vượt ngục, đánh kẻng báo động và tập họp đại
đội đi lục soát, nhanh lên.
Không bao lâu sau, người ta tìm
được nơi vượt ngục của Quý. Chính là cái lỗ thông
ở đáy giếng xuyên qua bên dưới rào kẽm gai.
Tân và một số người nằm gần
Quý được gọi lên văn phòng để lấy lời khai và cuối
cùng người ta kết luận rằng Quý đã một mình toan tính
vượt ngục từ nhiều ngày trước và không có người
nào đáng nghi là có tham gia vào âm mưu đó. Tuy nhiên, cả
trại bị phạt giam trong phòng suốt ngày, chỉ được ra
ngoài ba bữa ăn rồi trở về phòng điểm danh ngay.
Nội trong buổi sáng, người ta
lấp kín cái giếng kế cận hàng rào. Nhóm tù làm ở
trại mộc, ngưng công việc thường ngày để đi đóng
lại tất cả các tấm vách của các phòng. Tiếng đóng
đinh ầm ầm vang lên từ phòng nọ sang phòng kia, đến xế
chiều mới chấm dứt.
Câu chuyện Quý vượt ngục được
bàn tán xôn xao trong các trại trong vài ngày rồi dần dần
không ai nhắc đến nữa. Tuy nhiên sự xúc động trong
lòng Tân vẫn kéo dài khá lâu. Chỗ nằm của Quý vẫn để
trống vì những người kế cận chẳng buồn xê dịch. Do
đó, mỗi khi nhìn sang bên cạnh, không thấy dáng nằm co
quắp của Quý, cậu lại thấy bùi ngùi. Cậu thường tự
hỏi: “Anh Quý vượt ngục để làm gì?”. Chắc chắn
không phải tìm về với cách mạng để tiếp tục con
đường tranh đấu như những cán bộ cộng sản đã làm.
Tân biết Quý không còn tha thiết với cách mạng nữa,
trái lại anh còn tỏ ra hối hận vì đã nghe theo lời vận
động của cán bộ cộng sản để đến nỗi đánh mất
hạnh phúc gia đình.
Thế thì Quý vượt ngục để
làm gì? Để tìm lại người vợ mà anh đã nặng lời
trách móc trong khi chị cũng đang gánh chịu nỗi đau vô
cùng vô tận? Để trở về chốn cũ, hỏi thăm ngôi mộ
của đứa con thân yêu rồi đặt lên đó món đồ chơi
làm bằng xương bò mà người cha đau khổ chưa kịp trao
cho con mình? Tân suýt bật khóc với ý nghĩ nầy.
Sự vượt ngục của Quý không
làm gián đoạn việc dạy học của Tân. Hàng đêm cậu
tiếp tục giải thích bài học, bài làm cho Dũng. Việc
học của cậu bé tiến bộ rõ rệt Tình cảm của cả
gia đình ông giám đốc đối với cậu không có gì thay
đổi. Vẫn cái nhìn thân mật của ông đại úy, vẫn
thái độ ân cần và ly nước mát trong tay bà đại úy,
vẫn nụ cười thân yêu và kính phục của Dũng và vẫn
nét mặt thơ ngây và trìu mến của bé Loan đối với
cậu. Gia đình ông Giám đốc cho cậu một phần nào hương
vị ngọt ngào của hạnh phúc gia đình mà cậu thiếu
thốn. Nhưng tiếc thay, hương vị ngọt ngào nầy sớm
chấm dứt.
Khoảng mười ngày sau khi Quý
vượt ngục, chấm dứt buổi học, Tân định trở về
phòng giam thì bà đại úy bảo cậu ngồi lại trong phòng
khách. Bà nói với cậu:
- Ngày mai, em không còn đến đây
dạy cho Dũng học nữa.
Tân sửng sốt. Bà mỉm cười
nói tiếp:
- Chúng tôi rất tiếc. Dũng thích
học với em. Em đã có công dạy Dũng nên việc học của
nó tiến bộ rõ rệt. Vợ chồng chúng tôi cám ơn em rất
nhiều. Nhà tôi mới vừa được lệnh thuyên chuyển đi
nơi khác.
Tân hỏi với giọng rụt rè:
- Có phải vì việc anh Quý vượt
ngục hay không?
Bà đại úy lắc đầu:
- Không phải vì lý do đó. Theo
thông lệ, nhân viên nhà giam từ giám đốc đến lính gác
chỉ làm việc một thời gian rồi thay đổi. Vài hôm nữa,
chúng tôi phải rời khỏi nơi đây để nhường chỗ cho
gia đình giám đốc mới.
Bà đứng dậy, đến bàn, lấy
một gói giấy và trở lại chỗ ngồi. Bà nói:
- Cách đây mấy hôm, tôi có hỏi
giám thị thì biết rằng em chưa hề được thăm nuôi vì
không còn bà con thân thuộc ở đây. Thực là tội nghiệp
cho em. Vợ chồng chúng tôi muốn tặng em món quà nhỏ,
một bộ quần áo và một ít tiền. Em hãy nhận lấy.
Bà gập người về phía trước,
trao gói giấy cho Tân. Cậu rất cảm động khi đưa cả
hai tay ra đỡ lấy gói quà. Cậu đứng dậy bước ra cửa
để trở về phòng giam, bỗng cảm thấy xót xa như vừa
đánh mất một cái gì đó thực là︠ quý giá.
*
* *
Cái tin thay đổi giám đốc nhà
tù mà Tân mang về cho anh Thanh lập tức được truyền
đến cho mọi người khắp tất cả các phòng, gây nên sự
bàn tán xôn xao. Hầu hết mọi người đều phỏng đoán
vị giám đốc đến thay thế sẽ khó khăn hơn vị giám
đốc sắp ra đi.
Anh em đã đoán đúng. Người
giám đốc mới là một trung úy lớn tuổi, có lẽ đã
trên năm mươi. Ông ta to con, ăn nói cộc cằn, mỗi lời
nói thường kèm theo tiếng chửi thề. Anh em đồn với
nhau rằng ông là người ít học, đi lính cho Pháp lâu năm
rồi được lên trung úy. Tin đồn nầy cũng có lý vì
chính phủ quốc gia mới được thành lập ở miền Nam sử
dụng lại tất cả mọi người không phân biệt quá khứ
và cho họ cơ hội đồng đều để thăng tiến trong xã
hội. Vì vậy, người đã từng làm việc cho Pháp trước
đây, hay người từ chiến khu trở về sau hiệp định
Genève đều được làm việc trong tất cả các ngành nghề
tùy theo khả năng của mình.
Mới về nhậm chức, trung úy
giám đốc đã muốn ra oai với tù nhân bằng một số hạn
chế trong sinh hoạt. Trước tiên, số giờ bị nhốt trong
phòng tăng lên, buổi sáng mở cửa trễ, buổi chiều đóng
cửa sớm, buổi trưa khóa cửa phòng từ lúc ăn cơm trưa
xong đến hai giờ xế chiều. Thời gian thăm nuôi cũng
giảm bớt phân nửa so với trước.
Những biện pháp hạn chế nầy
bắt đầu gây bất mãn trong tập thể tù nhân. Đã có
nhiều lời ta thán và chửi rủa. Đối với ban lãnh đạo
bí mật của tù nhân thì thời cơ đang đến. Từ bấy
lâu nay, các đồng chí nầy không tìm được lý do để
phát động tranh đấu, chỉ vì giám đốc cũ tỏ ra là
người nhân từ, thái độ đối xử với tù nhân cũng có
phần hòa nhã. Trong hàng ngũ nhân viên của chính quyền
địch, bất cứ ai có lòng nhân từ cũng bị cách mạng
xem là kẻ thù nguy hiểm vì họ triệt tiêu những cơ hội
mà cán bộ cộng sản có thể lợi dụng để sách động
quần chúng đấu tranh. Với vị giám đốc mới, cơ hội
phát động đấu tranh đã sẵn sàng.
Vào tháng bảy, nước mưa rơi
xuống gần như hàng ngày, công việc tưới rau giảm bớt,
Tân được anh Thanh phân công vào nhà ăn, chuyên trách
phần xúc cơm ra thau và mang đến các bàn ăn.
Một buổi tối, anh Thanh, đến
chỗ nằm của Tân nhét vào tay cậu một cái bao và nói
nhỏ vào tai:
- Bắt đầu ngày mai, lúc chia
cơm, em bớt lại một ít cho vào bao nầy.
Tân ngạc nhiên:
- Để làm gì vậy. Nuôi heo phải
không? Bầy heo có phần riêng của nó không cần phải cho
thêm cơm của anh em mình đâu.
Thanh lấm lét nhìn quanh. Đó là
thói quen của anh và của tất cả các cán bộ khác, khi
sắp nói ra một điều quan trọng. Tân biết thế nên chú
ý lắng nghe lời thì thầm của anh:
- Em hãy chú ý nghe anh nói cho rõ
đây. Chúng ta sắp phát động tranh đấu vào ngày hai mươi
tháng bảy sắp tới. Đó là một ngày quan trọng, em nhớ
rồi chứ?
- Dạ nhớ, ngày ký kết hiệp
định Genève.
- Phải rồi, hiệp định được
ký sắp tròn hai năm. Đáng lẽ giờ nầy nhân dân hai miền
chuẩn bị tổng tuyển cử để thống nhất đất nước,
nhưng nhà cầm quyền miền Nam ngoan cố chống lại sự
thống nhất. Bên ngoài, chúng ta đang tích cực chuẩn bị
đấu tranh trong ngày đó và có thể bị nhà cầm quyền
thẳng tay đàn áp. Trong nầy chúng ta cũng phát động đấu
tranh để hưởng ứng với bên ngoài. Em nghe rõ chưa?
- Dạ, em nghe rõ rồi. Tuy nhiên,
em không hiểu tại sao em lại phải bớt phần cơm của
anh em. Việc nầy có liên can gì đến cuộc đấu tranh đòi
hiệp thương tổng tuyển cử.
- Có chứ. Các anh dự trù đẩy
cuộc tranh đấu đến hình thức cao độ là tuyệt thực.
Cuộc tuyệt thực có thể kéo dài nhiều ngày cho đến
khi có người ngã gục.
Tân sốt ruột:
- Thế thì để dành cơm làm gì?
- Những người ngã gục đầu
tiên không thể là ban lãnh đạo được. Lãnh đạo cần
sáng suốt cho đến cùng nên cần phải giữ gìn sức khỏe
trong suốt thời gian đấu tranh?
Tân quay lại, không giấu được
sự khó chịu:
- Nghĩa là quần chúng nhịn ăn
thực sự cho đến chết. Còn ban lãnh đạo thì làm bộ
tuyệt thực vì họ có cơm khô dằn bụng.
Anh Thanh trừng mắt nhìn Tân một
cách hung dữ làm cậu nín bặt:
- Tân, chú im đi, nghe tôi nói.
Đây là chỉ thị, không được cãi, nghe cho rõ để thi
hành, không được phê phán, cũng như không được tiết
lộ cho ai biết. Em phải tuyệt đối giữ kỷ luật.
Nguyên tắc hoạt động cho cách mạng thì em đã hiểu
rồi. Trong điều kiện bị giam cầm nầy, tình hình hết
sức nguy hiểm, mỗi người trong chúng ta cần giữ gìn
hơn nữa. Việc gì phân cho em làm thì em phải thi hành
đúng đắn và hết sức kín đáo. Phần cơm lấy được
mỗi ngày chỉ ít thôi để khỏi bị người khác chú ý.
Em tìm chỗ kín trên mái tôn phơi cho khô. Khi trời mưa và
buổi chiều, em đem vào giấu ở đâu đó cho thực kín
đáo. Anh thấy, trong nhà bếp, có một cái lò không dùng
đến, có thể cho cơm phơi rồi vào đó được, vừa kín
đáo lại vừa khô ráo.
Nhìn vẻ mặt không phấn khởi
của Tân, anh Thanh đoán biết cậu chưa thông, nghĩa là
chưa hoàn toàn đồng ý với chủ trương của chi bộ nhà
tù, nên anh vỗ vai cậu, cố lấy giọng vừa thân mật,
vừa nghiêm trang:
- Em nên nhớ, làm tròn nhiệm vụ
mà cách mạng giao phó là điều hết sức vinh quang cho bất
cứ thanh niên nào. Cách mạng tín nhiệm em từ trước nên
đã bố trí em vào công việc phát cơm để hôm nay đề
cử em làm công tác chuẩn bị tranh đấu nầy.
Tân ngạc nhiên:
- Em được đưa từ vườn rau
vào nhà bếp là có dự định trước?
Anh Thanh cười nho nhỏ đáp lời:
- Em nghĩ rằng việc phân công ấy
là do tình cờ sao? Tổ chức phải lo xa và tiên liệu có
ngày cần đến em trong công việc mà anh vừa mới giao. Em
phải hãnh diện vì được tổ chức quan tâm và tín nhiệm
hơn biết bao nhiêu người khác ở đây. Em có biết tại
sao em nhận được sự tín nhiệm đó hay không?
Tân lắc đầu. Anh Thanh giải
thích:
- Tổ chức tín nhiệm em không
phải là không có lý do. Sau khi em có thành tích tốt trong
cuộc tranh đấu trên đường bị giải lên đây và bị
chúng nó nhốt trong trại kỷ luật thì các anh đã chú ý
xây dựng cho em. Các anh đã liên lạc ra ngoài và được
xác nhận em đúng là cán bộ của thành đoàn, thực sự
bị địch bắt và giữ được sự trung kiên trong lúc bị
điều tra, nghĩa là không khai báo gì nên cơ sở bên ngoài
còn nguyên vẹn. Đại khái các anh nhận được báo cáo
như thế, có đúng không?
- Dạ đúng.
- Thế em bị bắt trong trường
hợp nào?
- Buổi sáng hôm đó em làm trưởng
phái đoàn học sinh đến văn phòng để thảo luận với
ban quản trị và hiệu trưởng nhà trường về việc tăng
học phí, thì rất đông học sinh đã tự phát đến bao
vây văn phòng, la lối ồn ào để phản đối nhà trường
và ủng hộ chúng em. Thế là nhà trường vừa hoảng sợ,
vừa có cớ để tố cáo chúng em hoạt động cho cộng
sản.
Anh Thanh cười:
- Họ tố cáo đâu có sai. Em khai
thế nào ở Catinat?
- Em nhất định bảo rằng chúng
em chỉ muốn nhà trường đừng tăng học phí mà thôi và
không có liên hệ gì với bất cứ một tổ chức nào?
Thanh nhìn thẳng vào mắt cậu:
- Em khai như thế mà họ tin được
à?
- Có lẽ họ không tin nhưng khi
bắt em, họ không tịch thu được một tài liệu nào cả
để có thể khai thác thêm. Lúc đó có quá nhiều người
bị bắt và giải đến Catinat, nhân viên không làm kịp
công việc điều tra, phòng giam không còn đủ chỗ nằm
cho tù nữa. Người ta sẵn sàng liệt em vào thành phần
ít quan trọng.
Thanh gật gù:
- Có lẽ là như vậy.
- Chắc chắn đúng là như thế.
Lúc em sắp sửa bị tra khảo tiếp theo thì chính em nghe
một người trong bọn họ, có lẽ là cấp trên, bước
vào nói như ra lệnh cho nhân viên đang điều tra kết thúc
hồ sơ cho em để giải quyết những vụ khác quan trong
hơn.
Thanh vỗ vai Tân một cách thân
mật:
- Được rồi, tốt. Các anh muốn
biết thêm điều đó về em. Anh sẽ báo cáo lại cho các
anh rõ. Các anh cũng nhắc rằng, em còn trẻ, chưa vướng
bận gia đình, tương lai còn dài. Em hãy tích cực tham gia
vào cuộc tranh đấu sắp tới. Anh cũng báo riêng cho em
biết một điều đáng phấn khởi. Em được các anh dự
trù đưa vào diện xây dựng đảng. Có lẽ em cũng biết
rằng được vào hàng ngũ của đảng tiền phong ngay trong
tù là niềm vinh quanh lớn nhất của một đời người.
Thôi, em chuẩn bị chỗ ngủ đi; dần dà, anh sẽ nói
chuyện thêm với em.
Thanh đứng dậy về chỗ của
mình. Vài phút sau, đèn chớp ba lần báo hiệu giờ ngủ
bắt đầu.
Cuộc tranh đấu được khởi
động sau hơn một tuần lễ. Như bất cứ cuộc tranh đấu
nào, giai đoạn thứ nhất là vận động quần chúng. Ở
đây, điều nầy được thực hiện dễ dàng và nhanh
chóng vì tất cả anh em đều đã là cán bộ hoặc đã
từng tham gia tranh đấu ở ngoài đời. Mọi người đều
đồng ý đứng lên phản đối các hạn chế có tính khắt
khe của giám đốc mới và đòi hỏi trở lại các điều
kiện sinh hoạt trước đây.
Nhà tù gồm năm trại trong đó
có bốn trại Việt Cộng, ba trại nam và một trại nữ.
Cả bốn trại đều chịu một hệ thống lãnh đạo bí
mật chung và sẽ cùng tham gia vào cuộc tranh đấu.
Hôm nay là ngày thăm nuôi thường
lệ hàng tuần. Buổi liên hoan buổi tối biến thành cuộc
họp để khởi đầu cuộc tranh đấu. Ngay từ đầu, cuộc
họp đã sôi nổi, không khí nhanh chóng được đốt nóng
lên với nhiều ý kiến mỗi lúc một gay gắt hơn. Hầu
hết mọi người đều bị kích động. Với sự lèo lái
khôn khéo của ban lãnh đạo, những ý kiến phát biểu
không còn giới hạn trong phạm vi đòi hỏi cho sinh hoạt
trong trại nữa mà lan sang lĩnh vực chính trị. Sau cùng,
mọi người biểu quyết và tất cả đồng ý cử đại
diện đến gặp giám đốc nhà tù để trình bày hai điều
đòi hỏi.
Điều thứ nhất là nới lỏng
giờ giấc sinh hoạt như cũ. Điều thứ hai là đưa tù
nhân ra tòa để xét xử hay ít nhất cho mỗi người biết
thời hạn giam giữ ở đây.
Trại cử hai đại diện. Ngoài
anh Thanh ra, anh em cử thêm anh Năm Tiến, theo lời giới
thiệu đầy nhiệt tình của chính anh Thanh. Năm Tiến là
một thanh niên còn trẻ, ăn nói thô lỗ và cộc cằn. Anh
ta nguyên là bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, không có tài ăn nói nhưng rất gan lỳ. Tân ngạc
nhiên về sự đề cử nầy vì cậu nghĩ rằng người đại
diện mang nguyện vọng của anh em đến cho giám đốc phải
là người ăn nói hoạt bác, nhanh trí để có thể xoay
chuyển tình thế khi cần. Năm Tiến thì rõ ràng không
thích hợp với vai trò đó. Tuy nhiên, cậu đã nhầm, hay
đúng hơn, cậu chưa hiểu được dự định của ban lãnh
đạo khi đưa Năm Tiến ra làm đại diện.
Quả thực vậy, qua ngày hôm sau,
ăn cơm chiều xong, tám đại diện gồm sáu nam và hai nữ
đột ngột kéo lên văn phòng xin gặp giám đốc. Ngay tức
thì, nổ ra cuộc đấu khẩu giữa viên giám thị trực và
đại diện tù nhân. Chính Năm Tiến khơi mào cho cuộc
khẩu chiến nầy.
Ông trung úy giám đốc không có
mặt nên sự việc được báo ngay cho giám thị trưởng
giải quyết. Ông nầy tính tình hung dữ, thường hay đánh
đập tù nhân. Với kinh nghiệm của nhiều năm giữ tù,
ông hiểu ngay tình hình trầm trọng và tù đang phát động
tranh đấu. Một mặt, ông ra lệnh báo động để trấn
áp tinh thần tù nhân, mặt khác cho còng tay cả tám đại
diện và đưa xuống biệt giam trong trại kỷ luật. Ông
nghĩ rằng đây là những người cầm đầu nên cần phải
nhốt ngay để cho số tù nhân trong các phòng như rắn mất
đầu.
Tuy nhiên, ông ta đã lầm. Cái
đầu không phải nơi đoàn đại diện mà ẩn sâu trong
khối tù nhân. Lập tức, tất cả tù ùn ùn kéo đến sân
truớc văn phòng và ngồi xuống. Kẻng trên văn phòng,
kẻng trên các vọng gác đánh lên liên hồi, lính rần
rần chạy đến bố trí trước cổng và dọc theo hàng
rào kẽm gai. Viên giám thị trưởng hét vào máy phóng
thanh:
- Tới giờ điểm danh rồi, tôi
ra lệnh cho các anh, trại nào về trại đó, không còn ai
được ngồi tại đây.
Đáp lại lệnh nầy là tiếng la
to của một người trong hàng:
- Yêu cầu thả ngay đại diện
tù nhân.
Hàng trăm tiếng cùng thét lên
hưởng ứng:
- Yêu cầu, yêu cầu, yêu cầu.
Ngoài đường, xe cộ và bộ hành
dừng lại nhìn vào. Tình hình rất căng thẳng và rất
bất lợi cho những người cai quản nhà tù. Loa phóng
thanh tiếp tục ban lệnh và dọa nạt, tù tiếp tục la
hét, số người hiếu kỳ ngoài đường mỗi lúc một
đông.
Đột nhiên, có tiếng còi xe hụ
vang từ xa. Số đông dân chúng bên ngoài nhốn nháo và
vội tản mát đi nơi khác. Hai cánh cổng mở toang, một
xe Jeep chạy vào, tiếp theo là hai xe vận tải quân sự
chở đầy binh sĩ, súng ống đầy đủ. Theo lệnh viên sĩ
quan chỉ huy, toán lính nhanh chóng nhảy xuống xe dàn hàng
ngang ngay trước mặt tù nhân.
Bấy giờ, viên giám thị trưởng
từ văn phòng bước ra, nói vào máy phóng thanh cầm tay:
- Lần cuối cùng, tôi ra lệnh
cho các anh trở vào phòng. Các anh có tuân lệnh tôi hay
không?
Tất cả tù nhân đồng thanh:
- Không, không, yêu cầu thả ngay
đại diện của chúng tôi.
Tiếng la to như sấm dậy làm cho
viên sĩ quan chỉ huy toán lính giật mình. Ông khoát tay ra
lệnh, những người lính đồng loạt quỳ xuống, lên đạn
rôm rốp rồi nâng súng lên, báng súng tì vào vai, họng
súng đen ngòm chĩa thẳng vào đám tù đang trở nên bất
động.
Không gian bỗng nhiên im lặng một
cách ghê rợn. Những tù nhân phía trước nhắm mắt lại.
Họ sẽ là những người sẽ ngã gục đầu tiên nếu có
tiếng súng vang lên.
Một phút, hai phút rồi mười
phút trôi qua. Đã bắt đầu có dấu hiệu sợ hãi ở vài
người. Có tiếng quát khẽ của ai đó giữa đám đông:
- Ngồi yên, không được nhúc
nhích. Phải tiếp tục tranh đấu đến cùng.
Một chiếc xe Jeep chạy đến và
dừng lại ngoài cổng. Hai cánh cửa mở rộng ra, chiếc
xe chạy vào. Một người bước xuống. Đó chính là trung
úy giám đốc. Ông ta bước nhanh đến yêu cầu vị sĩ
quan chỉ huy cho lính đứng dậy chĩa súng lên trời. Ông
quay sang đám tù, trừng mắt quát lớn:
- Tôi là trung úy Khâm, giám đốc
trung tâm nầy. Chỉ có tôi mới đủ tư cách trả lời
các đòi hỏi của các anh. Bây giờ, các anh muốn gì, nói
đi.
Tiếng ồn ào nổi lên đồng
loạt trong đám tù. Viên giám đốc đưa cả hai tay về
trước ra lệnh im lặng và nói tiếp:
- Một người thay mặt cho toàn
thể các anh nói thì mới có thể nghe được. Nào, ai đại
diện đâu?
Sau một phút im lặng, có tiếng
la lớn ở gần cuối đám đông.
- Đại diện bị các ông bắt
nhốt vào trại kỷ luật cả rồi. Ở đây không còn ai
đại diện nữa.
Viên giám đốc quay vội lại
người vừa nói. Đó là một người trung niên, mang kiếng
trắng có vẻ trí thức. Tân biết anh ta tên là Thìn cùng
làm việc ở nhà bếp. Viên giám đốc chỉ thẳng vào mặt
anh, nói to:
- Được rồi, tôi chỉ định
anh đại diện cho anh em phạm nhân, nói rõ cho tôi biết
các anh muốn gì?
Thìn đứng thẳng dây. Mọi người
quay lại nhìn. Có tiếng thì thào nho nhỏ:
- Được, nó có thể đại diện
cho anh em mình. Nó có lập trường vững và ăn nói khá
lắm.
Thìn tằng hắng rồi cất tiếng
chậm rãi, rõ ràng:
- Chúng tôi đòi hỏi ba điều.
Thứ nhất là đưa ngay các đại diện của chúng tôi ra
khỏi trại kỷ luật. Thứ hai là nới lỏng giờ sinh hoạt
của chúng tôi như trước đây.
Thìn ngừng lại để lựa lời
vì đòi hỏi thứ ba là một đòi hỏi có tính cách chính
trị và có tầm quan trọng to lớn. Viên giám đốc gằng
giọng:
- Hết chưa?
- Chưa, còn một điều nữa.
- Điều gì, nói đi.
- Các ông hãy đưa chúng tôi ra
tòa nếu xét thấy có tội. Nếu không đủ yếu tố buộc
tội thì trả tự do cho chúng tôi.
Lời nói rõ ràng và khúc chiết
của Thìn làm mọi người hân hoan. Niềm phấn khởi chợt
đến, quét đi nỗi sợ hãi trước đó vài phút. Nhiều
người bị kích động, la to:
- Đúng, đúng, yêu cầu thi hành
ngay những điều đó.
Viên giám đốc quắc mắt nhìn
đám tù, nỗi giận vì những tiếng la ó. Tiếng nói của
ông gần như là tiếng rống:
- Các anh phải giữ trật tự.
Bây giờ các anh phải vào phòng ngay. Đã quá giờ quy định
lâu lắm rồi. Khi các anh vào phòng rồi, tôi sẽ giải
quyết nguyện vọng của các anh.
Đám đông đồng thanh hét lớn:
- Không vào, không vào. Giải
quyết trước, vào phòng sau.
Viên giám đốc quay lui, ra lệnh
cho đám lính:
- Tư thế tác chiến.
Cả toán đồng loạt quỳ xuống,
nâng súng lên, nòng súng đen ngòm lại chĩa thẳng vào đám
tù. Viên giám đốc bước xéo về một bên, ngang hàng với
toán lính, hô to:
- Trung đội sẵn sàng.
Tiếng ồn ào biến mất đột
ngột. Sự im lặng chợt đến một cách dễ sợ. Không
khí như cô đặc lại. Những người tù ở các hàng đầu
chăm chăm nhìn họng súng với cặp mắt thất thần.
Viên giám đốc hét to:
- Lần cuối cùng, tôi ra lệnh
cho các anh, phòng nào về phòng nấy. Đã quá giờ giới
nghiêm. Nếu không tuân lệnh tôi sẽ cho binh sĩ nổ súng.
Có tiếng nói nhỏ nghe như tiếng
rít trong cổ họng:
- Đừng vào. Vào là đầu hàng,
hèn nhát. Phải cương quyết đấu tranh đến cùng. Thề
hy sinh cho Tổ quốc!
Không khí đang cực kỳ căn thẳng
thì đột nhiên, nét mặt viên giám đốc dịu lại. Ông
ra lệnh cho binh sĩ đứng dậy, quay họng súng lên trời.
Ông bước đến trước đám tù, cố lấy giọng ôn tồn:
- Thôi được, tôi giải quyết
ngay những điều các anh đòi hỏi. Đại diện các anh
được trả về phòng ngay bây giờ. Kể từ ngày mai, giờ
giấc sinh hoạt của các anh trở lại như cũ.
Ông ta ngừng một chút, nuốt
nước bọt hai lần rồi nói tiếp:
- Còn điều đòi hỏi cuối cùng,
việc phải đưa các anh ra tòa thì không thuộc thẩm quyền
giải quyết của tôi. Tôi sẽ đưa điều nây lên cấp
trên. Đó, tôi đã giải quyết như thế, các anh đã thỏa
mãn chưa?
- Thỏa mãn!
Một người ở hàng đầu reo lên
như một nỗi vui mừng bật tung ra sau khi cái chết cận
kề vừa rút lui một cách đột ngột.
- Thỏa mãn, thỏa mãn.
Tiếng reo mừng từ hàng đầu
lan xuống phía dưới một cách nhanh chóng. Mọi người
đứng dậy quay lui, bước nhanh đến các cửa phòng và
vội vã chui vào.
Cuộc tranh đấu chấm dứt, gần
như thắng lợi hoàn toàn. Cuộc tranh đấu chấm dứt, có
nghĩa là không còn phải tuyệt thực nữa. Thế thì gói
cơm khô mà Tân đang cất dấu bây giờ dùng để làm gì?
Ngay ngày hôm sau, cậu hỏi anh Thanh điều nầy. Thanh trả
lời:
- Em cứ cất dấu ở đâu đó.
Các anh đang bàn bạc để phát động cuộc tranh đấu
khác. Cuộc tranh đấu vừa qua hỏng rồi.
Tân ngạc nhiên:
- Tại sao vậy? Hầu hết các
điều đòi hỏi của mình đã được giám đốc nhà tù
chấp nhận, đó không phải là thắng lợi hay sao?
Thanh cười:
- Chúng ta tranh đấu đâu phải
chỉ cần được thỏa mãn những điều đòi hỏi. Sự
nhượng bộ của đối phương không phải là mục đích
của cuộc tranh đấu của chúng ta.
- Thế thì mục tiêu tranh đấu
là gì?
- Là gây tiếng vang ra bên ngoài.
Địch càng ngoan cố, càng đàn áp mạnh thì tiếng vang
càng lớn.
Tân trố mắt, bực bội hỏi:
- Nếu đêm rồi, địch nổ súng
làm cho một số anh em mình ngã gục thì cảnh máu đổ
thịt rơi đó sẽ gây một tiếng vang rất lớn, có thể
vượt quá biên giới miền Nam nầy, và đến tận bên Mỹ,
có phải không?
- Đúng vậy. Rất tiếc, tên
trung úy giám đốc không dám đối đầu với anh em mình.
Từ khi nó về nhậm chức ở đây, anh em đã điều nghiên
và biết nó là một tên lính Pháp xưa kia, tính tình cộc
cằn thô lỗ, tàn ác; không ngờ nó khôn ngoan biết nhượng
bộ làm cho cuộc đấu tranh của chúng ta tàn lụi nhanh
chóng.
- Thế tại sao các anh không dự
trù phương cách nào đó làm cho nó nổi nóng quên cả
nhượng bộ.
Thanh cười:
- Có nghĩa là chúng ta khiêu khích
nó, em muốn nói thế, phải không?
Tân gật đầu. Thanh nói tiếp:
- Có chứ. Các anh có tính chuyện
đó nên đã cử Năm Tiến làm đại diện, bất ngờ tên
giám thị trưởng nhốt ngay anh chàng nầy cùng với những
đại diện khác thành ra hỏng việc.
Tân chạnh lòng nhớ đến ánh
mắt sáng rực tự hào của Năm Tiến, khi được đề cử
vào đoàn đại diện.
- Vậy anh Tiến là con tốt thí
mạng?
Thanh ngập ngừng một chút rồi
nói lảng đi:
- Chắc tên trung úy giám đốc đã
nhận được chỉ thị phải dập tắt ngay cuộc tranh đấu
của chúng ta vì thế giới đang hướng tầm nhìn về miền
Nam khi ngày hai mươi tháng bảy gần kề. Chẳng những nó
dập tắt ngay được cuộc tranh đấu mà nó còn thúc đẩy
cho tâm trạng hữu khuynh phát triển trong anh em mình.
Tân hỏi lại một cách thờ ơ:
- Anh nói tâm trạng hữu khuynh là
thế nào?
- Là nghiêng về sự thỏa hiệp
với địch, mất sự kiên trì tranh đấu, về lâu về dài
xa rời lập trường giai cấp và có thể dẫn đến sự
đầu hàng địch.
Bỗng dưng, Thanh nhìn thẳng vào
mắt cậu, giọng nói vẫn nhỏ nhưng như gằn từng tiếng:
- Em nên nhớ rằng, trong giai đoạn
quyết liệt nầy, phải đề phòng xu hướng hữu khuynh
trong anh em và trong chính bản thân mình. Nên nhớ, con
đường cách mạng còn dài và còn lắm gian nguy nên luôn
luôn phải củng cố lòng kiên trì của mình, đừng để
cho ý muốn thỏa hiệp với địch có dịp bám rễ trong
tư tuởng mình.
Dứt câu nói nầy, Thanh đứng
dậy vỗ vai cậu và bỏ đi vào phòng. Tân ngồi thừ nhìn
ánh nắng xuyên qua tàn lá của hàng cây cao, rơi lỗ chỗ
trên mặt đất. Sau gần một tháng, hôm nay là buổi trưa
đầu tiên, các cửa phòng giam vẫn mở.
Tháng bảy, trời oi nồng dù đã
bước vào mùa mưa. Trong phòng, cái nóng từ mái tôn đổ
xuống hừng hực nên một số lớn tù nhân ra ngoài ngồi
dưới gốc cây hoặc trên hè nhà. Họ lim dim ngủ gà ngủ
gật hay tán chuyện gẫu với nhau.
Anh Thanh đi rồi, Tân còn ngồi
lại suy nghĩ mông lung. Có lẽ anh Thanh đã nhìn thấy tâm
trạng của Tân qua đợt tranh đấu vừa rồi và lời lên
án hữu khuynh cũng là lời nhắn nhủ trực tiếp đến
cho Tân. Cậu uể oải đứng dậy và lắc đầu một cách
chán nản. Cái điều mà cậu muốn rứt đi quăng vào quá
khứ lại cứ bám theo mãi không rời.
Đêm đó, lần đầu tiên cậu
muốn ra khỏi nhà tù, xa rời những con người cách mạng
đang sống chung với cậu. Nhưng cậu biết rằng, ra tù
bây giờ, cậu sẽ đối mặt ngay với các đồng chí cùng
cơ sở với cậu trước đây. Cậu mới xa họ chưa đầy
một năm. Thời gian đó chưa đủ để họ quên cậu. Cậu
biết lòng mình. Nếu bây giờ cậu được trả tự do và
họ tìm đến thì cậu khó lòng từ chối, có nghĩa là
cái giá mà cậu phải trả từ gần một năm nay qua ba nhà
tù hóa ra vô ích.
Tân buồn bã lững thững xuống
bếp quét dọn phòng ăn và sắp chén bát lên bốn dãy
bàn. Xong việc vẫn còn quá sớm, lửa mới bắt đầu
nhúm lên trong lò để nấu cơm chiều.
Cậu đứng tần ngần trong phòng
ăn rộng thênh thang, lắng nghe tiếng ca vọng cổ nghêu
ngao từ phía sau nhà ăn vọng vào. Cậu biết tại đó có
một vọng gác, lính thay nhau ôm súng nhìn vào canh gác
ngày đêm. Cậu lân la đi ra phía đó. Giọng ca nín bặt.
Cậu nhìn lên vọng gác và mỉm cười với người lính.
Anh ta cũng cười đáp lễ. Hai người vẫy tay chào thân
mật. Tân lại lững thững đi vào, thấy trong lòng một
mối xúc cảm nhẹ nhàng. Tại sao con người vẫn cứ phải
xem nhau như kẻ thù?
Sau khi cuộc tranh đấu chấm dứt,
nhiều ngày trôi qua trong bình lặng. Bên ngoài cũng không
nghe nói tới một cuộc tranh đấu nào nổ ra để kỷ
niệm ngày ký hiệp định Genève.
Đúng nửa tháng sau, một buổi
sáng, tù đột ngột bị gọi ra sân vận động xếp hàng.
Người ta lần lượt gọi tên một số lớn tù để đày
đi hải đảo. Ai cũng hiểu rằng đây là kết quả của
cuộc tranh đấu vừa qua. Tân không được gọi tên, có
nghĩa là cậu ở lại đây với một số ít những người
khác.
Đoàn xe hơn mười chiếc nối
đuôi nhau chạy ra khỏi trại. Những người ở lại bị
nhốt trong phòng, chen chúc nhau sau khung cửa sổ để nhìn
và cố vẫy tay từ biệt. Sau khi đoàn xe đi khuất, sân
nhà tù trở lại vắng lặng, Tân buồn bã về chỗ của
mình, nằm gác tay lên trán, lòng ngổn ngang với bao nhiêu
là cảm xúc. Tân bùi ngùi nghĩ đến những anh em đang bị
chở đi không biết đến tận hải đảo xa xôi nào. Ngày
mai là đúng ngày thăm nuôi; những người vợ, những bà
mẹ già, những đứa con thơ dại sẽ mang thức ăn tiếp
tế lên đây và không được gặp người thân. Họ sẽ
trở về trong nỗi buồn đau không sao tả xiết.
Phòng giam bây giờ còn lại gần
ba mươi người mà sao có vẻ vắng lặng và ảm đạm.
Tân ngồi dậy thẩn thờ nhìn suốt bề dọc gian nhà. Mọi
người đều im lặng và buồn bã, người thì nằm nhắm
mắt, người thì ngồi túm tụm chuyện trò nho nhỏ với
nhau. Tân tự hỏi cái ban lãnh đạo bí mật còn lại được
mấy người ở đây. Anh Thanh đi rồi, còn ai khác sẽ đến
tiếp tục ràng buộc cậu vào nhiệm vụ của cách mạng
hay không?
Tân sực nhớ đến gói cơm khô
chuẩn bị cho cuộc tranh đấu tuyệt thực mà không thành.
Tân đã gói tất cả vào một ống quần dài mà một
người bạn tù cắt bỏ và cho cậu để biến nó thành
cái gối kê đầu. Nửa tháng rồi, trời mưa ẩm ướt,
cộng với mồ hôi đầu thấm vào mỗi đêm nên từ trong
khối cơm khô đó bắt đầu có mùi mốc xông ra. Đêm rồi
cậu nghĩ rằng nếu nay mai xảy ra tranh đấu dẫn đến
tuyệt thực như anh Thanh dự trù thì cái số cơm nầy có
thể làm cho các vị lãnh đạo đau bụng vì trúng độc
và chết trước các anh em thực tình tuyệt thực. Cậu
bật cười một mình vì ý nghĩ đó. Bây giờ, có lẽ cái
thành phần lãnh đạo đó đã đi rồi; trưa nay, khi được
phép ra ngoài để đi ăn cơm, cậu sẽ quăng bọc cơm nầy
vào hố rác ở sau phòng.
Sau chuyến chuyển tù ra hải đảo,
phòng giam được rộng rãi, mỗi người chiếm một khoảng
rộng để lăn qua lăn về một cách thoải mái. Tuy vậy,
Tân cảm thấy thực buồn bã. Những người kế cận,
thường hay đùa giỡn với Tân đã ra đi tất cả, chỉ
còn anh Minh ở lại mà thôi. Trước đây, Tân không thân
thiết lắm với anh. Bây giờ Tân cần gần gũi một ai
đó. Vì vậy, cậu thường đến chỗ anh Minh nằm để
chuyện trò cho bớt cô đơn.
Không bao lâu sau, hàng tuần đều
có một đợt tù từ nơi khác đưa đến, các trại liên
tục nhận thêm người và dần dần trở nên đông đúc
chật chội và ồn ào. Nhà tù rút lại tất cả những gì
đã nhượng bộ sau vụ tranh đấu nửa tháng trước đây.
Giờ sinh hoạt bị siết lại, buổi trưa lại bị nhốt
trong phòng giam để phải chịu cái nóng hầm hập từ mái
tôn dội xuống.
Vào cuối tháng chín, trời luôn
luôn vần vũ, mưa rơi đều đặn hàng ngày. Một buổi
sáng tinh sương, vào giờ điểm danh, tiếng kẻng báo động
vang lên, tù nhân nhốn nháo. Không bao lâu người ta hay
tin ở phòng B kế bên có hai người tù, lợi dụng mưa to
gió lớn suốt đêm, đã vượt ngục và trốn thoát ra
ngoài.
Thế là suốt ngày hôm đó, tù
nhân bị giữ lại trong phòng để cho cơ quan an ninh ở
Sài gòn về điều tra và để trừng phạt những người
còn ở lại. Tân buồn bã đi thơ thẩn từ đầu đến
cuối phòng. Ngang qua chỗ Minh, thấy anh đang ngồi uống
nước trà một mình nên ghé lại. Anh vui vẻ trao chén
nước cho cậu. Tân đỡ lấy chén nước hỏi anh:
- Anh có biết hai người bên trại
B vượt ngục bằng cách nào không?
- Họ cạy ván chui ra khỏi phòng.
Nhân lúc trời mưa to bò ra đến hàng rào. Lúc đó gió
rất lớn nên điện bị cúp, hai anh leo qua hàng rào ra
ngoài.
- Giỏi nhỉ?
- Sao lại không giỏi. Lính đặc
công xưa của Trung đoàn Gia định mà.
Tân ngạc nhiên:
- Tại sao anh biết rõ như vậy?
Chúng ta bị nhốt suốt từ sáng đến bây giờ mà.
- Anh có cách liên lạc với các
trại khác. Ở đây, anh đảm nhiệm công việc nầy. Anh
đã quá quen nhờ kinh nghiệm ở tù lần trước.
- Trước đây, anh cũng đã từng
ở tù rồi à?
Minh gật đầu:
- Có, bị Tây bắt giam hơn một
năm, kể từ giữa năm 1952 đến đầu năm 1954.
- Cũng bị nhốt tại đây à?
- Không, ở bót Phú lâm, khắc
nghiệt hơn ở đây nhiều lắm. Dạo đó, giám đốc trại
là một thằng Tây rất tàn ác vì vậy anh em và cả đồng
bào bên ngoài gọi nó là “thằng Tây điên”. Sống
trong khám “thằng Tây điên” đó thì khiếp lắm. So với
nơi đó thì nhà tù nầy là thiên đàng.
Anh cười rồi nói tiếp, giọng
có mùi triết lý:
- Mình theo cách mạng là chấp
nhận một lằn ranh rõ rệt, bên nầy là ta, bên kia là
thù. Tuy nhiên, thù cũng không hoàn toàn giống nhau. Ít
nhất, có hai loại. Thù cùng màu da thì dễ chịu còn thù
khác màu da thì kinh khủng lắm. Anh chịu đựng nỗi kinh
khủng đó đến gần hai năm dài như hai thế kỷ.
- Nhưng cuối cùng bọn nó trả
tự do cho anh?
- Làm gì có chuyện đó. Anh vượt
ngục.
Tân tỏ vẻ thán phục:
- Anh ra bằng cách nào?
- Cắt kẽm gai, chui ra ngoài.
- Chỗ anh chui ra không có lính
gác sao?
- Sao lại không? Ở đó, sự canh
gác còn chặt chẽ hơn ở đây nhiều.
- Vậy sao anh ra được? Lấy cái
gì để cắt cho đứt kẽm gai?
- Kềm cộng lực. Em biết loại
kềm đó không?
- Biết, nhưng trong tù, làm thế
nào anh có được thứ đó?
Minh cười thành tiếng:
- Thứ gì cũng có thể mang vào
trong tù được, bằng cách nhét vào gói thức ăn và đưa
vào trong ngày thăm nuôi. Cũng có thể thuê tiền cho lính
đưa vào cũng được. Cái khó là làm sao, ban đêm, đến
sát hàng rào và cắt dây kẽm để chui ra ngoài. Cũng như
ở đây, một dãy bóng đèn điện chạy dọc theo hàng rào
soi sáng suốt đêm.
- Thế làm sao anh ra được?
- Nhờ một nguyên nhân mà về
sau mỗi khi nhớ đến anh vẫn không hết buồn.
- Chuyện bi thảm lắm à?
- Khá bi thảm. Câu chuyện thế
nầy. Trong số lính gác của nhà giam, có thằng Định, em
cô cậu của vợ anh. Anh bảo vợ anh thuyết phục thằng
Định để đến phiên nó gác thì anh vượt ngục. Vợ
anh năn nỉ nó nhiều lần mà nó không chịu, nên cô ấy
nản chí. Lúc đó anh không thể nào chịu đựng cuộc
sống trong tù được nữa nên bảo vợ anh phải tiếp tục
năn nỉ thằng em vợ. Nếu không đuợc thì anh sẽ liều
mình vượt ngục bằng cách nào đó và cam chịu sự rủi
ro rất lớn, mạng sống như chỉ mành treo chuông. Nghe anh
dọa như thế, vợ anh đâm hoảng. Cô ta về ngay Mỹ tho
gặp mẹ thằng Định, tức là cô ruột của vợ anh, năn
nỉ bà cô suốt một ngày. Cuối cùng bà đồng ý, về
Sài gòn “ra lệnh” cho con trai mình phải chấp nhận. Là
đứa con có hiếu với mẹ, Định phải tuân lời nhưng
bắt vợ anh phải thắp nhang đứng trước bàn thờ ba nó
là tuyệt đối giữ kín chuyện nầy, nghĩa là không bao
giờ nói với một người nào khác, trong bất cứ trường
hợp nào. Rồi nó bảo vợ anh trong ngày thăm nuôi phải
bắt anh thề độc ba lần.
Tân phì cười:
- Anh có thề không?
- Có chứ, anh lặp lại theo lời
vợ anh, thề giữ kín cho đứa em họ, nếu sai lời thì
quỷ thần bắt anh xuống địa ngục.
Tân cười khì:
- Anh là người cộng sản mà
cũng tin quỷ thần trừng phạt à?
- Chẳng tin gì cả nhưng cũng
phải làm theo lời vợ anh cho được việc.
- Không tin quỷ thần nhưng anh có
ý định giữ đúng lời thề không?
- Có chứ, anh nhất định giữ
kín chuyện nầy cho đến chết, không phải vì sợ quỷ
thần lôi xuống địa ngục mà vì danh dự của anh và của
vợ anh đối với thằng em. Chính vì nhất định giữ
đúng lời thề mà anh gặp chuyện vô cùng cay đắng.
- Tại sao vậy?
- Để anh kể câu chuyện một
cách tuần tự thì em mới hiểu được. Thằng Định đồng
ý rồi, anh bảo vợ anh sắp đặt công việc với nó và
ấn định đêm hành động là một đêm tối trời vì
không có trăng. Ra khỏi phòng giam thì không mấy khó khăn,
vì trước đó nhiều ngày, anh đã kín đáo cưa đứt song
sắt cửa sổ. Đợi anh em ngủ hết anh phóng nhanh ra khỏi
phòng giam và bò đến gần hàng rào khoảng giữa hai chòi
canh, một chòi thì hơi khuất, chòi kia thì quan sát dễ
dàng. Anh yên tâm, cái chòi có thể thấy được thì do
thằng Định đang gác. Từ khi chiều, nó đã tìm cách
thông báo cho anh biết điều đó rồi. Lúc anh ra sát hàng
rào thì trời chuyển mưa, gió thổi ù ù, mấy bóng đèn
lắc lư. Ngay chỗ anh đứng, có một bóng đèn từ trên
đầu trụ rào rọi xuống. Anh lượm một cây sắt ở
chân hàng rào.
Tân chận lời:
- Tại sao có cây sắt để sẵn
vậy?
- Chính thằng Định để đó. Nó
nói với vợ anh là anh phải làm cho bóng đèn đó tắt đi
để nó đỡ bị nghi ngờ sau khi anh vượt ngục. Cây sắt
đầu có móc. Anh đứng thẳng người, thò cái móc vào
bên trên bóng đèn giật mạnh. Dây dẫn điện đứt, bóng
đèn đó tắt ngay.
- Rồi sau đó anh cắt kẽm gai và
chui ra ngoài.
Minh cười:
- Đúng vậy.
- Anh có biết sau khi anh đi rồi
thì cái ông em vợ của anh có bị lôi thôi gì không?
- Mãi sau khi hòa bình được lặp
lại thì anh mới gặp vợ anh. Nhắc đến chuyện đó, cô
ta khóc và kể lại rằng sáng hôm sau, người ta phát giác
ra ngay nơi anh cắt kẽm gai nên nó bị an ninh quân đội
điều tra. Nó không nhận tội nhưng vẫn bị đẩy ra
chiến trường Hòa bình tận ngoài Bắc. Không bao lâu sau,
nó bị tử trận ở ngoài đó. Thiệt là tội nghiệp.
Tân tặc lưỡi:
- Quả thực là tội nghiệp, chú
em vợ của anh đã phải trả giá quá đắt cho sự tự do
của anh.
Minh tiếp lời với giọng buồn
buồn:
- Đúng là nó đã phải trả giá
đắt cho chuyện vượt ngục chứ không phải cho sự tự
do của anh.
Tân ngạc nhiên:
- Vượt ngục với tự do là mấy
thứ?
- Hai thứ khác nhau. Để anh kể
tiếp em nghe. Sau khi thoát khỏi trại tù, anh may mắn tìm
được ngay giao liên và về tới đơn vị không mấy khó
khăn. Đêm đó, anh em nấu chè liên hoan mừng anh trở về
nhưng ngay ngày hôm sau, anh bị điều tra. Người ta bắt
anh khai tỉ mỉ cách vượt ngục của anh. Trong toàn bộ
diễn tiến thì cái điểm mà anh không thể làm cho họ
xuôi tai được, chính là cái lý do tại sao anh đến sát
hàng rào, bứt đứt dây đèn, cắt kẽm gai mà lính gác
không hay biết.
- Nghĩa là anh không khai sự trợ
giúp của ông em vợ phải không?
- Đúng vậy. Anh không muốn vi
phạm lời thề. Vả lại, nếu anh nói ra sự giúp đỡ
của cậu em vợ thì công an cũng không tin ngay đâu. Công
an là chúa nghi ngờ mà. Bị công an nghi ngờ thì thực là
điêu đứng. Thời gian đó, anh vô cùng đau khổ. Mình vô
tội, muốn ra khỏi tù để phục vụ cho cách mạng mà bị
đối xử như người có tội vậy.
- Về sau, anh có được minh oan
không?
- Không, anh bị giam giữ, ngày
thì đi cuốc đất, tối về bị cùm chân. Cho đến khi
hiệp định Genève được ký kết, họ thả anh ra, tuyên
bố anh vô tội và đề nghị anh tiếp tục phục vụ cho
cách mạng.
- Rồi anh vẫn tiếp tục theo
cách mạng? Việc người ta đối xử với anh như thế
không làm cho anh phẫn uất hoặc bất mãn hay sao? Em nhớ
ông đại úy giám đốc cũ của nhà tù nầy cũng rơi vào
trường hợp bị nghi ngờ như anh sau khi vượt ngục và
ông ta từ giã luôn con đường cách mạng của mình và
nhảy qua hàng ngũ đối nghịch.
- Anh không ngạc nhiên về điều
đó. Chắc chắn nhiều người cũng lâm vào hoàn cảnh đau
khổ như anh. Đôi khi, nhớ lại, anh vẫn còn thấy buồn
và xót xa cho thân phận mình lúc đó, nhưng anh không phẫn
uất hay bất mãn. Anh hiểu rằng cơ sở cách mạng nằm
ngay trong lòng địch và chiến khu ở không xa vùng địch
chiếm đóng nên cần phải hết sức cảnh giác. Thà để
cho mười người bị chết oan chứ nhất định không để
cho một người của địch cài vào hàng ngũ mình. Anh đã
rèn luyện tư tưởng đó trong bao nhiêu năm và anh đã
nhìn người khác, nhìn cả cuộc đời qua tư tưởng đó
thì người khác nhìn anh như thế cũng là hợp lý.
Anh dừng một chút rồi nói tiếp
như giãi bày tâm sự:
- Vả lại, anh nhất quyết theo
cách mạng cũng vì lý do tự ái.
- Tự ái thế nào?
Anh khoát tay:
- Để anh giải thích em nghe. Lúc
điều tra anh, có lần đồng chí công an nặng lời mạt
sát anh và bảo rằng anh ngoan cố không chịu khai sự
thật. Đồng chí đó có ý nói rằng anh đã phản bội.
Anh nổi nóng cự lại: “Tôi nói cho đồng chí rõ, tôi
và đồng chí, chưa chắc ai trung kiên hơn ai”. Anh ta độp
lại ngay: “Anh nói anh trung kiên hơn tôi hả. Ha, ha, tôi
rán sống để xem anh trung kiên với cách mạng hay với
quân thù”. Hôm đó anh giận đến uất người. Anh thề
theo cách mạng đến cùng, sẽ cố gắng được đảm
nhiệm một chức vụ cao và hi vọng gặp lại đồng chí
công an đó.
Bỗng dưng, Minh ngồi thẳng dậy,
hỏi Tân bằng giọng hơi đổi khác:
- Em có biết tại sao anh kể
chuyện vượt ngục xưa cũ của anh cho em nghe không?
Tân lắc đầu:
- Không.
Anh nói tiếp:
- Anh theo cách mạng từ năm 1945,
đến nay được mười một năm rồi, trải qua biết bao
chặn đường gian khổ, nhưng riêng cái chuyện vượt
ngục, gián tiếp làm liên lụy đến thằng em vợ làm cho
anh mỗi lần nhớ tới là còn thấy xúc động như chuyện
vừa xảy ra vài hôm trước. Đó có lẽ là kỷ niệm sâu
nhất trong cuộc đời làm cách mạng của anh. Từ sáng
đến giờ chính chuyẹn vượt ngục của hai đồng chí ở
phòng B làm sống lại kỷ niệm đáng buồn đó. Anh biết
họ dự định vượt ngục từ gần một tháng nay rồi.
Anh đã ngăn mà không được.
Tân sửng sốt:
- Trời đất, anh biết trước à.
Minh gật đầu:
- Em hãy tuyệt đối giữ kín
chuyện nầy. Hiện nay trong các phòng giam anh em mình, có
hai khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất có tính
chất bạo động như vượt ngục hay phá ngục. Khuynh
hướng thứ hai thì bất bạo động, chủ trương đấu
tranh chính trị, tuyệt thực để gây tiếng vang ra bên
ngoài.
- Em chẳng thấy khuynh hướng gì
cả trong anh em mình. Hầu hết cố gắng chịu đựng để
chờ ngày được trả tự do.
- Em không thấy là phải vì hai
khuynh hướng mà anh nói chỉ thuộc về nhóm nồng cốt,
một số ít người trong anh em mình nhưng lại là những
người quyết định đường lối đấu tranh trong trại và
lôi cuốn đa số còn lại đi theo. Khuynh hướng bạo động
còn được gọi là khuynh hướng quân sự vì những người
chủ trương thuộc các lực lượng vũ trang trước đây.
Họ không ngại đổ máu, thích hành động ồn ào hơn là
ngồi rỉ rả vận động hay giải thích cho từng người.
Khuynh hướng không bạo động còn được gọi là khuynh
hướng chính trị là thuộc về các đồng chí trước đây
là cán bộ chính quyền hay đoàn thể. Họ chủ trương
tranh đấu không đổ máu.
- Hiện nay trong trại chúng ta,
khuynh hướng nào mạnh hơn?
- Khuynh hướng chính trị mạnh
hơn. Các đồng chí bí thư hiện nay và trước kia đều
thuộc về khuynh hướng nầy. Tuy nhiên, các đồng chí
cánh quân sự rất cứng đầu, nhất định đòi tổ chức
vượt ngục hay phá ngục dù có bị tổn thất cũng chịu.
Họ cho rằng bên ngoài, địch ráo riết hoạt động, có
quá nhiều cán bộ bị bắt, quá nhiều cơ sở bị phá vỡ
nên cần phải ra để tái lập hay củng cố lại lực
lượng. Các đồng chí phe kia phản đối quyết liệt. Họ
lý luận rằng những người đang bị giam cầm ở đây bị
lộ mặt rồi, trong tình hình hiện nay, nếu có vượt
ngục thành công đi nữa ra ngoài cũng trốn chui trốn nhủi
một cách khó khăn, nói gì đến chuyện hoạt động trở
lại. Trước đây, vượt ngục ra thì chui vào chiến khu
là an toàn. Bây giờ, chiến khu đã bị giải tán theo hiệp
định Genève thì ẩn núp vào đâu?
- Cánh quân sự có chịu bỏ ý
định vượt ngục hay phá ngục không?
- Không, họ nhất định phải
thoát ra ngoài trước đã, mọi việc tiếp theo sẽ tính
sau. Anh biết trước họ sẽ làm theo ý họ mà không cần
đến ý kiến của lãnh đạo.
- Và đêm vừa rồi họ đã hành
động.
Minh mỉm cười:
- Đúng là hai đồng chí thuộc
nhóm quân sự chứ không ai khác.
- Theo anh thì hai anh đó có thoát
được không?
- Có lẽ thoát được nhưng thoát
được trong bao lâu? Điều lợi hay bất lợi sau nầy thì
chưa ai biết nhưng nội cái việc họ vượt ngục thành
công chắc chắn sẽ khuyến khích những người khác hành
động theo họ.
- Và thế là cánh chính trị các
anh có việc để làm rồi.
Minh ngạc nhiên:
- Em muốn nói gì vậy?
- Anh bảo rằng sẽ có nhiều vụ
vượt ngục tiếp tục, vậy là nhà tù có cớ để siết
chặt sinh hoạt của anh em mình và lãnh đạo có lý do để
phát động đấu tranh theo đường lối chính trị của
các anh.
Minh cười:
- Đúng vậy. Chú mày lý luận
khá lắm. Anh hỏi chú mày nói thiệt cho anh nghe. Chú mày
có muốn đi không?
- Có, muốn đi lắm chứ nhưng
không phải đi vượt ngục mà đi xuống nhà bếp làm
việc. Bị nhốt trong phòng thế nầy tù túng, bực bội
lắm.
Minh cười to:
- Thôi rán chịu đựng cho hết
ngày hôm nay. Anh nghĩ rằng họ chỉ nhốt chúng ta một
ngày để dằn mặt và gọi là có biện pháp trừng phạt
để báo cáo lên cấp trên. Họ chẳng muốn nhốt chúng
ta lâu đâu vì cũng ngại gây phẫn uất trong tập thể
tù. Nổ ra đấu tranh thì cũng phiền phức cho họ lắm.
Câu chuyện chấm dứt. Ngay ngày
hôm sau, sinh hoạt trở lại bình thường. Buổi sáng, cửa
phòng mở toang. Sau khi điểm danh xong, mọi người đều
được ra khỏi phòng, được thoải mái hít thở không
khí trong lành của buổi bình minh. Một số ra sân tập
thể dục, một số khác lân la đến phòng B để hỏi tin
tức hai người vượt ngục. Quả đúng như lời anh Minh,
hai người ra đi đều là lính trinh sát trong quân đội
Việt minh trước đây. Trong cơn mưa to, họ đã chui ra
khỏi phòng, làm vỡ được bóng đèn ở hàng rào và vạch
kẽm gai bò ra ngoài đi mất.
Cũng quả như lời anh Minh tiên
đoán, vụ vượt ngục thành công dễ dàng nầy kích thích
lòng ham muốn tự do nơi nhiều người khác. Nửa tháng
sau, hai người khác mưu vượt ngục nhưng không thành. Nhà
tù đã đề phòng, tăng thêm các toán tuần tra. Hai người
bò đến gần hàng rào thì bị phát giác. May cho họ là
lính không bắn chết tại chỗ và chỉ bắn lên trời để
báo động. Lập tức hai người bị bắt, còng tay nhốt
vào xà lim, sáng hôm sau giải về Sài gòn. Từ đó anh em
không biết tin tức về họ nữa.
Bước vào tháng mười hai, mùa
mưa đã chấm dứt, không khí cuối thu mát mẻ dễ chịu,
vườn rau xanh um phủ kín các luống đất trong khu canh
tác. Trên sân vận động, trên đường đi, mặt đất khô
ráo và sạch sẽ nên mỗi buổi chiều sau bữa cơm, rất
ít người vội vào phòng. Hầu hết ở bên ngoài để tận
hưởng khoảng không gian tương đối rộng rãi, trong những
giờ phút cuối cùng của một ngày trước khi bị nhốt
vào trong phòng giam đã có quá đông người.
Từ nhiều tháng nay, chỉ có một
chuyến tù ra hải đảo còn tù ở khám Gia định thì được
đều đều đưa lên hàng tháng. Số tù trong phòng trở
nên quá đông, gấp bốn, gấp năm lần so với lúc Tân
mới bị giải lên đây. Hai bệ xi măng dùng làm giường
nằm không còn đủ chỗ, người ta xếp lớp nằm dưới
đường đi, người ta ngủ trên những cái võng căn từ
vách nầy sang vách kia. Không khí trong phòng trở nên ngột
ngạt và vô cùng ồn ào làm cho tinh thần mọi người
thường xuyên căng thẳng, khó giữ được sự hòa thuận
với nhau. Thỉnh thoảng xảy ra xô xát giữa hai người.
Lập tức cả phòng đều náo động. Người ta la hét, ngã
đè lên nhau, đồ đạc đổ ngổn ngang. Cảnh hỗn loạn
chỉ chấm dứt khi giám thị mở cửa vào, theo sau là hai
người lính, súng cầm tay. Hai người đánh nhau bị còng
tay đem biệt giam ở trại kỷ luật trong vài hôm và bị
phạt ăn cơm với muối. Biện pháp khá cứng rắn nầy
làm cho tù cố gắng tự kìm chế, nhờ đó trật tự
trong phòng được duy trì một cách tương đối.
Có lẽ hoàn cảnh nầy đã thúc
đẩy nhóm quân sự cương quyết hành động và nhóm chính
trị cũng không màng phản đối nữa.
Một buổi chiều, trời thực
đẹp, Tân cùng mấy anh em khác dọn dẹp chén bát và rửa
bàn ăn xong, nhưng cậu chưa vội về phòng. Như thói quen
hàng ngày, cậu đến ngồi trên thành giếng ngắm nhìn
bầu trời trong xanh với nhiều cánh cò trắng tha thướt
bay về tổ. Từ hướng văn phòng, tiếng nhạc, tiếng ca
hát vọng xuống nghe vui tai. Tân biết đó là tiếng hát
do đài phát thanh Sài gòn phát ra qua hai chiếc loa đặt
hai bên văn phòng. Mỗi buổi nhiều đều có chương trình
ca nhạc và có rất nhiều tù nhân ngồi thưởng thức.
Bỗng Tân giật nẩy người khi
nghe nổi lên tiếng la ó ồn ào. Tiếng la to cho đến đổi
át cả tiếng ca nhạc trong loa. Cậu bật dậy, chạy ra
đầu sân vận động trố mắt nhìn lên. Cậu thấy một
đám đông đang chạy ào ra cổng. Cậu sửng sốt trong vài
phút rồi chợt hiểu. Một làn sóng tù đang vượt ngục
tập thể dưới ánh sáng buổi chiều khi màn đêm chưa
xuống.
Tân phóng chạy về phía đó.
Tiếng la bỗng nín bặt khi tiếng súng vang lên chát chúa.
Tân dừng lại, nhào xuống nằm mọp, mặt úp trên đất
khô ráo. Súng tiếp tục nổ một lúc rồi ngưng một cách
đột ngột. Tân ngóc đầu dậy, căng mắt ra nhìn, thấy
trước sân, người ta tiếp tục chạy ào ào ra cổng. Cậu
bật đứng lên, phóng tới trước. Cậu cố chạy nhanh
hơn, băng qua sân vận động, băng qua hai trại tù, định
nhập vào làn sóng người đang phóng như điên như cuồng
ra đường lộ.
Bỗng tai cậu bùng lên, màng nhĩ
như rách tung vì tiếng nổ chát chúa. Tiếng súng liên
hồi, tiếng súng từ hai vọng gác ở hai đầu sân cùng
lúc gầm lên. Cậu thấy trước mặt, nhiều người ngã
xuống giãy giụa. Hoảng kinh, cậu nhào xuống cái mương
cạn dùng dẫn nước mưa, úp mặt xuống đáy mương vài
giây rồi ngóc đầu lên. Súng vẫn nổ giòn, đạn xỉa
xuống mặt đất tung bụi mịt mù. Trên sân, nhiều người
ngã xuống quằn quại, tiếng la tiếng thét đau đớn hòa
cùng tiếng súng. Xuyên qua làn bụi mỏng trắng đục, cậu
nhìn thấy hai cánh cổng to đóng kín, phía trong một số
người khá đông nằm mọp chồng chất lên nhau thành một
đống.
Súng ngưng nổ. Cánh cổng hé mở,
vài người vọt ra đường, nhưng súng lại nổ vang, những
người vừa chạy ra gục xuống, số còn lại vội quay
lui phóng về phía các phòng giam. Khi họ băng qua sân thì
một loạt đạn rải xuống làm cho nhiều người ngã lăn,
nằm chồng lên những xác có sẵn.
Tân bỏ ý định chạy ra cổng.
Cậu nhìn về phía phòng giam của mình và nghĩ rằng bên
trong là nơi an toàn nhất hiện giờ. Cửa phòng tuy còn mở
nhưng bị một đống người bịt kín. Ai cũng muốn chui
vào nhưng không được; cửa quá nhỏ mà người thì lại
quá đông. Họ nằm mọp không dám ngóc đầu dậy khi súng
vẫn nổ giòn và những viên đạn vẫn tung bụi mịt mù
ngoài sân.
Súng ngưng nổ nhưng đống người
trước cửa phòng giam vẫn nằm im không dám nhúc nhích.
Tân thu hết can đảm rời đường
mương, lết qua con đường, tim đập thình thịch như
trống làng. Cậu nhỏm dậy, lom khom chạy tới và nằm ẹp
phía sau người ngoài cùng trong số những người đang bít
cửa phòng giam. Cậu ngóc đầu dậy nhìn ra sân. Những
xác người nằm rải rác im lìm. Cậu nhìn thấy rõ những
vũng máu loang trên mặt đất. Có lẽ họ chết cả rồi.
Bỗng có tiếng thét rùng rợn
vang lên:
- Bọn khốn nạn, bọn cộng sản
khốn nạn, tao giết hết tụi bây.
Tân nhìn ra sân thấy viên giám
thị trưởng như một hung thần. Mặt đỏ gay, hắn vừa
chạy vừa rống như một con dã thú. Tay cầm cây súng
lục, hắn lên đạn bắn vào mấy cái xác trên sân. Ba
tiếng nổ khô khan vang lên, những cái xác vẫn nằm yên
bất động. Hắn đưa súng lên trời, xoay một vòng, la
hét như một kẻ điên cuồng. Hắn dừng lại, quay súng
về phía cửa trại, tiếp tục hét như một thằng điên:
- Giết, tao phải giết cho tụi
bây chết hết!
Tân nhìn thấy họng súng tròn
vo, đen ngòm trên tay hắn chĩa thẳng về phía mình. Cậu
bật lên như một cái lò xo, phóng bò nhanh qua đầu những
người nằm phía trước, chui qua khung cửa và lọt vào
phòng. Mọi người cũng vội vàng phóng vào theo.
Tân bình tĩnh lại dần dần. Cậu
nghe những tiếng la to bên ngoài. Đó không phải là những
tiếng thét của tù mà là những tiếng hô của lính, của
giám thị lẫn với tiếng chân chạy rầm rập.
Cánh cửa phòng đóng sầm lại,
liền theo là tiếng khóa lách cách. Tân lết về chỗ nằm
của mình, mệt mỏi rã rời. Cậu nhắm nghiền mắt,
trong đầu lại diễn ra khung cảnh mà cậu vừa chứng
kiến, tiếng súng nổ giòn, thây người rải rác trên
sân, họng súng đen ngòm của viên giám thị chĩa thẳng
vào mặt cậu…. Sau đó tên hung thần có bóp cò hay
không? Cậu không biết. Cậu chỉ nhớ rằng, trong nỗi
hoảng hốt cùng cực, bản năng sinh tồn đã làm cho đôi
chân nhanh lạ thường, giúp cho cậu phóng tuột vào phòng
qua rất nhiều cái đầu của những người nằm bít lấy
cửa.
Tân nằm yên, mắt nhắm nghiền,
tinh thần kiệt quệ. Bên ngoài, lao xao tiếng nói, tiếng
la hét, tiếng người gọi nhau, tiếng bước chân đi vội
vã. Người ta đang làm gì ngoài đó? Có lẽ đang thu dọn
chiến trường. Những người trúng đạn trên sân có ai
còn sống sót không? Có bao nhiêu người đã thoát ra được
bên ngoài? Có bao nhiêu người ngã gục trên con đường
phía trước?
Đầu óc cậu quay cuồng trong nỗi
đau đớn cùng cực. Cậu hình dung những người đã ra đi
và không bao giờ trở lại và những người không may
trúng đạn mãi mãi nằm xuống và không bao giờ còn thấy
ánh mặt trời. Họ không phải là những người thân
thiết với cậu nhưng họ đã sống chung với cậu trong
bao nhiêu ngày, ra vào thấy nhau, cùng ngồi bên nhau trong
những bữa cơm tù đạm bạc, cùng hít thở chung bầu
không khí nồng nặc hơi người. Nỗi đau làm cho cơ thể
cậu như trở nên tê liệt và bất động.
Một lúc sau, có tiếng xe hơi
dừng lại trước cổng, tiếng rít quen thuộc của hai
cánh cửa cổng. Tân mở mắt. Đèn trong phòng đã bật
sáng có lẽ từ khá lâu rồi. Duới ánh sáng vành vọt,
cậu thấy trong phòng có khá đông người nhưng hoàn toàn
im lặng, kẻ nằm người ngồi không ai nói với ai một
câu nào. Cậu nhìn dọc theo hai bên vách. Tất cả cửa sổ
đều đóng kín không biết tự bao giờ. Ở hai cửa sổ
đầu tiên nhìn ra sân, lố nhố nhiều cái đầu châu lại
nhìn qua khe hở. Cậu nhận ra được anh Minh trong số đó.
Cậu bò dậy, đi về chỗ anh Minh đang đứng, định tìm
cách nhìn ra ngoài nhưng không còn một khe hở nào nữa.
Cậu đứng sau lưng Minh, khẽ chạm vào vai, gọi nhỏ:
- Anh Minh.
Anh quay lại, mừng rỡ:
- Tân, em còn đây à? May quá, anh
cứ lo cho em.
- Họ đang làm gì ngoài đó?
Miệng anh mếu lại, giọng thì
thào rên rỉ:
- Họ quăng xác anh em mình lên
xe, không biết có ai còn sống hay không.
Nói xong, anh quay lại tiếp tục
nhìn qua khe. Tân cố nén hơi thở dồn dập để hỏi
tiếp:
- Anh thấy nhiều hay ít?
Minh trả lời nhưng không quay
lui:
- Trên sân có trên hai mươi
người. Bên ngoài cũng có người bị trúng đạn. Họ
đang khiêng xác vào để đưa lên xe.
Tân cảm thấy tai cậu ù đi. Cậu
tiếp tục hỏi:
- Ngay cổng có xác anh em mình
không? Khi súng nổ dữ dội, em thấy có rất nhiều anh em
đứng túm tụm trong hai cánh cửa bị đóng kín.
Minh quay hẳn lại:
- Đúng, anh cũng thấy rõ như
thế. Nhưng may mắn là nơi đó kín đáo vì nằm giữa hai
dãy nhà, một bên là kho súng và phòng gác cổng, bên kia
là nhà thăm nuôi, vì vậy, đạn chỉ bắn được vào
khắp sân mà không bắn vào nơi đó được.
- Nhưng tại sao một số đông bị
chận lại tại đó? Lúc ở dưới bếp mới chạy lên, em
thấy hai cánh cổng đang mở rộng, anh em đang chạy tuôn
ra thì bỗng cửa đóng ập lại? Có lẽ, người giám thị
nào đó chạy ra phải không?
- Không phải. Lúc đó toàn bộ
giám thị trốn hết, nếu đứng đó là chết ngay, dù anh
em chỉ có ý định vượt ngục chứ không có ý định
làm hại nhân viên nhà tù. Nhưng thôi, em về chỗ nằm đi
để anh xem tiếp. Chốc nữa, anh sẽ kể cho em nghe, anh
chứng kiến ngay từ đầu.
Nói xong, Minh quay lại chăm chú
nhìn vào khe hở.
Tân ngồi xuống tại chỗ, thẫn
thờ nhìn suốt bề dọc phòng giam. Cậu ước lượng số
người còn khoảng phân nửa trước đây và đó vẫn là
số khá lớn trong một gian phòng từ lâu đã trở nên quá
chật chội. Sự im lặng lạ thường làm cho mọi người
ngột ngạt, tuy nhiên không ai có can đảm gây nên một
tiếng động để phá tan sự im lặng đó. Có chăng chỉ
là tiếng rì rầm bàn tán, xen lẫn với những tiếng thở
dài não ruột. Trong sự im lặng nặng nề, những tiếng
động bên ngoài vọng vào nghe thực rõ ràng. Tiếng người
nói, tiếng la hét, tiếng máy xe rú lên từng chặp.
Tân cố lấy lại bình tĩnh, quan
sát những người chung quanh để mong biết được ai còn
ở lại và ai đã vĩnh viễn ra đi. Cậu nhận ra nhiều
người ở những phòng khác. Cậu hiểu rằng, khi súng nổ,
những người nầy không kịp chạy về phòng mình.
Có tiếng rổn rảng của khoá
phòng giam, và lập tức cửa mở toang. Hai người lính
đồng loạt xông vào, súng cầm tay chĩa về phía trước.
Đám tù hoảng hốt vùng dậy, kẻ đứng người ngồi,
tất cả chết trân, miệng há hốc, mắt thất thần nhìn
sững hai họng súng đen ngòm hướng thẳng về phía mình.
Tất cả cùng chung ý nghĩ về một sự trừng trị ghê
gớm bắt đầu. Những cây súng kia sắp nhả đạn và xác
của họ sẽ được mang ra quẳng vào những chiếc xe đang
đậu ngoài kia.
Nhưng không, một viên giám thị
bước vào gọi những người thuộc các phòng khác đi ra
và đưa vào số người của phòng nầy. Công việc sắp
xếp cho tù nhân trở về đúng phòng mình diễn ra suôn sẻ
và nhanh chóng. Sau khi giám thị điểm danh xong, hai cánh
cửa đóng sầm và khóa lại.
Trong phòng tiếng nói ồn ào bắt
đầu trở lại. Mọi người hiểu rằng biến cố đến
đây tạm chấm dứt. Anh em bắt đầu kiểm điểm lại
bạn tù của mình xem ai ở, ai đi. Người ta bàn tán xôn
xao cho đến khi đèn chớp ba lần báo hiệu giờ ngủ như
thường lệ.
Suốt đêm, có nhiều tiếng thét
to vì ác mộng đến với nhiều người trong phòng giam.
Một lần, Tân thức giấc và không ngủ lại được. Cậu
thao thức nhớ lại cảnh khủng khiếp vừa qua. Cậu nằm
im, lắng tai nghe. Không có một tiếng động nào trong đêm
đang lắng sâu.
Cậu ngồi dậy nhìn quanh. Tất
cả đều ngủ say. Không khí trong phòng ngột ngạt vì tất
cả cửa sổ đều đóng kín tự đầu hôm. Cậu rón rén
đứng dậy đi về phía hai khung cửa sổ trông ra sân
trước. Ở đó có một khoảng khá rộng vì mấy người
nằm ở đây đều đã đào thoát cả rồi. Cậu cẩn thận
bước lên, ghé mắt vào khe hở. Ánh đèn vàng từ bốn
phía rọi gần khắp mặt sân. Nhiều vũng máu đen ngòm
rải rác trên mặt đất nhạt màu. Một ngọn gió thổi
qua, lá cây xào xạc rơi xuống, chạy dài trên sân rồi
nằm yên bên những vũng máu.
Tân rùng mình, lòng tràn ngập
nỗi sợ hãi lẫn bi thương. Cậu thở dài, lặng lẽ trở
về chỗ nằm và tiếp tục thao thức cho đến khi có hiệu
đèn báo thức và điểm danh.
Mọi người vội vàng ngồi dậy,
xuống sắp hàng trên đường đi. Như thường lệ, giám
thị mở cửa phòng đi vào. Điểm danh xong, ông nói lớn:
- Kể từ hôm nay, các anh bị
phạt ở lại phòng không được ra ngoài. Ba bữa ăn có
người đem đến tại phòng. Mỗi ngày, mỗi người được
lãnh ba lon nước để uống và rửa ráy. Trong những ngày
bị phạt, các anh phải giữ trật tự cho đàng hoàng, đồ
đạc xếp đặt gọn gàng. Ai vi phạm sẽ bị nhốt trại
kỷ luật, các anh nghe rõ chưa?
Một giọng nói dõng dạc vang lên
ở cuối hàng:
- Tôi xin nói.
Mọi người đồng loạt quay lui
nhìn. Đó là anh Ninh ở cuối phòng. Viên giám thị nhìn
anh mày nhíu lại, tỏ vẻ khó chịu:
- Đại diện đâu? Chỉ có đại
diện mới có quyền phát biểu ý kiến.
- Thưa giám thị, anh Ty đại diện
đi mất chiều hôm qua rồi.
Nét giận dữ thoáng qua trên mặt
viên giám thị. Ông ta cố kìm chế:
- Thôi được rồi, anh nói đi, ý
kiến gì?
- Xin giám thị cho biết chúng tôi
bị phạt giam bao nhiêu ngày. Trong những ngày bị phạt,
xin cho mở cửa sổ vì đang là mùa nắng.
Viên giám thị gật gù:
- Phạt bao nhiêu ngày thì chưa
biết được vì tùy thuộc cấp trên và tùy thuộc công
việc điều tra chuyện bậy bạ mà các anh làm vừa rồi.
Còn việc mở cửa sổ, tôi chấp thuận. Tôi sẽ xin lệnh
giám đốc cho mở cửa sổ tất cả các phòng.
Nói xong, ông quay lui, ra khỏi
phòng và khóa cửa lại.
Sau khi giải tán, Tân đến ngay
chỗ nằm của anh Minh. Cậu nóng lòng muốn biết thêm
những chi tiết của cuộc vượt ngục tập thể vừa qua.
Chính anh Minh đã nói với cậu rằng anh chứng kiến từ
đầu. Vì thế cậu vào đề ngay:
- Lúc anh em chạy tuôn ra cổng
thì anh đang ở đâu?
- Anh đang ngồi trước phòng để
nghe nhạc và chứng kiến từ đầu đến cuối. Có lẽ ở
đây, anh là người duy nhất trông thấy ngay từ những
giây phút đầu tiên; tất cả các người khác ngồi chung
với anh đều đã phóng chạy và thoát cả rồi.
- Tại sao anh không chạy ra với
họ?
Minh mỉm cười:
- Từ nhiều ngày trước, anh biết
chuyện nầy sẽ xảy ra. Nhóm quân sự nhất định làm mà
không cần thông qua tập thể lãnh đạo. Nhờ biết trước
nên anh đủ bình tĩnh không bị lôi cuốn vào cơn lốc
đó. Anh biết vượt ngục một số đông như thề nầy
thì rất nguy hiểm, khó mà lẫn tránh cơ quan an ninh của
địch được.
Thấy anh dừng lại và thở dài,
Tân nói:
- Anh kể cho em nghe từ đầu đi.
Minh gật đầu:
- Chiều hôm qua, như thường lệ,
có nhiều anh em ngồi hai bên hông văn phòng để nghe nhạc.
Bỗng trong đám đông, có một anh đứng dậy. Rõ ràng là
anh Định trong phòng mình, em có biết không?
- Biết, anh ấy nằm ở gần cuối
phòng. Em nghe nói trước đây anh Định là đại đội
trưởng của một tiểu đoàn chính quy phải không?
- Đúng rồi. Chính anh ấy. Định
đứng dậy, cầm một cái áo màu nâu cuộn tròn trong tay,
quăng thực mạnh ra giữa sân đến gần cột cờ. Nhiều
người trông thấy phóng ra tức thì. Một số xông vào
kho súng và chạy ra với khẩu súng trên tay. Anh thấy rõ
lúc đó cửa kho súng đang khép hờ, có lẽ lính vừa lãnh
xong về các vọng gác nên người thủ kho chưa kịp khóa
cửa. Một số khác chạy đến kéo chốt cổng, mở toang
hai cánh cửa vào trong.
- Họ có la hét gì không?
- Không, tuyệt đối không. Họ
im lặng, hành động cực kỳ nhanh nhẹn và thuần thục
như đã tập dượt trước nhiều lần. Chắc chắn trong
số nầy có nhiều trinh sát chuyên công đồn trong thời
kỳ đánh nhau với Pháp.
- Nhưng em có nghe nhiều tiếng la
to lắm mà. Lúc đó em đang ở dưới bếp và nghe rõ mồn
một.
- Đó là tiếng la của số đông
anh em mấy phút sau đó, còn số chủ mưu thì hoàn toàn im
lặng. Toán xông vào kho lấy được súng chạy ra và băng
qua cổng.
- Không có ai ngăn cản cả à?
Anh không thấy giám thị hay lính gác ở đó sao?
- Không ai ngăn cản cả. Nếu có
thì chắc chắn đã xảy ra xô xát. Anh chẳng thấy xô xát
gì cả. Có thể, lúc đó cũng có nhân viên của nhà tù
tại cổng, nhưng vì anh em mình hành động quá đột ngột,
họ không kịp phản ứng nên đã chui vào một góc nào đó
để trốn. Đó cũng là điều may, vì nếu có giám thị
hay lính bị sát hại thì chắc chắn sự trừng phạt nặng
nề hơn sẽ trút lên đầu anh em mình còn ở lại đây.
- Thế còn hai vọng gác phía
trước sát với đường lộ? Không lẽ lính trên đó cũng
bỏ trốn sao?
- Không, lính vẫn còn trên đó
vì hai vọng gác nầy là hai lô cốt khá kiên cố, lại ở
xa cổng nên anh em lo băng qua đường, chứ không đến đó
làm gì. Tuy nhiên, cánh quân sự của mình đã tính toán
rồi. Họ vô hiệu hóa ngay hai vọng gác đó.
- Bằng cách nào?
- Anh thấy rõ, trong những người
vào kho cướp súng chạy ra, có một người vác cây trung
liên, người chạy sau ôm nhiều băng đạn. Vài phút sau,
súng nổ giòn giã, những tiếng súng trường xen lẫn
nhiều loạt đạn liên thanh. Anh nhận ra ngay tiếng súng ở
ngoài bắn vào, khác xa với tiếng súng từ vọng gác bắn
xuống về sau. Anh nhìn lên một lô cốt thấy rõ ràng đạn
bắn vào khối bê tông làm bụi tung lên. Các anh mang những
cây súng cướp được trong kho chạy qua bên kia đường
đến bãi đất trống, bố trí lại bắn vào hai vọng gác
để yểm trợ cho anh em mình chạy ra.
- Đúng rồi, ở dưới bếp, em
có nghe những loạt súng đầu tiên chát chúa lắm. Đó là
những loạt đạn của anh em mình từ ngoài bắn vào. Sau
đó những tiếng súng nầy im bặt. Vài phút sau, tiếng
súng lại vang lên nhưng khác với tiếng súng ban đầu.
- Em còn bình tĩnh để phân biệt
được tiếng súng như thế là khá lắm. Quả thực, tiếng
súng ban đầu là của anh em mình bắn vào hai vọng gác,
khoảng mươi loạt đạn là ngưng. Có lẽ anh em chỉ tính
bắn yểm trợ bao nhiêu đó thôi là đã đủ thì giờ cho
những người thoát ra băng qua miếng đất hoang. Vào đến
xóm bên trong là an toàn rồi, địch không dám bắn theo vì
có nhiều nhà thường dân trong đó.
- Nhưng lúc đó vẫn còn nhiều
người chạy ra, tại sao những tay súng không nằm lại
yểm trợ tiếp?
- Không, những người thuộc cánh
quân sự đã thoát cả rồi. Những người theo sau không
thuộc về cánh nầy, họ không cần biết đến. Vả lại,
họ làm sao có đủ đạn để nằm yểm trợ cho toàn thể
tù trong trại chạy ra ngoài. Vài phút sau, khi tiếng súng
bên ngoài ngưng thì lính trên hai vọng gác mới hoàn hồn,
ngóc đầu dậy và xả súng bắn vào những người đang ở
trên sân, những người đang băng qua đường đến khu đất
hoang. Trên sân có người trúng đạn gục xuống. Đám
đông la hét như điên cuồng, đồng loạt phóng đến cổng
xô đẩy nhau làm hai cánh cổng đóng lại. Người ta cố
mở cánh cổng hé ra, vài người thoát ra nhưng bị bắn
gục trên đường nhựa. Đám đông bên trong cổng hoảng
hốt quay trở vào và nhiều người ngã gục khi băng qua
sân rộng.
Minh ngừng nói, buồn bã cúi đầu
nhìn xuống nền xi măng:
- Anh biết trong số họ, nhiều
người không có ý định vượt ngục và bị bắn chết
một cách oan uổng. Như cậu Thí chẳng hạn. Em biết Thí
chứ?
- Có phải anh Thí nằm kế bên
anh, khoảng hai mươi lăm tuổi, có cái thẹo trên trán
phải không?
- Đúng rồi. Thí hiền lành, ít
nói và rất dễ thương. Nó làm thợ sửa máy ở Hải
quân công xưởng, mới cưới vợ, đang mong đứa con đầu
lòng thì bị bắt một cách oan uổng.
- Tại sao oan uổng. Bị bắt thì
ai cũng kêu oan, thực ra có oan đâu.
- Phải rồi. Nhưng cái cậu nầy
thì oan thực. Cậu ta bị bắt vì trong cái bao dùng để
đựng cơm trưa mang đi theo ăn mỗi ngày có một tờ
truyền đơn; đúng hơn, đó là một bản hiệu triệu của
Phong trào bảo vệ hòa bình. Chắc em biết rõ phong trào
nầy?
- Biết rõ lắm chứ. Lúc chưa bị
bắt, còn hoạt động cho thành đoàn, tụi em cũng kín đáo
vận động cho phong trào nầy vì đó là một tổ chức
bán công khai.
- Ban đầu là một tổ chức công
khai được thành lập sau hiệp định Genève. Nhưng sau
địch dò biết đó là một tổ chức do ta dựng lên nên
bắt ông trí thức mà ta cho đứng đầu phong trào đem đi
an trí ở Tuy hoà. Từ đó phong trào bị xem là một tổ
chức cộng sản và ai có dính dáng đến tổ chưc nầy
đều có thể bị bắt giam
- Tại sao Thí có tờ hiệu triệu
của Phong trào trong giỏ đựng cơm?
- Không rõ ai đã nhét vào đó.
Mỗi buổi sáng, công nhân vào thì bị xét qua loa nhưng
chiều về thì bị xét rất kỹ để đề phòng ăn cắp
vật dụng đưa ra ngoài. Anh chàng Thí nầy quá lương
thiện nên thảnh thơi ra về mà không cần để ý bên
trong giỏ xách của mình. Nơi Thí làm việc hồi thời Tây
gọi là Ba son, nay đổi thành một cơ xưởng của Hải
quân. Đó là một nơi quan trọng của quân đội miền
Nam, được giữ gìn rất cẩn thận nên tờ truyền đơn
trong giỏ xách đủ đưa Thí vào Catinat, qua Gia định rồi
đến đây như anh em mình. Thí thường than thở với anh
rằng cậu ta bị oan, đôi khi tỏ ra oán trách cách mạng
đã đưa cậu ta vào tù. Có lần cậu ấy gọi người
nhét tờ truyền đơn vào giỏ xách để gây họa là một
tên Việt cộng bẩn thỉu.
Tân cười khì. Minh cũng cười
gượng và nói tiếp:
- Thí bảo rằng vợ nó đã có
mang và đứa con đầu lòng là điều mơ ước rất tha
thiết của hai vợ chồng. Nhưng đứa bé không ra đời
được vì vợ Thí bị sẩy thai sau khi chồng bị bắt, có
lẽ vì quá xúc động. Hôm kể chuyện đó với anh, cậu
ta nước mắt lưng tròng. Cậu ta bảo rằng, mỗi kỳ thăm
nuôi, vợ đều dặn cố gắng chịu đựng. Ở ngoài, cô
ta vác đơn đi nhiều nơi để xin cho chồng được tự
do; ngày về của cậu ấy đang đến rất gần. Thế mà
cậu ấy đi mất rồi. Tội nghiệp.
Bỗng Minh ngửng lên hỏi:
- Em có để ý thấy Thí thường
mặc cái áo xanh của công nhân hay không?
Tân lắc đầu:
- Em không để ý.
- Nó thường hay mặc áo đó.
Trong những xác chết ở sân, có một cái mặc áo xanh.
Anh cố nhìn mà đèn không đủ sáng nên nhận không rõ.
Tội nghiệp! Chết vì vượt ngục trong khi ngày về với
vợ đã gần kề.
Minh ngừng nói, gương mặt của
người cán bộ cộng sản đầy xúc động.
Tân hỏi nhỏ:
- Trong hoàn cảnh đó tại sao
anh Thí lại bỏ chạy.
Minh thở dài:
- Quần chúng đều như những con
cừu của Panurge. Khi bị kích động rồi thì hành động
theo số đông, không còn khả năng suy xét theo lý trí nữa.
Em chưa gặp trường hợp như thế à?
Tân suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Có, em có gặp vài lần, lúc
còn hoạt động bên ngoài. Nhiều học sinh, khi em đến
vận động đi biểu tình thì ngần ngại nhưng khi thấy
đám đông kéo đi thì vội vàng nhảy vào và hô khẩu
hiệu còn to hơn người khác nữa.
Minh cười:
- Mọi người làm chính trị đều
biết điều đó và lợi dụng nó để kích động. Quần
chúng chung quy chỉ là đàn cừu non mà thôi.
- Ngay như em, chiều hôm qua cũng
có tâm lý đó. Từ dưới bếp chạy lên, thấy đông
người ùa ra cổng nên em cũng phóng theo. Nếu súng chưa
nổ và hai cánh cửa chưa đóng lại thì em cũng đã vọt
ra ngoài rồi, giờ nầy chưa biết sống chết ra sao. Anh
thì quá vững vàng, đâu thể nào hành động như cừu non
được, phải không?
Minh gật đầu:
- Lúc đầu thì vững vàng lắm
vì anh đã đoán trước sự việc có thể xảy ra. Anh đã
có nói cho em nghe, cánh quân sự nhất định vượt ngục
dù phải trả giá bằng máu. Anh nghĩ rằng họ sẽ trốn
đi một cách lẻ tẻ vào ban đêm như đã làm. Không ngờ
kế hoạch của họ lại táo bạo đến thế. Vượt ngục
tập thể như thế rõ ràng là quá nguy hiểm và xem thường
tính mạng của đồng chí. Anh cho đó là sự xuẩn động
đáng bị phê bình. Về phần anh, nhờ biết trước ý
định của cánh quân sự và luôn luôn phản đối bạo
động nên khi sự việc xảy ra, anh hiểu ngay và không bị
lôi cuốn vào cuộc. Thế mà, lúc có nhiều người ào ra
và có nhiều tiếng la vang dậy, suýt nữa, anh mất bình
tĩnh dợm chạy theo họ thì những loạt súng nổ vang làm
anh bừng tỉnh.
- Theo anh, tình hình trong nhà tù
những ngày sắp tới sẽ ra sao?
- Chắc chẳng có gì thay đổi.
Người ta sẽ tổ chức canh gác cẩn thận hơn. Anh em mình
sẽ bị nhốt một thời gian trong phòng rồi thôi. Họ
cũng hiểu rằng mình chẳng có tội gì trong việc tổ
chức vượt ngục vừa qua.
Đúng như sự tiên đoán của anh
Minh, tù bị nhốt trong phòng đến gần một tháng. Những
ngày đầu, vài người bị gọi lên văn phòng để lấy
lời khai một cách chiếu lệ, chẳng ai bị đánh đập gì
cả. Hẳn người ta cũng hiểu rằng những người chủ
mưu đã xa chạy cao bay, những người còn lại thì chẳng
liên can gì.
Trong phòng giam, tù nhân trở lại
cười đùa một cách vui vẻ, suốt ngày vùi đầu quanh
những bàn cờ tướng hay ngồi tán gẫu với nhau. Đề
tài của những câu chuyện gần luôn luôn là sự kiện
vượt ngục tập thể vừa qua.
Ngày qua ngày, nỗi khổ bị nhốt
trong phòng tăng lên. Khổ nhất là từ trưa đến chiều
tối. Mái tôn hút nhiệt của ánh nắng mặt trời rồi
dội xuống làm cho không khí trong phòng nóng hâm hấp.
Nước đưa vào phòng không đủ để tắm nên cơ thể mọi
người dơ dáy, mồ hôi nhớp nháp; trên lưng, trên bụng,
trên đùi, những đốm đỏ li ti bắt đầu nổi lên, gây
ngứa ngáy khó chịu. Bệnh ghẻ phát ra, tràn lan nhanh
chóng. Ngày đêm, nằm ngồi hay đứng, hai tay đều bận
rộn, lo gãi khắp nơi trên cơ thể. Tình trạng mỗi ngày
một trầm trọng hơn, sức khỏe anh em suy giảm rõ rệt.
Nhiều người trong đó có Tân đã kiệt lực. Nếu tình
trạng giam cầm khắc nghiệt nầy kéo dài, họ khó lòng
chịu đựng nổi.
May thay, một buổi sáng, giám thị
vào phòng điểm danh và tuyên bố lệnh phạt chấm dứt.
Mọi người reo hò sung sướng. Sau một tháng bị đóng
kín, cửa phòng lại được mở toang sau khi giám thị đi
ra.
Mọi người phóng ra bên ngoài.
Tân cũng chen trong đám đông bước qua ngạch cửa, cảm
thấy choáng váng vì ánh sáng chói chang nhưng cũng cố
gắng đi nhanh thẳng xuống vườn rau, buồn bã nhìn khu
vườn xơ xác, khắp nơi màu vàng úa trông thực thảm
thương. Những vũng máu đen ngòm cách đây một tháng vẫn
còn in đậm trong tâm trí Tân, giờ đây nó hiện lên rõ
rệt hơn bao giờ hết. Cậu gần như phải chạy trở lui
vào phòng, đổ vật xuống nền nhà. Tiếng cười đùa
bên hè nhà cùng tiếng nước dội ào ào vọng qua cánh
cửa mở. Cậu nghĩ đến cái giếng nơi đó, bỗng nhiên
cảm thấy cơn ngứa ngáy nổi lên, thèm thuồng những lon
nước mát dội lên cơ thể đầy ghẻ chóc của mình. Cậu
mở mắt ra ngồi dậy nhưng mặt đất cùng căn phòng và
mọi thứ khác quay vòng không dứt. Dường như một vật
gì rất nặng đè trên ngực Tân làm cho sự hít thở rất
khó khăn.
Cậu cố gắng ngồi dậy, thấy
dễ chịu hơn chút ít. Trong phòng hình như không đủ
không khí. Tân vịn vào bệ xi măng đứng dậy, đi lần
ra cửa. Ánh sáng bên ngoài một lần nữa làm cậu hoa
mắt, rồi bỗng ánh sáng vụt tắt, trời đất tối sầm.
Hơi thở bị đứt đoạn, cậu té xuống nằm dài trên
mặt đất….
*
* *