Tân được anh em khiêng đến
phòng y tế. Sau khi khám cẩn thận, vị y sĩ già bảo rằng
cậu chẳng bị bệnh gì quan trọng mà chỉ bị suy nhược
sau một tháng bị giam cấm cố trong phòng. Ông chích thuốc
và cho thêm mấy viên về phòng và căn dặn cậu phải
nghỉ ngơi để dưỡng sức.
Đó là lần đầu tiên cậu đến
phòng y tế. Trước đây, thỉnh thoảng, cậu có nghe anh
em nói về vị y sĩ già làm việc ở đây. Ông ta là người
Hà nội. Sau hiệp định Genève, ông và vợ di cư vào Nam.
Ông tỏ ra rất căm ghét cộng sản. Nhiều anh em đến
khám bệnh xong được nghe ông chửi rủa cách mạng, vạch
những tội ác của cộng sản mà gia đình ông phải gánh
chịu khi còn ở miền Bắc. Ông gọi những người tù là
những kẻ u mê, tin theo lời dụ dỗ của cộng sản, làm
hại Tổ quốc và đồng bào. Tuy vậy, ông rất tận tâm
với công việc săn sóc bệnh nhân. Thỉnh thoảng, ông còn
đi quan sát nơi ăn chốn ở và đề nghị với giám đốc
nhà tù nhiều biện pháp có lợi cho sức khỏe của tù
nhân. Anh em đồn rằng giám đốc rất nể ông vì tuy giữ
chức vụ tầm thường, chỉ là một y sĩ khám bệnh cho
tù nhân, nhưng ông có vị trí quan trọng trong đảng
chính trị đang cầm quyền ở miền Nam.
Sau vài ngày, sức khỏe của Tân
gần như hoàn toàn bình phục, cậu xuống nhà bếp làm
việc như cũ. Trong các phòng, sinh hoạt trở lại bình
thường; càng ngày, anh em càng ít nhắc nhở đến vụ
vượt ngục tập thể. Biến cố nầy đã dần dà đi vào
quá khứ.
Một hôm đang giờ làm việc, Tân
được gọi lên văn phòng. Viên giám thị bảo với cậu:
- Kể từ hôm nay, chú mày không
phải làm việc ở nhà bếp nữa. Chú mày lên phòng y tế
làm việc với y sĩ Thái.
Tân rụt rè hỏi lại:
- Nhưng tôi có biết gì về việc
săn sóc bệnh nhân đâu.
Viên giám thị khoát tay:
- Không cần hỏi. Cứ đến đó
nhận việc. Không biết săn sóc bệnh nhân thì quét dọn
phòng y tế và làm những việc lặt vặt khác, hiểu chưa?
Thôi, đến trình diện y sĩ nhanh lên. Nhớ sau đó về báo
cho nhà bếp cắt đặt người khác thay thế.
Tân bước vào phòng y tế và cảm
thấy dễ chịu và khá quen thuộc vì tại đây cậu đã
đến chữa bệnh và ông y sĩ đã gây cho cậu nhiều cảm
tình.
Y sĩ Thái ngước lên nhìn cậu,
vẫn với nét mặt nghiêm trang và hiền hậu mà cậu đã
thấy trước đây. Cậu hồi hộp muốn biết ngay công
việc phải đảm nhiệm. Tuy nhiên, ông lấy tay chỉ một
chiếc ghế ở cuối phòng, ngầm bảo cậu đến đó ngồi
đợi vì ông còn bận khám cho ba bệnh nhân, hai nam và một
nữ đang chờ trong phòng.
Sau khi hoàn tất công việc, ông
thu xếp dụng cụ rồi quay sang cậu và nói:
- Tôi đã xem hồ sơ, thấy em là
học sinh trung học đệ nhị cấp trước khi bị bắt vào
đây. Vì vậy, tôi đã xin trung úy giám đốc cho em về
đây giúp tôi.
- Thưa thầy, nhưng mà…
Ông y sĩ khoát tay nói với nó
như lời viên giám thị một giờ trước đây:
- Em muốn nói không có chuyên
môn? Không sao. Công việc mà tôi giao cho em chẳng cần
chuyên môn đâu. Nhiệm vụ của em là thế nầy. Mỗi lần
khám bệnh xong thì tôi kê toa, em vào sổ rồi phát thuốc
cho bệnh nhân. Mỗi cuối tháng, em cộng số thuốc đã
phát ra, đếm số thuốc còn lại trong tủ, đối chiếu
với số tồn lại tháng trước và số mới được cấp
thêm trong tháng. Nếu có điều gì không đúng thì báo cho
tôi biết ngay.
Ông bước đến gần, nhìn thẳng
vào mắt cậu và nói tiếp:
- Tôi tin ở sự ngay thẳng của
em, vì vậy tôi quyết định xin em về làm việc với tôi.
Trước đây cũng có một phạm nhân làm công việc nầy
giúp tôi nhưng anh ta đi rồi.
Tân buộc miệng:
- Dạ, có lẽ đi trong đợt vượt
ngục vừa qua?
- Không, đi trước đó khá lâu,
trong một đợt đưa tù ra hải đảo, cách nay khoảng một
năm. Ngoài đời, anh ta là một tư chức chuyên về kế
toán, nên làm việc rành rẽ, có phương pháp. Không ngờ
sau khi anh ta đi rồi, tôi mới khám phá ra là mất một số
thuốc khá lớn, hầu hết là thuốc trụ sinh đắt tiền
mà tôi rất quý và chỉ dùng vào những trường hợp tối
cần. Tôi biết chắc chính anh ta đã đánh cắp số thuốc
đó, chứ không ai khác.
Tân ngạc nhiên, trố mắt nhìn:
- Ăn cắp đem đi bán?
- Không, bán thế nào được ở
nơi bị giam giữ nầy. Tôi đoán anh ta ăn cắp không để
cho riêng mình vì số lượng thuốc bị mất khá lớn. Anh
ta làm việc xấu xa đó, có thể do sự xúi dục hay đúng
hơn, do chỉ thị của mấy tay tổ cộng sản ngoan cố
dưới các phòng, muốn đưa ra hải đảo mà dùng.
Ông ta dừng lại cười khì:
- Mấy tay cộng sản ngoan cố đó
đâu có biết rằng ở miền Nam hiện nay, nhà tù nào cũng
có phòng y tế với đầy đủ thuốc men, còn dồi dào hơn
số thuốc ở phòng y tế của một vài vùng nông thôn
nữa. Có thể em không tin, nhưng đó là sự thực. Các nhà
tù ở miền Nam phải lo cung cấp đầy đủ lương thực
và thuốc men cho tù nhân đúng theo quy chế của Liên hiệp
quốc. Em ở trong tù nên có lẽ chưa biết nền Đệ nhất
Cộng hòa vừa mới được thành lập nên không muốn mang
bất cứ tiếng xấu nào đối với quốc tế. Cái điều
mà mấy tên ngoan cố tính toán đó, nếu áp dụng cho lao
tù cộng sản ở miền Bắc thì đúng hơn. Tôi biết rõ
điều đó vì em ruột tôi đã từng nếm mùi lao tù cộng
sản và may mắn đã trốn được vào Nam.
Tân hỏi một cách tò mò:
- Về sau thầy có lấy lại được
số thuốc bị mất cắp không?
- Không. Tôi đã suy nghĩ mấy đêm
ròng rã. Nếu tố cáo anh ta thì nhất định chính quyền
sẽ tin tôi và sẽ trừng trị anh ta rất nặng. Tôi không
nỡ làm như thế. Tôi là người công giáo nên không quen
tố cáo người khác. Hơn nữa, nếu câu chuyện bị đổ
bể thì chính tôi cũng bị khiển trách và phải bồi
thường vì lỗi bất cẩn. Số thuốc mất cắp khó mà
thu hồi lại được vì chắc chắn đã bị phân tán cho
nhiều tù nhân và có khi bị vứt bỏ để phi tang một
khi sự việc bị bại lộ. Thế cho nên, tôi đành cắn
răng bỏ qua và vợ chồng tôi mất gần một tháng lương
để đi mua cho đủ số thuốc bị mất cắp trả lại cho
phòng y tế. Từ đó, tôi không dám nhờ ai giúp việc nữa.
Tuy nhiên, phạm nhân mỗi ngày một đông, số người đến
khám bệnh cũng tăng thêm, tôi không thể làm hết mọi
việc nên cuối cùng phải quyết định nhờ đến em. Tôi
phải nói rõ như thế để em thương tôi mà tận tình
giúp tôi. Tôi nhắc lại, tôi kêu gọi lòng ngay thẳng của
em. Tôi tin rằng em đáp ứng với lời kêu gọi đó. Tôi
biết em là người tốt.
Tân hơi ngạc nhiên về lời khen
đó của ông y sĩ nhưng cậu không tiện hỏi lý do.
Kể từ hôm đó, ngày hai buổi,
cậu đến làm việc tại phòng y tế. Công việc nhẹ
nhàng và dễ dàng chứ không khó khăn như cậu lo lắng
lúc đầu. Cậu ưa thích công việc nên tỏ ra cần mẫn
và cẩn thận. Buổi sáng, phòng y tế rất bận rộn vì
có nhiều bệnh nhân. Vị y sĩ già khám bệnh không nghỉ
còn cậu thì ghi chép, gói thuốc và dặn dò người bệnh.
Buổi chiều rảnh rỗi hơn, cậu vẫn loay hoay với sổ
sách, sắp xếp tủ thuốc, quét dọn nhà cửa, lau chùi
bàn ghế. Ông Thái tỏ vẻ rất hài lòng. Ngày lại ngày,
mối cảm tình giữa hai người tăng lên.
Một buổi chiều, anh Minh rủ cậu
ra sân vận động dạo chơi. Anh hỏi thăm những công việc
trên phòng y tế rồi bảo:
- Làm việc trên đó, em phải cẩn
thận lời ăn tiếng nói. Tôi biết y sĩ Thái là một tên
phản động hạng nặng, một tên gián điệp nguy hiểm.
Nói chuyện với nó, em coi chừng nó khai thác những tin
tức về anh em mình.
Cậu miễn cưỡng gật đầu và
nói sang chuyện khác.
Sau hơn hai tuần lễ làm việc
chung, Tân cảm thấy ông Thái chẳng có vẻ gì là nguy
hiểm như lời anh Minh nói. Ngoài cái vẻ nhân từ và tận
tâm của một thầy thuốc, ông có cái nhìn thẳng thắng
và thân mật, lời nói rắn rỏi nhưng chân thành. Vì thế,
cậu rất thích thú khi ngồi nói chuyện với ông lúc rảnh
rỗi. Ông tỏ ra là người từng trải, hiểu biết rộng,
có cách đối xử tế nhị và chín chắn của một người
trí thức, tuy nhiên thỉnh thoảng ông cũng bộc lộ sự
sôi nổi của thời trai trẻ. Trong những câu chuyện, ông
thường lên án chủ nghĩa cộng sản một cách nặng nề,
nhưng bằng lời lẽ thật nghiêm túc. Có lần ông nói với
Tân một cách thân mật:
- Hằng ngày, tôi phải tiếp xúc
với các cán bộ cộng sản sống chung với em ở trong
những phòng giam dưới đó. Tôi rất buồn vì luôn luôn
đọc được sự giả dối trong cái nhìn không ngay thẳng
và trong lời nói dè dặt của họ. Từ khi tôi di cư vào
đây, tôi rất mến đồng bào miền Nam của chúng ta. Họ
hiền như những xóm làng mộc mạc của đồng bằng miền
Tây mà tôi đã sống trước khi về đây. Hầu hết phạm
nhân ở đây đều là dân miền Nam. Tôi muốn gần gũi,
săn sóc, giúp đỡ họ. Nhưng cái hố ngăn cách giữa quốc
gia và cộng sản, nghĩa là giữa tôi và họ hiện nay quá
sâu rộng, không thể nào vượt qua được. Chủ nghĩa
cộng sản đã tạo nên sự chia rẽ và nghi kỵ giữa
những con người với nhau, giữa những đồng bào với
nhau và có khi giữa những người thân trong cùng gia tộc
với nhau.
Ông thở dài và bỗng đổi giọng
hỏi Tân:
- Em có theo đạo nào không?
Tân lắc đầu:
- Không, nhưng cha mẹ cháu theo
đạo Phật.
- Tôi thì theo đạo Thiên chúa.
Tôi tin rằng nhân loại đang bị trừng phạt vì tội lỗi
của tổ tiên mình. Chủ nghĩa cộng sản là một cách
trừng phạt của Thiên chúa. Tôi mong sự trừng phạt sớm
chấm dứt để mọi người lại sống hòa thuận với
nhau, không còn chia rẽ và hận thù như ngày nay nữa.
Tân im lặng ngồi nghe. Cậu không
dám phản đối nhưng trong thâm tâm không đồng ý với
những lời đã kích chủ nghĩa cộng sản quá nặng nề
của ông Thái. Cậu chưa hiểu gì nhiều về chủ nghĩa
nầy nhưng cậu có quá nhiều kỷ niệm đối với những
người cộng sản. Từ hai năm trước, cậu quyết định
không đi theo con đường của họ nữa vì lý do tình cảm
riêng tư chứ cậu chưa bao giờ lên án chủ nghĩa cộng
sản. Đối với những người cộng sản, cậu vẫn còn
giữ gìn rất nhiều cảm tình sâu đậm. Cậu đã có gan
chịu đựng sự tra tấn để bảo vệ cho những đồng
chí cũ. Sau những ngày chịu đựng một cách can đảm,
cậu tự hài lòng với cảm tưởng nhẹ nhàng vì vừa rút
chân ra khỏi một cuộc chơi mà không di hại cho ai, cũng
không chê trách hay nguyền rủa những người bày ra cuộc
chơi đó. Cậu vẫy tay chào, không hẹn ngày tái ngộ
nhưng cũng không đánh mất cảm tình và sự kính phục
đối với họ.
*
* *
Sáng thứ hai, ông y sĩ Thái trở
vào phòng khám bệnh sau một ngày chúa nhật nghỉ ngơi.
Như thường lệ, Tân đã đến từ sáng sớm, lo quét dọn
sạch sẽ và chuẩn bị mọi dụng cụ khám bệnh. Thấy
ông y sĩ bước vào phòng, cậu đứng dậy chào một cách
lễ phép. Mọi ngày, ông chỉ mỉm cười và gật đầu
đáp lễ, nhưng hôm nay, ông tươi cười vỗ vai cậu một
cách thân mật:
- Tôi mới được một tin quan
trọng. Có thể là tin vui cho em. Buổi trưa rảnh rỗi tôi
sẽ nói cho em nghe. Sổ khám bệnh của các phòng đưa lên
chưa?
- Dạ rồi.
- Có nhiều bệnh nhân không?
- Khá nhiều. Có lẽ do thức ăn
ngày hôm qua nên đêm rồi nhiều người bị đau bụng đi
chảy, có người bị ói mửa.
Ông Thái hoảng hốt:
- Vậy sao? Bảo các phòng đem
bệnh nhân lên ngay. Những người ói và đau bụng mang lên
trước. Các bệnh khác khám sau.
Ông bước đến tủ, vừa mở
lấy dụng cụ, vừa càu nhàu:
- Không khéo tin nầy lọt ra
ngoài, người ta lại phao lên rằng tù nhân bị đầu độc.
Bọn cộng sản luôn luôn tìm dịp xuyên tạc và thổi
phồng bất cứ sự việc nào để kích động dân chúng.
Người bệnh lần lượt được
đưa lên. Hai thầy trò làm việc tất bật đến trưa mới
xong. Sau bữa cơm, Tân về phòng nằm nghỉ nhưng không ngủ
được. Cậu chờ đợi tiếng kẻng báo giờ làm việc để
lên phòng y tế chờ xem ông Thái nói tin tức gì mà có
thể là tin vui cho cậu.
Khi cậu bước vào, ông Thái đang
đứng quan sát tủ thuốc. Ông bảo cậu ngồi vào ghế
đối diện và nói ngay:
- Ngày hôm qua, tôi đi họp ở
Sài gòn, được biết bộ nội vụ báo cáo tình hình an
ninh đã khả quan nên chính phủ dự định trả tự do cho
một số lớn tù chính trị.
Tân ngẩng lên, hồi hộp, chăm
chú nghe ông nói tiếp:
- Tôi cho đó là một tin vui cho
em. Chắc chắn trung tâm nầy có một số người được
cứu xét. Theo kế hoạch, chính phủ sẽ trả tự do đợt
đầu tiên cho những người có tội nhẹ nhất. Em hãy
thành thực nói cho tôi biết, lúc bị điều tra ở
Catinat, em có khai gì nhiều lắm không? Có nghĩa là trong
bảng cung khai mà em ký tên, có hành động nào của em có
tính chất nghiêm trọng cho nền an ninh quốc gia hay không?
Tân lắc đầu:
- Không có gì nghiêm trọng. Em
chỉ khai rằng em cùng các bạn khác yêu cầu nhà trường
nơi em đang học đừng tăng học phí, thế thôi.
- Em cũng không khai gì về một
tổ chức của cộng sản như đảng Lao động hay đoàn
Thanh niên gì đó của đảng?
Tân hơi chột dạ khi nghe nhắc
đến đoàn Thanh niên Lao động. Cậu cố giữ vẻ tự
nhiên bằng một nụ cười:
- Không, em không khai điều gì
liên can đến những tổ chức đó.
Ông Thái tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Tôi tin rằng em thành thực với
tôi. Nhưng tôi cũng lấy làm lạ là tại sao người ta kết
thúc hồ sơ khi chưa khai thác gì được nơi em. Tôi có
nghe bảo rằng ở cái bót Catinat lừng danh đó, người ta
thi hành hiệu lệnh: không có thì tra tấn cho có, vô tội
thì tra tấn cho thành có tội. Thế em có bị tra tấn
không?
- Dạ có, nhưng không nhiều lắm
so với những người khác.
Ông Thái gật gù:
- Có lẽ người ta thấy em còn
nhỏ tuổi lại là học sinh nên khinh thường, coi em là
con nít bị bọn cán bộ cộng sản đứng sau lưng xúi dục
chứ chẳng phải là một thành phần quan trọng đáng khai
thác. Vả lại, người ta chẳng có nhiều thì giờ.
- Dạ cháu cũng đoán như thế.
Lúc đó, cháu nghe mấy ông điều tra gọi cháu là oắt
con và bảo nhau kết thúc hồ sơ cho sớm để còn lo cho
những người không phải là oắt con.
Ông Thái cười to:
- Thế thì em có thể được trả
tự do ngay trong đợt đầu tiên. Bây giờ em không còn là
oắt con nữa mà đã trở thành một thanh niên, một thanh
niên tốt, thông minh và chân thật. Em đã làm việc với
tôi được ba tháng rồi phải không? Thời gian đó đủ
cho tôi có một nhận xét về em. Tôi rất tiếc là em bị
đưa đẩy vào con đường xấu xa và ngu dại để phải
dang dở việc học hành.
Ông quay lui, đến ngồi vào ghế
sau chiếc bàn làm việc của mình, lắc đầu tỏ vẻ
thương hại:
- Em còn quá nhỏ để có thể
hiểu tường tận bản chất của cộng sản. Tôi thì hiểu
họ rất rõ, vì đã cùng hoạt động với họ trong thời
gian tôi đã đủ trí khôn để có thể nhận ra điều sai
lẽ đúng. Mười một năm trước đây, nghĩa là sau khi
cách mạng thành công, tôi là một thành phần nồng cốt
của Thanh niên Tiền phong trong huyện nơi tôi sinh ra và
lớn lên. Nếu tôi tiếp tục theo họ thì giờ nầy có
thể tôi đang ngồi trên một chiếc ghế của một chức
vụ quan trọng để tiếp tục gây đau khổ cho đồng bào
miền Bắc của chúng ta. Tôi đã từ bỏ họ vì tôi lỡ
là người có học. Tôi đã đậu tú tài ban triết học
từ trước cách mạng Tháng Tám khá xa. Tôi ghét thực dân
Pháp nhưng không thể nào hợp tác với cộng sản được.
Ông bật cười to:
- Lúc tôi “dinh tê”, tức là
bỏ chiến khu trở về Hà nội để tiếp tục đi học
lại thì một hôm, tôi nhận được một lá thư của một
người bạn từ trong vùng “giải phóng” lén gửi ra cho
tôi. Lời lẽ trong thư mạt sát tôi một cách thậm tệ.
Nào là thiếu trung kiên, mất lập trường giai cấp, thiếu
ý thức trường kỳ gian khổ, đầu hàng tư sản, đầu
hàng địch, vân vân. Cộng sản đổ tất cả rác rưởi
tanh hôi vào bất cứ ai không theo họ đồng thời gắn
vào cho tay sai của họ đủ thứ danh từ hào nhoáng, nào
là yêu nước thương nòi, nào là anh hùng bất khuất, vân
vân, làm cho người ta sung sướng mê ly cho đến khi nhận
ra đó là giả dối thì cũng không có can đảm từ bỏ.
Cũng như người con gái tầm thường, rủi đã được
mang vào những món trang sức rực rỡ thì dễ gì từ bỏ
những món đó được.
Ông chậc lưỡi:
- Người gửi thư là bạn cùng
lớp với tôi. Anh ta cũng là người có học nên tôi tin
rằng ít nhiều cũng thấy được cái sai lầm của cộng
sản nhưng anh không thể từ bỏ con đường đang đi vì
tiếc công lao bấy lâu nay đã đóng góp cho cách mạng.
Cộng sản đã chiếm hết công lao của cách mạng rồi
nên từ bỏ cộng sản là ra đi với hai bàn tay trắng.
Cũng như tôi, anh ấy đã cống hiến cả tuổi thanh xuân
của mình cho cách mạng. Tuổi thanh xuân là tuổi tươi
đẹp nhất của đời người. Không lẽ phí cả tuổi
thanh xuân quý giá đó mà không được hưởng một chút
lợi lộc gì sao? Anh ta tiếc công lao nên ở lại với
cộng sản còn tôi chẳng cần tiếc rẻ gì nên tôi về
với quốc gia. Em nên lấy trường hợp của tôi và của
bạn tôi để suy nghĩ và định cho mình một thái độ
đúng đắn.
Ông ngừng nói vì có vài bệnh
nhân bước vào, người đi đầu cầm cuốn sổ khám bệnh
trong tay. Buổi khám bệnh bắt đầu. Tân vừa làm việc
vừa suy nghĩ vẩn vơ về tin tức trả tự do cho tù nhân
mà ông Thái vừa mới nói xong.
Từ ít lâu nay, cậu đã chán
ngán những ngày bị giam cầm. Cái khu đất nhỏ hẹp nầy
đã giữ chân cậu đến hai năm rồi. Lúc đầu, cậu khá
yên tâm vì cậu nghĩ rằng bị giam cầm tại đây cũng
khá dễ chịu. Đó là cái giá quá thấp so với cái giá
cao hơn nhiều mà cậu chấp nhận để có thể từ bỏ
con đường cách mạng. Tuy nhiên, kể từ vụ vượt ngục
tập thể dẫn đến sự trừng phạt ba mươi ngày cấm
cố, cậu bắt đầu ước muốn đi khỏi nơi đây để xa
rời mảnh sân đã có nhiều xác chết nằm co quắp, xa
rời gian phòng chật chội chứa cả trăm người hôi hám,
mình mẩy đầy ghẻ lở. Nơi đây trở thành nơi mà cậu
phải chịu đựng mỗi lúc một nặng nề thêm.
Cậu tha thiết muốn đi khỏi chỗ
nầy. Nhưng đi khỏi bằng cách nào? Vượt ngục ư? Không
thể được. Chắc chắn, sau biến cố kinh khủng vừa
qua, sự canh gác và đề phòng đã được tăng cường hơn
rất nhiều. Vả lại, từ trước đến nay, cậu chưa từng
có ý nghĩ vượt ngục. Người ta vượt ngục ra ngoài để
tiếp tục phụng sự cho cách mạng còn cậu thì đã quyết
từ bỏ từ hơn hai năm trước và chưa bao giờ có ý nghĩ
quay trở lại.
Cuộc sống lao tù như một con
đường hầm tối đen. Ông Thái vừa chỉ cho cậu thấy
ánh sáng đang lóe lên ở cuối đường hầm kia rồi. Phải
chăng, cậu sắp được hưởng những ngày sống tự do,
muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì tùy ý. Ôi, đó thực
là một điều kỳ diệu. Bao giờ cậu được hưởng điều
kỳ diệu đó?
Người bệnh cuối cùng bước ra
khỏi phòng y tế. Cậu vội vàng cộng số thuốc phát ra
trong ngày rồi ngước nhìn lên. Ông Thái đang thu xếp
dụng cụ vào một cái khay tráng men để trên bàn rồi
loay hoay sửa cái núm nghe của ống thính chẩn mà ông
dùng khám bệnh hàng ngày. Cậu bước sang ngồi vào chiếc
ghế trước bàn. Ông ngước nhìn lên và mỉm cười:
- Em muốn biết thêm tin tức về
việc trả tự do cho phạm nhân, phải không?
Tân gật đầu. Ông nói tiếp với
giọng vui vẻ:
- Tin đó rất chính xác vì do một
giới chức có thẩm quyền nói ra. Em có nhiều hi vọng
nếu hồ sơ của em quả là nhẹ như em đã nói với tôi
trưa nay.
Giọng ông trở nên thân mật:
- Ra tù rồi, em tính làm gì?
Tân lắc đầu:
- Con chưa biết phải làm gì. Cứ
ra khỏi nơi đây trước đã, mọi việc khác sẽ tính
sau.
- Năm nay, em bao nhiêu tuổi?
- Dạ, vừa đúng hai mươi.
- Còn quá trẻ. Em sớm mồ côi
cả cha lẫn mẹ phải không?
Tân ngạc nhiên:
- Dạ phải. Nhưng sao thầy biết?
- Tôi có xem lý lịch của em
trong hồ sơ của văn phòng trước khi xin em đến đây
giúp tôi. Ra tù rồi, em có tính đi học lại hay không?
- Con chưa biết được vì con
không còn ai là bà con thân thuộc để sống nhờ.
Ông Thái nhìn cậu với đôi mắt
cảm động:
- Vậy cũng khó cho em. Tuy nhiên
em cố gắng hết sức để đi học trở lại. Em còn rất
trẻ và thông minh, nếu không học tiếp thì rất đáng
tiếc.
Ông mím môi và nói tiếp:
- Sự học rất cần thiết để
có một vị trí xứng đáng trong xã hội, ai cũng hiểu
như thế. Riêng đối với em thì còn cần thiết hơn nữa.
Tôi rất hi vọng sự học giúp em suy nghĩ, nhận ra bản
chất của chủ nghĩa cộng sản để không bị biến thành
công cụ của chủ nghĩa độc hại đó.
Ông ngừng một chút, bưng ly nước
uống một hớp rồi nói tiếp:
- Em mới hai mươi tuổi, còn quá
trẻ, tôi lặp lại. Tôi không tin rằng em vô tội mà bị
bắt vào đây. Các cơ quan an ninh không bắt người vô cớ
mà dựa vào một bằng chứng cụ thể và khá xác đáng.
Vì vậy, những trường hợp oan uổng thì rất ít. Tuy
nhiên, tôi không trách em, cũng không thù ghét em chút nào.
Có lẽ em nhận ra điều đó qua thời gian làm việc với
tôi. Bọn trẻ các em thực đáng thương vì còn quá ngây
thơ mà miệng lưỡi tuyên truyền của những cán bộ cộng
sản thì quá sức hấp dẫn và đầy hoa mỹ. Ra tù rồi,
em nên đi học trở lại, tôi nhắc lại lời khuyên đó
và mong em nghe theo. Em hãy xa lánh các cán bộ cộng sản
trong một thời gian. Sau nầy, khi đã học xong thành tài
rồi, nếu em thấy chủ nghĩa cộng sản vẫn còn xứng
đáng là lý tưởng thì em sẽ theo cũng chưa muộn. Điều
cần thiết là phải có đủ kiến thức để suy xét,
trước khi nhận lấy một lý tưởng cho cuộc đời mình.
Em có đồng ý về những điều tôi vừa nói với em
không?
Tân ngập ngừng:
- Dạ, con mong muốn được ra
khỏi tù để đi học trở lại.
Nói xong, cậu ngước nhìn lên,
bắt gặp ánh mắt trìu mến của vị y sĩ già. Cậu nói
nhanh một hơi không nghỉ:
- Nhiều đêm con chiêm bao thấy
sống lại những ngày thơ ấu, hàng ngày vui với thầy,
với bạn….Con mong được sống lại những ngày như thế.
Ông Thái bật người dựa ngửa
vào lưng ghế một cách thoải mái và hài lòng:
- Rồi em sẽ được toại nguyện.
Tôi đã nói với em rồi. Chính phủ đang cứu xét để
trả tự do cho một số người.
Tân lo lắng:
- Chỉ một số người thôi sao?
Số người đó là những ai?
- Những người xét thấy không
còn trung thành với cộng sản nữa.
- Làm cách nào để xét được?
Trung thành hay không làm sao thấy được?
Ông Thái gật đầu:
- Đúng vậy. Trung thành hay không
trung thành là chuyện sâu kín trong lòng, khó có thể xác
định được. Người ta đành phải dựa vào một cái gì
đó cụ thể để đánh giá.
- Thầy có biết ở đây, người
ta dựa vào cái gì cụ thể để trả tự do không?
- Có, tôi nghe nói người ta sẽ
tổ chức những buổi lễ chào cờ mỗi ngày, cùng những
lớp học tố cộng mở liên tiếp trong các trại cải
huấn. Ai chịu chào cờ và chịu theo học lớp tố cộng
thì được xem như đủ tiêu chuẩn để xét trả tự do.
Ngược lại, ai cứng đầu, không chịu chào cờ và học
chính trị thì tiếp tục bị giam cầm và có thể bị
trừng phạt nữa.
Có tiếng kẻng từ dưới bếp
vọng lên gọi tù nhân đi ăn cơm chiều. Ông Thái nói với
giọng vui vẻ:
- Thôi, hết giờ làm việc rồi.
Em đi ăn cơm đi. Tôi cũng chuẩn bị về nhà. Hẹn ngày
mai gặp lại.
Tân đứng dậy lễ phép chào rồi
bước ra ngoài.
Buổi chiều thực đẹp. Đang vào
mùa mưa; mấy hôm rồi, chiều nào mây đen cũng vần vũ,
thế mà hôm nay trời thực quang đãng. Mặt trời chìm
xuống hướng Tây, ẩn sau cụm mây trắng làm cho nơi đó
sáng lên rực rỡ.
Tân đi thẳng xuống phòng. Mọi
người lục tục xếp thành hàng ngũ. Cậu đứng vào đám
đông và chầm chậm đi đến nhà ăn với bao nhiêu ý nghĩ
xáo động dữ dội trong đầu, lòng nôn nao vì hai chữ tự
do. Theo lời ông Thái, cậu sắp được tự do, với điều
kiện phải ra sân chào cờ và tham dự một vài lớp tố
cộng. Đó có phải là sự đầu hàng nhục nhã, đáng bị
phỉ nhổ hay không?
Ở nhà cơm về, cậu vội vàng
kéo tay anh Minh ra hiên nhà, kể với anh tin quan trọng đó.
Nghe xong, anh nhíu mày suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Tốt. Cái tin mà em nhận được
đó rất hệ trọng. Các anh sẽ bàn bạc cách đối phó.
Chủ trương nầy của địch rất thâm độc, em không nên
nói cho người khác biết vì có thể làm cho tinh thần anh
em dao động. Anh sẽ cùng với các anh khác tìm cách giữ
vững tinh thần cho anh em mình.
Hai tuần lễ trôi qua một cách
êm ả. Ông Thái chỉ trao đổi với cậu những công việc
hàng ngày và không còn nhắc đến việc chào cờ và học
chính trị để được trả tự do.
Một buổi chiều của một ngày
thăm nuôi, anh Minh kéo Tân ra góc sân vận động, thì
thầm:
- Anh đã liên lạc với bên
ngoài. Quả thực, địch đang sắp thực hiện cái điều
đúng như tin mà em đã nói với anh.
- Họ sắp trả tự do cho anh em
mình?
- Đúng vậy nhưng không dễ dàng
cho mình đâu. Địch dùng biện pháp chào cờ và lớp học
tố cộng để chia rẽ hàng ngũ trong tù của chúng ta đồng
thời dùng hai biện pháp đó như là công cụ gạn lọc
anh em mình. Thành phần nào yếu đuối lọt sàng thì chúng
cho về sống với vợ con, thành phần nào trung kiên còn
sót lại thì chúng sẽ đưa đi nơi khác và tìm cách thủ
tiêu.
Anh buông một tiếng chửi thề
và hằn học:
- Bọn khốn nạn, chúng nó không
thắng được ta đâu.
Anh vỗ vai Tân và nói tiếp:
- Các anh đã nhận được chỉ
thị đối phó với âm mưu thâm độc nầy.
Tân cảm thấy lo lắng:
- Đối phó cách nào? Vận động
anh em không chào cờ và tham gia lớp học?
Minh gật đầu:
- Chúng ta sẽ làm điều đó.
- Nhưng em thấy phần lớn anh em
mình mong muốn được ra khỏi nơi nầy để về với gia
đình. Hầu hết đều là cột trụ của gia đình nên ngày
nào anh em còn ở lại đây thì gia đình họ còn khốn
khổ. Chúng ta nỡ nào ngăn cản con đường trở về của
họ và liệu chúng ta có thể ngăn cản được mãi hay
không?
- Phải rồi, chúng ta không thể
bắt anh em ở lại đây vĩnh viễn. Chúng ta sẽ phát động
mạnh cuộc đòi hỏi trả tự do nhưng không qua chào cờ
và học tố cộng.
- Tuy nhiên, em nghĩ rằng, biện
pháp chào cờ và tổ chức lớp học vẫn cứ xúc tiến
và sẽ có người cam chịu để được tự do.
- Em nói đúng. Không có cuộc vận
động nào có kết quả hoàn toàn đâu. Sẽ có một số
anh em ngã lòng chịu đầu hàng địch. Chúng ta sẽ lợi
dụng điều nầy đưa một số cán bộ trung kiên của
mình ra ngoài để hoạt động trở lại. Hiện nay các cơ
sở bên ngoài của chúng ta đang bị thiệt hại rất nặng.
Sau khi đánh bại và tiêu diệt xong lực lượng vũ trang
của các đảng phái và giáo phái, nhà cầm quyền quay
sang đập các tổ chức của chúng ta tơi tả. Phải gấp
rút tìm cách đưa cán bộ ra để xây dựng và củng cố
cơ sở trở lại.
- Thế là chúng ta sẽ cho một số
anh em mình giả bộ đầu hàng để được ra về.
Anh Minh gật đầu:
- Đúng vậy. Đó là cách phá vỡ
âm mưu sàng lọc của địch, làm cho âm mưu nầy có tác
dụng ngược lại, biến sự sàng lọc của địch thành
con đường đưa cán bộ của chúng ta ra khỏi tù. Chúng
ta phấn đấu làm sao cho những lớp học tố cộng mà
địch sắp mở ra sẽ gồm càng nhiều cán bộ và càng ít
những người thực sự đầu hàng.
- Có nghĩa là theo học hay không
là do sự chỉ đạo của …
- Của chi bộ trong tù. Các anh
đang phân loại anh em trong các phòng và cố gắng vận
động anh em theo đúng sự chỉ đạo của chi bộ.
- Việc sàng lọc của các anh đã
bắt đầu chưa?
- Đã làm được một phần rồi.
- Với riêng em, các anh có ý kiến
gì chưa?
- Có rồi. Các anh nhận xét em là
người tốt, đã kiên định và chịu đựng trong giai đoạn
điều tra nên đã bảo toàn được cơ sở của mình bên
ngoài. Vào tù, em tỏ ra là người có lập trường, chưa
bao giờ than thở hay bi quan chán nản. Em là nhân tố tích
cực trong các cuộc đấu tranh. Đảng ta rất chú ý đến
những thành phần trẻ như em, vì giới trẻ có tâm hồn
trong sáng, có lý tưởng và sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng.
Các anh quyết định cho phép em ra tù, trở lại đi học
để công tác. Hiện nay, các cơ sở trí vận phần lớn
bị tê liệt vì hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là
địch đàn áp mạnh tay. Nguyên nhân thứ hai là nhà cầm
quyền chú trọng về giáo dục, dành nhiều ưu đãi cho
thành phần giảng dạy nên trí thức có khuynh hướng ngã
theo địch. Trong giới sinh viên học sinh, ảnh hưởng của
đoàn Thanh niên Lao động cũng giảm sút nhiều vì sự lấn
áp quyết liệt của hội Hướng đạo, một tổ chức
phản động của thế giới tư bản đang lôi cuốn mạnh
mẽ giới trẻ ở miền Nam. Trong tình hình bất lợi như
thế, việc củng cố đội ngũ cán bộ của chúng ta cho
thực vững vàng là điều cần thiết hơn bao giờ cả. Vì
vậy, anh nhắc lại, các anh quyết định để em ra ngoài
ngay trong đợt đầu.
Anh ngừng lại để đốt điếu
thuốc rồi nói tiếp:
- Em bị bắt hơn hai năm rồi
phải không? Chắc chắn các cơ sở bên ngoài thay đổi
nhiều, em khó liên lạc lại được cơ sở cũ của em.
Nhưng em đừng lo, đảng và đoàn vẫn còn đó. Các anh sẽ
báo cáo cho tổ chức của chúng ta biết là em ra tù do chủ
trương của chi bộ trong nầy và không lâu đâu, sẽ có
người đến liên lạc sau khi em được trả tự do. Các
anh cũng sẽ báo cáo rằng trong nầy vẫn giữ thâm niên
cán bộ đoàn và đã có chủ trương xây dựng đảng cho
em. Anh nghĩ rằng không bao lâu nữa em sẽ đứng vào hàng
ngũ của đảng Tiền phong. Đó là điều rất đáng hãnh
diện cho một thanh niên còn rất trẻ như em.
Vừa lúc đó, đèn trong phòng và
chung quanh hàng rào cũng vừa bật lên, kẻng vào trại
cũng khua vang inh ỏi. Hai người vội vã đứng dậy. Trong
khi anh Minh tỏ ra rất phấn khởi thì Tân bước sau anh,
lòng nặng trĩu ưu tư.
Cậu đã vào tù với lòng mong
muốn giã từ con đường cách mạng bây giờ ra tù để
tiếp tục lại con đường đó hay sao? Rồi lại mai phục,
nghĩa là trốn chui trốn nhủi trong bóng tối và thúc đẩy
bạn bè đáng thương của mình ra trước họng súng của
quân thù? Cậu nhớ lại cái cảm giác vừa sợ hãi, vừa
chán nản của hơn hai năm về trước. Cậu nhớ đến
những người con gái đáng thương như Bạch Mai và nhiều
người khác mà cậu đã xúi giục đến phải bỏ bê việc
học để bị lôi cuốn theo con đường có quá nhiều hiểm
nguy. Cậu đang khao khát tự do, khao khát ra khỏi chốn
giam cầm để sống theo ý mình chứ không phải để trở
lại con đường mà cậu đã xa lánh. Theo lời anh Minh, khi
ra khỏi nhà tù, cậu lại sẽ phải gặp cán bộ cách
mạng đến giao công tác bí mật. Nếu như thế thì công
sức và sự chịu đựng trong hơn hai năm rồi hóa ra vô
ích. Không, cậu không muốn điều nầy xảy ra.
Vài ngày sau, mọi người trong
tất cả các phòng đều nhận được tin quan trọng đó
và bàn tán xôn xao. Một buổi sáng, giám đốc nhà tù ra
lệnh tập họp tất cả tù nhân xuống nhà ăn, nay biến
thành hội trường. Đích thân ông giám đốc giải thích
việc tổ chức chào cờ và lớp học. Lời nói của ông
thực ôn tồn chứ không gay gắt như thường ngày. Ông
khuyên mọi người hãy hưởng ứng để được chính phủ
khoan hồng, sớm trở về với gia đình. Ông dứt lời,
tiếng vỗ tay tán thưởng vang lên trong căn phòng chật
hẹp đầy người. Ông đưa cả hai tay lên cao, vừa biểu
lộ nỗi hân hoan, vừa là một cử chỉ thân thiện đầu
tiên đối với tù nhân kể từ ngày ông đến làm giám
đốc ở đây.
Mọi người trở về phòng tiếp
tục bàn tán xôn xao. Ai cũng có vẻ phấn khích đến tột
độ. Không có gì có thể so sánh được với sự phấn
khởi của tù nhân trước cái tin sắp được về với
gia đình. Ngày hôm đó, anh em được nghỉ ngơi, tắm rửa,
giặt giũ sạch sẽ để chuẩn bị bước vào đợt học
tập đầu tiên.
Sáng hôm sau, kẻng gọi đi ăn
sáng sớm hơn thường lệ. Vẫn là cháo trắng được
nhóm nhà bếp nấu từ khuya, nhưng hôm nay, trên mỗi ô
dành cho sáu người có một tô đường cát trắng thay cho
chén muối hàng ngày.
Sau bữa ăn sáng, khi mọi người
trở về phòng, tiếng loa ong óng gọi những người tình
nguyện ra chào cờ. Khoảng hai phần ba lầm lũi bước ra
sân xếp hàng hướng về cột cờ. Giám thị lùa những
người còn lại vào phòng và khóa cửa lại. Tân cũng ở
trong số nầy.
Lúc cậu bước vào phòng thì
thấy anh Minh đang đứng áp mặt vào cửa sổ, chăm chú
nhìn ra sân cờ. Cậu lẳng lặng về chỗ của mình nằm
nhắm mắt lại. Cậu nghe rõ tiếng hô chào cờ của ai đó
rất dõng dạc, tiếng quốc thiều nổi lên thực rôm rả.
Sau đó là tiếng nói xôn xao và tiếng bước chân lào xào
về hướng nhà ăn. Cậu biết nơi đó bây giờ trở thành
lớp học chính trị của nhà tù.
Tân nghe có tiếng chân người
bước lên bục nằm. Cậu khẽ mở mắt ra thì thấy anh
Minh đang se sẽ ngồi xuống bên cậu. Anh nhìn cậu bằng
đôi mắt ngạc nhiên:
- Tại sao em nằm đây? Anh tưởng
em sáng nay ra chào cờ và theo lớp học rồi chứ.
Tân lắc đầu:
- Không, em không muốn chào cờ
và tham dự lớp học.
- Tại sao vậy?
Tân lại lắc đầu và im lặng.
Cậu quay mặt sang chỗ khác để tránh cái nhìn của anh
Minh. Cậu không rõ anh đang bất mãn vì cậu không theo sự
sắp đặt của anh hay đang thán phục vì cậu thuộc về
nhóm anh em có lập trường kiên định chống lại việc
chào cờ và lớp học. Mặc kệ, cậu không cần biết
điều gì đang diễn ra trong đầu anh ấy, cũng chẳng cần
để ý những gì diễn ra chung quanh trong cái thế giới
đầy phiền toái nầy.
Có tiếng động khe khẽ, Tân
biết anh Minh đang đứng dậy để về chỗ của mình. Cậu
nhắm mắt lại, đưa tay gác lên trán để che bớt ánh
sáng rực rỡ của buổi sáng đẹp trời xuyên qua hai hàng
cửa sổ rọi vào phòng. Cậu nằm lắng tai nghe tiếng ồn
từ dưới bếp vọng lên. Tiếng ồn bỗng nín bặt như
đột ngột tan biến, nhường không gian lại cho tiếng loa
phát ra một giọng nói thực rõ ràng và trôi chảy. Tân
lẩm bẩm một mình:
- Lớp học bắt đầu rồi đó.
Bỗng nhiên, cậu cảm thấy tủi
thân khi nghĩ rằng những người đang ngồi dưới lớp
học đó nay mai sẽ trở về với gia đình, sẽ hít thở
bầu không khí tự do ngoài kia, còn cậu sẽ tiếp tục ở
lại đây, trong vòng rào kẽm gai, ngày ngày quanh quẩn
trên một khuỷnh đất nhỏ hẹp, mỗi nơi đều đã quá
quen thuộc đến độ nhàm chán, khó lòng chịu đựng. Cậu
sẽ tiếp tục đánh mất tuổi thanh xuân của cậu ở đây
hay ở một nhà giam nào khác có lẽ khắc nghiệt hơn
nhiều mà người ta sẽ dùng nhốt những kẻ bị xem là
cứng đầu.
Sáng hôm nay, người ta đã làm
xong sự gạn lọc. Cậu và những người còn lại trong
phòng sẽ bị thi hành kỷ luật. Cậu cố tưởng tượng
hình thức trừng phạt mà cậu sắp phải nhận chịu.
Chắc chắn không phải bị giam ở trại kỷ luật, vì ở
đó chỉ có khoảng hai mươi xà lim biệt lập trong khi ước
lượng có đến gần hai trăm người còn lại trong ba
phòng phạm nhân cộng sản.
Có tiếng mở khóa rổn rảng bên
ngoài và cửa phòng bật mở. Viên giám thị bước vào hô
to:
- Tập họp hàng tư, nhanh lên.
Mọi người vùng dậy làm theo
lệnh. Viên giám thị đi thong thả, vừa đi vừa đếm số
người trong mỗi hàng. Ông rút cây viết, mở cuốn tập
vở cầm trong tay và nói:
- Mỗi người lần lượt đứng
lên nói tên của mình. Bắt đầu hàng thứ nhất.
Công việc kết thúc nhanh chóng.
Viên giám thị xếp tập lại, nói to:
- Mấy anh nghe đây.
Mọi người im lặng và hồi hộp.
Ai cũng nghĩ đến biện pháp trừng phạt ghê gớm sắp
được công bố. Họ lắng nghe viên giám thị nói tiếp:
- Các anh sẽ được sắp xếp
lại. Những người không chịu đi học được xếp chung
vào phòng nầy. Trưa nay cơm nước xong sẽ dời phòng.
Những người đang tham dự lớp học sẽ ở hai phòng bên
kia. Lớp học sẽ kéo dài trong hai tuần, nghỉ ngày thứ
sáu thăm nuôi. Trong hai tuần lễ nầy, tất cả các anh
trong phòng nầy phải làm công việc thay cho những người
đi học. Ai đã có công việc chuyên môn thì cứ tiếp
tục, những người khác theo tôi đến nhà bếp để được
phân công. Thôi, giải tán.
Mọi người đứng dậy, thở ra
nhẹ nhõm. Họ không hề bị một hình thức kỷ luật nào
cả. Đời sống của họ trong trại nầy vẫn bình thường
như trước. Viên giám thị bước ra ngoài, cửa vẫn mở,
mọi người vội vã bước theo sau ông. Bên ngoài, mặt
trời đã lên cao, quanh cảnh trống vắng trông là lạ hơn
thường ngày.
Tân tách khỏi số người đang
đi theo ông giám thị, thẳng hướng về phòng y tế. Ông
y sĩ ngước lên nhìn, suýt nhảy nhổm vì ngạc nhiên. Ông
nhìn sững cậu như nhìn một con vật lạ lùng đột nhiên
xuất hiện. Ông nói với giọng run run:
- Sao? Em không chịu đi học à?
Em cho đó là điều đáng xấu hổ ư?
Ông chỉ hỏi thế thôi rồi ngồi
yên, không đợi trả lời, mặt đầy vẻ thất vọng. Ông
nhìn quanh như muốn tìm một việc làm gì đó để tự
trấn an mình. Sáng nay, ông không phải khám cho bệnh nhân
nào cả. Dưới các phòng không có ai khai bệnh vì mọi
người mãi lo tuân theo hay chống đối lệnh chào cờ và
học tập. Ông loay hoay sắp xếp lại mấy dụng cụ trên
bàn. Ông đến kệ tủ lấy ra một quyển sách đọc vài
trang rồi xếp lại trả lên kệ. Ông quay lại, nhìn cậu
ngồi im lặng, hai tay khoanh trên bàn đè lên quyển sổ
bìa đen ghi thuốc cấp phát hằng ngày. Đột nhiên, cơn
giận trào lên, ông nói to với giọng hằn học:
- Tôi biết sẽ có nhiều người
chống đối, nhưng không ngờ trong đó có em. Tại sao em
không nắm lấy dịp may nầy để được khoan hồng? Tại
sao em từ chối cuộc sống tự do ngoài kia và để cho
tuổi trẻ của em trôi qua một cách hoang phí trong nhà tù?
Tới bây giờ mà em chưa nhận ra rằng em bị cộng sản
dụ dỗ và lợi dụng hay sao? Hơn hai năm bị giam cầm
chưa đủ cho em nhận ra lẽ phải hay sao?
Ông dừng lại nuốt nước bọt,
giọng nhỏ lại, không còn gay gắt mà có vẻ thương hại:
- Tôi hiểu rồi. Những điều
tôi giải thích cho em nghe về cộng sản chẳng có tác
dụng gì cả. Ở dưới đó, hằng đêm, em vẫn tiếp xúc
với họ, những người cán bộ cộng sản chính cống. Họ
thường nói một cách hãnh diện rằng nhà tù là nơi rèn
luyện con người theo chủ nghĩa cộng sản. Em còn quá
trẻ, làm sao thoát khỏi nanh vuốt của họ. Tôi tiếc cho
em. Bản tính tôi rất yêu thương con trẻ, nhưng Chúa
không cho vợ chồng tôi có con. Vì vậy, tôi không tránh
được phẩn uất khi thấy bọn trẻ các em bị cộng sản
dụ dỗ, bỏ cả học hành, có khi bỏ cả gia đình để
theo họ, đánh hỏng cả cuộc đời tươi đẹp của mình.
Ông ngừng lại, bước đến góc
phòng rót một ly nước uống ực rồi nói tiếp:
- Bây giờ, tôi nói cho em rõ một
điều có liên quan đến em. Em còn nhớ bà vợ ông đại
úy Thiện, giám đốc cũ ở trung tâm nầy không? Em đã
gặp và nói chuyện nhiều lần với bà ấy vì em kèm cho
thằng Dũng, con bà ấy học. Bà đại úy là bạn thân của
vợ tôi từ hồi hai người từ giã Hà nội trên chuyến
tàu di cư vào Nam tìm tự do. Tôi không biết hai bà nói
chuyện thế nào mà vợ tôi đốc thúc tôi tìm cách cứu
em ra khỏi chốn nầy. Vì vậy tôi đã yêu cầu Trung tâm
cho em lên đây làm việc với tôi để tôi xét xem em có
xứng đáng để tôi giúp đỡ hay không. Thú thực, tôi đã
hài lòng về tính tình, về sự thông minh của em. Tôi có
người bạn thân ở bộ nội vụ, tôi đã nhờ ông ta can
thiệp cho em ra tù. Tuy nhiên, bây giờ, con đường duy nhất
để ra khỏi nhà giam là qua những buổi chào cờ và lớp
học tố cộng. Tôi không còn biết phương cách nào khác.
Em đã từ chối con đường đó thì thôi, tôi không còn
biết làm thế nào nữa. Tôi còn nhớ, có lần tôi đã
giải thích cho em rõ, người cộng sản tự nguyện khóa
mình vào một cái xiềng rồi vứt bỏ chìa khóa đi để
mang mãi cái xiềng đó. Em còn trẻ, tương lai còn dài,
đừng dại mang cái xiềng đó vào cổ, phá hư cả bản
thân, cả tâm hồn em.
Ông ngừng nói, đứng dậy bước
ra cửa hít một hơi dài. Ông lắng tai nghe tiếng loa của
lớp học từ nhà ăn vọng lên rồi rảo bước về hướng
đó.
Kể từ hôm đó, ông không còn
trò chuyện thân mật với Tân nữa. Những lời ông nói
với cậu chỉ là những câu sai bảo cần thiết cho công
việc mà thôi. Ngoài ra, những giờ dài trong phòng y tế
là những giờ im lặng nặng nề.
Đúng hai tuần lễ sau, lớp học
tố cộng kết thúc bằng một buổi lễ khá long trọng,
có nhiều khách bên ngoài vào dự. Chỉ hơn một tuần lễ
sau, một số người được chở về Sài gòn để trả tự
do, gây xôn xao trong tất cả các phòng. Sinh hoạt trong
trại trở lại bình thường. Tuy nhiên, cứ cách khoảng
một tuần lại có vài người từ giã lao tù để trở về
với gia đình. Những người còn lại, đã qua lớp học
chính trị vừa rồi, ngong ngóng đợi đến phiên mình.
Hôm nay là thứ sáu, anh em được
nghỉ việc đề chờ người nhà đến thăm nuôi. Tân vẫn
đến phòng y tế làm việc vì y sĩ cũng khám bệnh cho tù
nhân như thường ngày. Trong ngày thăm nuôi, mọi người
đều náo nức. Riêng Tân, cậu chẳng bận tâm vì từ
ngày bị giam ở đây, hơn hai năm rồi, cậu chưa một lần
được gọi tên. Cậu ngồi trong phòng một cách bình
thản, lo ghi chép, gói thuốc và dặn dò bệnh nhân.
Bỗng cậu giật mình khi nghe
tiếng gọi trong loa:
- Phạm bá Tân, phòng…, à không
rõ phòng nào. Ai là Phạm bá Tân ra gặp thân nhân.
Tân vụt đứng lên, tim đập
thình thịch, mặt nóng bừng. Vị y sĩ già cũng ngưng khám
cho bệnh nhân, quay sang hỏi:
- Loa gọi tên em ra nhà thăm nuôi
đó phải không?
Tân cố lấy giọng bình thản để
trả lời:
- Có lẽ không phải. Người ta
gọi nhầm tên rồi. Em chẳng còn bà con thân thuộc nào ở
đây.
Nói xong, cậu ngồi xuống. Tiếng
loa lại réo lên, giọng gay gắt:
- Phạm bá Tân, ai là Phạm bá
Tân ra gặp người nhà ngay.
Có bóng người xuất hiện ở
cửa phòng, nói to:
- Tân, mày có người thăm nuôi
đó, ra ngay đi.
Tân quay ra nhìn, thấy đó là anh
Định nằm cùng phòng. Cậu lắc đầu:
- Chắc không phải gọi em đâu.
- Không, chính mày được gọi
đó. Ra nhanh đừng để mất bớt thì giờ thăm nuôi.
Anh ta nói xong, chụp lấy tay cậu
kéo ra ngoài. Cậu bước ra sân, nhìn về hướng phòng
thăm nuôi. Trong phòng đã đầy người. Trước cửa phòng,
có một thanh niên đứng im nhìn vào. Tân nhướng mắt
nhìn ra, bỗng nhiên hoảng hốt, miệng lẩm bẩm:
- Bính, trời ơi, đúng là Bính
đến thăm mình kia kìa.
Cậu phóng nhanh đến, đưa cả
hai tay về trước.
- Bính!
- Anh Tân.
Bốn bàn tay siết chặt lấy
nhau. Có tiếng người giám thị nhắc nhở:
- Vào phòng nói chuyện, nhanh lên.
Hết mười phút rồi đó.
Vừa vào phòng, Tân hỏi ngay:
- Tại sao Bính biết anh ở đây
mà đi thăm?
- Do một sự tình cờ lạ lùng.
Anh biết một người tên Thắng mới ở đây được về
hay không?
- Biết. Đỗ Chiến Thắng, trước
cùng phòng với anh, mới được về cách nay hơn một
tuần. Bính có quen với anh ấy sao?
- Anh Thắng có bà con về phía
bên ngoại với em.
- Sau khi được trả tự do, anh
ấy đến thăm gia đình Bính?
Bính lắc đầu. Tân ngạc nhiên
thấy mắt bạn rơm rớm. Bính nói nho nhỏ:
- Anh Thắng đến đưa đám mẹ
em.
Tân sửng sốt. Cậu chồm tới
trước, nắm lấy tay bạn:
- Bính nói sao?
- Mẹ em mất rồi, mới làm đám
xong, đúng một tuần nay.
- Trời ơi, sao vậy?
- Mẹ em bị bệnh hơn một năm
rồi. Bà bị ung thư.
Bính đưa tay chỉ vào ngực mình.
Bấy giờ, Tân mới để ý miếng băng tang nho nhỏ đính
vào áo. Cậu nói, giọng run run vì xúc động:
- Bính, anh xin chia buồn với em
và với gia đình.
- Cám ơn anh.
- Bác trai có khỏe không?
- Ba em vẫn bình thường nhưng
không được khoẻ lắm vì phải ngày đêm săn sóc mẹ em
hai ba tháng cuối cùng trước khi mẹ em mất. Gần như chỉ
một mình ba em chịu cực chịu khổ với mẹ em mà thôi.
- Thế còn….
Thấy Tân ngập ngừng, Bính tiếp
lời:
- Em muốn thay ba em để săn sóc
mẹ nhưng ba em không cho vì năm nay là năm thi của em.
- Em sắp thi tú tài rồi à? Nhanh
nhỉ.
- Dạ phải, còn vài tháng nữa
là em đi thi. Vì vậy ba muốn em dành tất cả thì giờ
cho việc học.
- Còn chị Mai?
- Anh còn nhớ đến chị Mai à?
Tân ngạc nhiên thấy vẻ bối
rối hiện trên mặt bạn. Bính mím môi nói tiếp:
- Chị Mai làm cho mẹ em đau khổ
nhiều. Em nghĩ rằng chính vì vậy mà sức khỏe mẹ em
suy sụp, khối u ác tính trong người mẹ em phát triển
nhanh chóng. Thôi, mẹ em đi sớm cũng yên cho thân mẹ.
Tân sững sờ nhìn Bính, giọng
như lạc hẳn đi:
- Bính, chị Mai thế nào mà mẹ
đau khổ. Mai bị bắt rồi phải không?
Bính lắc đầu:
- Không, chị Mai không bị bắt.
- Thế thì sao?
- Để em kể đầu đuôi cho anh
nghe. Sau ngày anh bị bắt ít lâu, các trường công và tư
đều nhốn nháo vì nhiều người bị bắt, kể cả giáo
sư và học sinh. Em nghe nói chính quyền cương quyết dập
tắt cái Phong trào bảo vệ hòa bình, cương quyết bắt
các trường phải vào khuôn khổ, trở lại nề nếp học
tập, cấm mọi hoạt động nào không đo bộ quốc gia
giáo dục cho phép. Ở vài trường, trong đó có trường
của anh và chị Mai trước kia, công an mật vụ và cảnh
sát xông vào khám xét nhiều lớp ngay trong giờ học. Ba
mẹ rất lo lắng cho chị Mai. Cả nhà, ai cũng biết chị
ấy có chân trong tổ chức Việt cộng. Ba thì buồn rầu,
mẹ thì khóc vì những tin đồn dễ sợ về chuyện các
nữ sinh bị bắt vào bót để điều tra. Tình hình mỗi
ngày một căng thẳng và chị Mai bỏ trốn. Ba mẹ em đau
đớn vô cùng. Hai người bỏ công đi tìm kiếm nhưng
không dám hỏi ai vì sợ công an mật vụ đang truy lùng.
Sau cùng, người ta đến đưa tin, chị Mai đã được đưa
vào một nơi nào đó rất bí mật. Từ hôm đó, ba mẹ
không đi tìm nữa. Ba vẫn đi làm nhưng nét mặt lúc nào
cũng rầu rầu. Có một lần, em và mẹ nghe ba cười vui
vẻ. Đó là một buổi chiều thứ bảy, có mấy người
bạn cùng sở làm với ba em đến nhà chơi. Ba lấy chai
rượu mạnh ra đãi khách. Rượu làm cho ba em quên mọi sự
đời. Kể từ hôm đó, mẹ thường khuyên ba rủ bạn về
nhà chơi, mẹ làm thức nhắm cho ba uống rượu với bạn
bè. Mẹ muốn cho ba khuây khỏa, ít ra một lúc với bạn
bè.
Bính dừng lại, cúi nhìn xuống
đất để cho người đối diện không trông thấy đôi
mắt cậu lại rơm rớm ướt. Giọng Tân khẩn thiết:
- Bính nói tiếp đi.
- Suốt đời mẹ hi sinh cho chồng,
cho con. Anh là người ngoài thì không thể nào biết hết
tất cả sự hi sinh của mẹ em được.
Tân hăng hái cãi lại:
- Biết chứ, dù không biết tất
cả những gì bác gái làm cho gia đình thì anh cũng hiểu
bác là người sẵn sàng hi sinh cho người khác. Anh chỉ
mới đến chơi nhà Bính tròn tám tháng nhưng anh yêu quý
bác vô ngần. Trông thấy bác là anh lại nhớ đến mẹ
anh xưa kia.
- Cám ơn anh. Cứ mỗi lần nghe
ai nói những điều tốt đẹp về mẹ, em vừa thấy đau
đớn vừa thấy an ủi trong lòng. Em xin kể tiếp anh nghe.
Về việc chị Mai đi trốn, mẹ cố tìm cách làm cho ba
khuây khỏa để giảm bớt nỗi lo buồn trong khi mẹ không
quản đến nỗi khổ của mẹ lớn hơn của mọi người
khác. Chẳng ai làm gì được cho mẹ bớt đau khổ. Nó
gậm nhấm mẹ, nó làm cho mẹ mỗi ngày một héo hon. Tới
khi có bằng chứng y học rõ rệt về việc mẹ bị khối
u ác tính đang sang thời kỳ phát triển mạnh mẽ và hết
còn hi vọng cứu chữa, ba quyết định tìm mọi cách nhắn
người ta đưa chị Mai về.
Tân mất hết kiên nhẫn nên cướp
lời:
- Bác trai có tìm được đúng
chỗ không?
- Được, chị Mai trở về một
cách kín đáo sau một năm trời trốn tránh.
Bính bỗng ngưng nói cúi gầm mặt
xuống rồi tiếp:
- Anh Tân, có một chuyện…. Một
chuyện kín trong gia đình em. Em phân vân, không biết có
nên nói cho anh nghe hay không.
Giọng vẫn Tân khẩn thiết:
- Điều đó tùy Bính. Anh không
dám nài nỉ để được nghe chuyện riêng tư của người
khác. Tuy nhiên, anh muốn nói với Bính rằng trước đây
và sau nầy cũng vậy, anh luôn luôn mong muốn trở nên
thân thiết với gia đình Bính. Anh rất quý mến gia đình
Bính, nhất là đối với bác gái. Anh ân hận là không
bao giờ còn gặp lại bác trên trần gian nữa. Anh sẽ nhớ
đến bác suốt cả cuộc đời anh.
- Mẹ em cũng thương anh lắm.
Thỉnh thoảng bà có nhắc đến anh và có ý đi thăm anh
nhưng không biết hỏi ai. Mẹ cứ than thở rằng anh mồ
côi cả cha lẫn mẹ, chẳng có anh em bà con nên không được
ai thăm nuôi. Lúc anh mới bị bắt, hình như chị Mai có
tìm cách hỏi thăm nơi anh bị giam giữ nhưng sau đó chị
bỏ đi trốn nên gia đình chẳng biết anh ở đâu. Cho đến
khi mất, hình như mẹ em vẫn còn ân hận về việc đó.
Tân nói với giọng đầy xúc
động:
- Tội nghiệp bác, anh có lỗi
thực nhiều đối với bác.
Bính kể tiếp:
- Vài ngày trước khi mất, mẹ
thích ba và em ngồi bên mẹ, nhắc lại những chuyện quá
khứ cho mẹ nghe. Mẹ muốn hình dung lại một lần cuối
cùng những đoạn đường mà mẹ đã đi qua trên cõi trần
gian nầy. Ba thì nói chuyện rất xưa từ thuở hai ông bà
mới quen nhau. Lúc đó ba được chuyển về làm ở ty công
chánh Huế, hai người gặp nhau lần đầu tiên ở cầu
Gia hội. Sau đó hai người dẫn nhau đi chơi khắp nơi ở
thành phố Huế rồi về nhà mẹ em ở tận thôn Vĩ dạ.
Ba nhắc đến nhiều nơi, nào là bãi Thuận an, chùa Thiên
mụ, cầu Tràng tiền, chợ Đông ba, Phú văn lâu, Đàn Nam
giao, vân vân. Mẹ nằm nghe một cách say sưa và tỏ ra rất
xúc động. Em thì kể cho mẹ nghe những chuyện gần,
quanh quẩn ở Sài gòn, nên không gây cho mẹ cảm xúc như
những kỷ niệm của ba. Tuy nhiên, khi em nhắc đến anh
thì mẹ có vẻ chú ý. Em nghe mẹ thở dài. Em biết mẹ
rất thương anh. Anh có biết tại sao không?
Tân lắc đầu:
- Anh không rõ lắm.
- Theo em thì có nhiều lý do. Thứ
nhất là anh mồ côi, cô độc lại phải lo cho sự sống
của mình. Thứ hai là lối sống và tính tình của anh dễ
gây cảm tình nơi người khác. Cuối cùng, và có lẽ quan
trọng nhất, anh là người đồng hương của mẹ. Cái
tình cảm mà mẹ dành cho quê hương miền Trung của mẹ
thì không có gì có thể so sánh nổi.
Tân xúc động lẫn ngạc nhiên:
- Tại sao Bính phân tích được
rành rẽ tình cảm của mẹ đối với anh như thế?
- Em phải biết những điếu đó
chứ. Theo em, đối với người sắp chết, mình phải biết
họ đã rũ sạch những điều còn vướng mắc ở trần
gian nầy hay chưa. Nếu rũ sạch rồi thì linh hồn họ
thoát ra khỏi thể xác một cách thanh thản. Nếu chưa rũ
sạch thì linh hồn họ không thể thanh thản được.
Tân vô cùng ngạc nhiên:
- Bính, em mới mười bảy tuổi,
sao em biết rành những chuyện cao siêu như thế?
- Ba nói với em. Khi biết mẹ
không thể nào sống lâu được nữa, ba bảo hai chị em
chuẩn bị cho chuyến đi vĩnh viễn của mẹ. Hôm đó, lần
đầu tiên, em thấy ba khóc. Lời nói của ba làm em xúc
động vô cùng. Ba nói rằng cuộc đời của mẹ trên thế
gian nầy, tuy không dài lắm nhưng là cuộc đời toàn
thiện, toàn mỹ. Mẹ xứng đáng từ giã chốn hồng trần
nầy để thanh thản trở về cõi Tiên, cõi Phật. Trong
những ngày cuối cùng của mẹ, em luôn luôn nghĩ đến
những chữ “thanh thản ra đi” mà ba nói với chúng em.
Em tìm cách hỏi mẹ những điều mà mẹ chưa vừa ý và
cố nói sao cho mẹ hài lòng để chuẩn bị cho chuyến đi
thanh thản của mẹ.
Tân cố kềm nước mắt của
mình. Cậu nói với bạn một cách âu yếm:
- Bính là một đứa con chí hiếu.
Bính nói tiếp:
- Một hôm, em hỏi mẹ: “Con sẽ
tìm cách hỏi thăm anh Tân bị giam ở đâu rồi đi thăm
nuôi, mẹ có đồng ý không?” Mẹ mỉm cười, có vẻ
hài lòng.
Bính ngừng nói, nhìn Tân đưa
tay áo lên lau nước mắt. Cậu cũng móc khăn ra lau mắt
của mình rồi nói tiếp:
- Thực là lạ lùng, gần như là
mầu nhiệm. Hôm làm đám cho mẹ, anh Thắng đến. Ba em
hỏi ai đã đưa tin cho anh ấy biết là mẹ em mất. Anh ấy
bảo chẳng ai đưa tin cả. Anh nằm chiêm bao thấy mẹ em
gọi đến. Thật là lạ lùng. Nhưng chưa hết. Anh Thắng
ngồi nói chuyện ở tù và kể rằng có ở chung với một
cậu học sinh rất đáng thương tên là Tân. Ai xui anh
Thắng nói ra điều nầy? Đó đâu phải là điều mà
người ta mang ra kể giữa một đám tang có đông người
phần lớn không quen biết nhau. Ở ngoài bây giờ cơ quan
mật vụ đang hoạt động mạnh nên người ta tránh nói
những chuyện liên quan đến Việt cộng, thế thì cái
chuyện mới ra tù cần phải giấu kỹ trước đám đông
mới phải chứ.
- Chính nhờ anh Thắng kể chuyện
mà Bính biết anh ở đây và đi thăm anh hôm nay?
- Đúng vậy. Em phải đi thăm anh
vì đó là ý muốn của mẹ em. Ba em và chị Mai cũng đốc
thúc em. Suốt tuần rồi em quá bận rộn, hôm nay mọi
việc mới xong xuôi. Thấy anh Thắng được về, em nghĩ
rằng anh cũng sắp được ra khỏi nơi đây.
- Anh cũng mong được như thế.
Ra tù rồi, anh sẽ đến nhà em lạy trước bàn thờ bác
gái. Anh phải đến thăm ba em và thăm chị Mai nữa chứ.
Anh mong ước gia đình em tiếp anh như người thân vừa
thoát khỏi tai nạn và trở về.
Bính mím môi nhìn ra sân, suy nghĩ
một phút rồi vụt quay lại:
- Anh Tân, khi ra tù, anh có ý định
đến nhà em để thăm chị Mai phải không?
Tân gật đầu. Bính nói tiếp:
- Bây giờ em cần phải nói cái
chuyện riêng tư của gia đình em cho anh rõ. Chị Mai sắp
có một đứa con.
- Hả?
Mặt Tân tái đi rõ rệt. Cậu hi
vọng mình nghe nhầm hay Bính vừa nói đùa. Tuy nhiên nét
mặt Bính vẫn nghiêm trang. Tân cố gắng hỏi, giọng hơi
run:
- Bạch Mai có chồng từ bao giờ?
Bính lắc đầu:
- Em không biết. Có lẽ chị Mai
sẽ sinh con trong vòng một hai tháng nữa. Chị Mai mới từ
chỗ trốn tránh, trở về tháng trước. Lúc chị bước
vào nhà thì ba mẹ em nhận ra ngay là chị ấy đang có
mang.
Tân nhìn sững Bính. Cậu cảm
thấy người con trai trước mặt cậu không có thật, hình
như mọi người chung quanh đều không có thật, tất cả
đều là ảo ảnh, tất cả đều đang diễn ra trong một
giấc chiêm bao. Cậu nghe chính tiếng mình rì rầm:
- Tại sao vậy? Bạch Mai có con
với ai?
Rồi tiếng Bính trả lời:
- Em nghe chị Mai nói với ba em là
cha đứa bé tên là Đảnh cùng đi trốn với chị ấy
trong cái mật khu quỷ quái nào đó.
Tân lầu bầu:
- Đảnh sao? Chính đồng chí Đảnh
à? Tại sao có thể như thế được?
Vừa lúc đó, có tiếng người
giám thị oang oang:
- Hết giờ thăm nuôi cho đợt
nầy rồi. Cô bác ra về cho đợt khác vào.
Nhiều người đứng dậy. Hai anh
em đứng dậy theo. Bính trao cái giỏ xách cho Tân và nói
nhanh:
- Anh mang giỏ nầy vào đi. Chị
Mai sắm cho anh đó. Có thức ăn và các vật dụng như kem
đánh răng, xà phòng, áo quần, thuốc cảm sốt và đau
bụng. Thôi anh vào đi, em về. Vậy là em làm xong lời hứa
với mẹ rồi. Em không đi thăm nuôi anh nữa đâu vì em
phải lo học thi. Chị Mai cũng không đi thăm anh được.
Bụng chị ấy đã to, đi đứng nặng nề. Thôi anh vào
đi. Người ta ra về cả rồi.
Bị Bính đẩy vào lưng, Tân lững
thững ra sân, hướng về phòng giam. Có tiếng quát to:
- Nầy cái anh kia, không được
đi lối đó. Đem đồ thăm nuôi vào văn phòng khám xét
rồi mới được đưa về phòng.
Tân vẫn chậm rãi bước đi.
Hình như cậu không nghe tiếng quát hay có nghe nhưng không
hiểu người ta nói gì. Một người lính, súng trên vai,
vụt chạy ra, nắm vai níu cho cậu xoay lại, thẳng tay tát
một cái bốp vào mặt cậu rồi đẩy về hướng văn
phòng.
Cậu nghe có nhiều tiếng la phản
đối từ hướng phòng giam. Mặc kệ, cậu lầm lũi bước
đến cái cửa to trong đó có nhiều người đứng lố
nhố.
Khi Tân về đến phòng giam, nhiều
anh em đến hỏi han, vì cậu là người duy nhất ở đây
không được thăm nuôi từ hai năm nay. Cậu trả lời qua
loa. Thấy vẻ mặt dàu dàu của cậu, anh em nhanh chóng bỏ
ra ngoài. Cậu mệt mỏi nằm xuống nhắm nghiền hai mắt.
Cậu biết giờ nầy đang là giờ làm việc của phòng y
tế nhưng cậu vẫn nằm yên. Không có gì trong cõi đời
đáng quan tâm trong giờ phút nầy.
“Chị Mai sắp có một đứa
con”. Câu nói của Bính lặp đi lặp lại mãi trong đầu
của Tân. Tại sao có thể xảy ra như thế? Cậu biết
Bạch Mai không hề yêu Đảnh và đã than phiền khi phải
đi rải truyền đơn trong đêm hôm với Đảnh.
“Chị Mai đã gây cho ba mẹ em
nỗi buồn phiền to lớn; chính vì vậy mà sức khoẻ của
mẹ suy sụp nhanh chóng”. Trời hỡi, chính cậu mới là
thủ phạm đã gây nên thảm họa cho người con gái đáng
yêu và cho người mẹ đáng thương đó. Đúng vậy, không
thể chối cãi thế nào được nữa. Chính cậu đã bỏ
ra nhiều ngày để cấy lý tưởng cách mạng vào đầu
của Bạch Mai, để đưa nàng vào tổ chức Việt cộng và
sau cùng kết nạp nàng vào đoàn. Tân nằm ôm đầu, cố
chịu đựng nỗi ân hận và đau đớn cùng cực.
*
* *
Hàng tuần đều có một số
người được gọi tên ra xe về Sài gòn và được trả
tự do. Dĩ nhiên tất cả những người nầy đều đã qua
lớp học chính trị. Mỗi lần có chiếc xe quen thuộc
chạy vào sân và tiếng loa đọc tên những người được
may mắn thì cả nhà tù đều xôn xao. Họ chạy lui chạy
tới để từ giã, để tặng những món vật dụng hằng
ngày cho những người còn ở lại. Khung cảnh nầy làm
xao xuyến những người cứng đầu không chịu chào cờ
và tham gia đợt học tập vừa qua. Tân và có lẽ cả
thành phần lãnh đạo nồng cốt cũng không tránh được
tâm trạng nầy.
Sau cái ngày gặp Bính trong phòng
thăm nuôi, Tân đau đớn khổ sở trong nhiều ngày. Dần
dần, nỗi buồn cũng vơi đi. Dù sao, cậu cũng mới vừa
tròn hai mươi tuổi, cái tuổi hừng hực sức sống nên
nỗi ưu phiền và mặc cảm tội lỗi không bám được
lâu trong tâm hồn. Cậu vui vẻ và hồn nhiên trở lại,
sự thèm muốn cuộc đời tự do bên ngoài mỗi ngày một
mãnh liệt hơn trong lòng cậu. Hằng đêm, cậu mơ mộng
sự sống tự do sắp tới. Cậu sẽ lại cắp sách đến
trường, cậu sẽ cố học thực chăm chỉ để bù lại
những năm học hành dang dở vì mãn lo chu toàn công tác
mà cách mạng giao phó. Nhất định cậu dứt khoát từ bỏ
mọi sự liên hệ với tổ chức cách mạng. Cậu sẽ ra
tù để tự làm lại cuộc đời của mình chứ không phải
ra tù theo sự sắp đặt mà anh Minh đã nói với cậu
trước đây. Từ ít lâu nay, cậu tránh những cuộc chuyện
trò tâm sự riêng với anh Minh. Có lẽ anh cũng thấy điều
đó nên không tìm dịp gần gũi cậu như trước nữa. Tân
cảm nhận nơi anh, không còn cái vẻ phấn khởi và tự
hào, cái nét đặc trưng của người cán bộ cộng sản.
Anh thường tỏ vẻ đăm chiêu. Có lẽ anh nhận ra rằng
anh và những đồng chí trong ban lãnh đạo bí mật không
còn đủ sức giữ vững lòng kiên định của quần chúng
nữa. Anh tiên đoán rằng hầu hết anh em còn lại sẽ
chịu chào cờ và ghi tên học tập chính trị trong đợt
sắp tới. Nhóm nồng cốt của anh sẽ không còn khối
quần chúng đông đảo để núp vào mà duy trì sự chống
đối nữa.
Tân biết chắc chắn rằng anh
Minh sẽ không dễ dàng bỏ cuộc. Anh không thể nào đứng
nghiêm để chào lá cờ của quân thù, không thể nào ngồi
yên hàng giờ trong lớp học để nghe tiếng loa ong óng
vạch trần sự sai trái của chủ nghĩa mà anh đang tôn
thờ, vạch trần tội lỗi của tổ chức mà anh nguyện
cống hiến hết sức lực và toàn bộ cuộc đời mình.
Tân bỗng sực nhớ đến lời
nói của ông y sĩ Thái: “Người đảng viên cộng sản
tự nguyện xiềng mình lại trong một gông cùm mà họ gọi
là cao cả và không thể tự thoát ra được. Cái xiềng
nầy vô hình nhưng nó chắc hơn nhiều lần cái xiềng
bằng kim loại của cảnh sát công an.” Nếu quả thực
như thế thì anh Minh và nhiều người khác đã tự xiềng
mình lại rồi, không còn thế nào tự thoát ra được.
Còn cậu may mắn, chưa chui hẳn vào xiềng thì đã bị
bắt cầm tù.
Cậu cảm thấy tâm hồn mình
thoải mái nên một hôm, nhân lúc rảnh rỗi, cậu bày tỏ
với ông Thái dự định của mình sẽ tham gia học tập
chính trị vào khóa tới để được trả tự do. Ông y sĩ
già hân hoan siết tay cậu. Kể từ đó, sự thân mật trở
lại với hai người và cậu lại nhận nơi ông cái nhìn
và nụ cười trìu mến.
Trong các phòng giam, tù nhân đồn
đãi với nhau rằng đợt học tập thứ nhì sẽ bắt đầu
trong vòng một tuần lễ nữa. Quả đúng như thế, toán
thợ mộc ngưng công việc thường ngày để sửa lại nhà
ăn cho rộng ra, đóng thêm một số ghế ngồi, vì mọi
người đều dự định theo học.
Sau đợt học vừa qua, có nhiều
người được ra về nhưng các phòng lại nhận thêm tù ở
khám Gia định giải đến nên số người trong mỗi phòng
tăng lên. Do đó lớp học sắp tới dự trù sẽ có rất
đông người tham dự. Tân vui vẻ chờ đợi.
Một buổi sáng, vừa từ nhà ăn
về sau bữa điểm tâm, Tân sửa soạn đến phòng y tế
để làm việc. Hôm nay là ngày cuối tháng, cậu phải
kiểm kê số thuốc tiêu thụ, đối chiếu với số thuốc
còn tồn kho và mới được cấp phát trong tháng. Đó là
một công việc tỉ mỉ và phức tạp, mất nhiều thì
giờ.
Những tháng trước, công việc
nầy đã được hoàn tất một cách gọn gàng và chính
xác. Ông y sĩ già rất bằng lòng, nhiều lần ngợi khen
cậu thông minh, cần mẫn và có tinh thần trách nhiệm.
Mỗi lần khen cậu, ông không quên bảo rằng ông rất
tiếc là cậu bỏ dở công việc học hành. Nếu tiếp tục
học chắc chắn cậu sẽ thành công và trở thành một
trí thức của xã hội. Ông bảo rằng xã hội bên ngoài
hiện nay là một xã hội thanh bình, mọi người đang vui
sướng sau những năm dài chiến tranh. Với hiệp định
Genève, người Pháp đã trao hẳn chủ quyền cho chúng ta.
Sau khi dẹp được nạn bè phái chia rẽ, nạn phá hoại
của cộng sản, bây giờ chính phủ mới ra sức tập họp
những người yêu nước, tạo điều kiện để họ thực
hiện lòng ái quốc của mình. Điều kiện đầu tiên là
phải trang bị kiến thức cho họ vì yêu nước mà ngu dốt
thì chẳng ích lợi gì cho đất nước mà còn dễ bị lợi
dụng để làm hại cho đất nước nữa.
Tân đã suy nghĩ nhiều sau những
lần nói chuyện với ông y sĩ già, nhất là khi ông đề
cập đến lòng yêu nước. Cậu nhớ lại những bài học
yêu nước mà cậu đã được nghe nhiều lần ở nhiều
nơi trước đây. Chính những bài học về lòng yêu nước
đó đã khiến cậu bỏ tất cả, giã biệt cuộc sống
yên vui và việc học hành để lao vào công tác cách mạng.
Sau khi ở chiến khu về, cậu đã trở lại ngồi trên ghế
nhà trường. Tuy nhiên, trở lại lớp không phải để học
hành, để trau dồi kiến thức mà chỉ coi đó là một
phương tiện để phục vụ cách mạng. Cậu còn nhớ,
trong một buổi học tập nghị quyết khi còn hoạt động
cho thành đoàn, đồng chí bí thư đã có nói rõ: “Chúng
ta phải xem tất cả các trường học ở miền Nam là
những cơ sở hoạt động hợp pháp của đoàn. Các đồng
chí nên nhớ rằng đảng cử các đồng chí về trường
không phải để chăm lo học hành mà để hoàn thành công
tác mà đảng giao phó”. Bây giờ, cậu đã quyết tâm từ
bỏ cách mạng. Nếu may mắn được trở về trường, cậu
sẽ là một học sinh thuần túy, chăm lo học hành. Lúc
đó, nhà trường thực sự là nhà trường đối với cậu.
Tân sung sướng vì những ý nghĩ trong lành nầy.
Tân vui vẻ quét sạch bàn ghế
và nhà cửa rồi ngồi vào bàn, lật sổ ra.
Có tiếng rọt rẹt, lụp bụp ở
hai chiếc loa bên hông văn phòng. Tân không quan tâm lắm
nên vẫn chăm chỉ tiếp tục công việc của mình. Cậu
biết rằng người ta đang mở máy phóng thanh. Tiếng loa
đã quá quen thuộc đối với cậu. Ngày thăm nuôi, loa
dùng để gọi tên những người ra gặp thân nhân. Ngày
thường, buổi sáng, loa phát ra vài điều nhắc nhở của
ban giám đốc, buổi chiều phát tin tức hay chương trình
ca nhạc của đài phát thanh Sài gòn. Gần đây, vài ngày
một lần, buổi sáng vào giờ nầy, tiếng loa gọi một
số người ra xe về Sài gòn để được trả tự do. Vì
vậy, tiếng loa buổi sáng lôi cuốn sự chú ý của nhiều
người nhưng Tân không quan tâm vì cậu hiểu rõ những
người được gọi tên phải là những người đã học
xong khóa tố cộng vừa rồi. Cậu nghĩ rằng trong một
vài tháng nữa, sau lớp học sắp tới, cậu cũng được
gọi tên qua tiếng loa và cậu sẽ trở về với đời
sống tự do, hít thở không khí của bầu trời lồng lộng
bên ngoài. Nghĩ đến đó, cậu thấy phơi phới trong lòng.
Bỗng cậu giật thót người vì
tiếng nói trên loa bắt đầu phát ra chát chúa:
- Phan văn Thi trại B, Nguyễn đình
Thứ trại B, Phạm bá Tân trại A, lấy tất cả đồ dùng
cá nhân lên văn phòng.
Tân vụt đứng dậy, nắm chặt
cạnh bàn, hướng ra cửa, dõng tai nghe. Tiếng loa nhắc
lại lần thứ hai tên ba người và lần nầy đốc thúc
ra xe.
Mang theo đồ dùng cá nhân và ra
xe. Đúng là rời khỏi nơi đây rồi. Đi đâu? Có lẽ
không phải ra hải đảo vì chỉ gọi tên ba người mà
thôi. Trước đây, mỗi chuyến đi hải đảo luôn luôn
gồm hàng trăm người và ngay sáng tinh sương một đoàn
xe vận tải đã đến đậu chật trước sân. Cậu nhớ
kỹ, sáng nay đi đến phòng y tế, cậu có nhìn ra phía
trước, cái sân rộng vắng tanh, thấy rõ hai cánh cổng
đóng im lìm.
Tiếng loa nhắc lại lần thứ
ba. Tân vội vã xếp quyển sổ to lại, phóng về phòng,
nhảy lên chỗ nằm, lùa mọi vật vào trong chiếc túi.
Nhiều anh em đến bu quanh cậu. Một người nói to:
- Ê Tân, mày được trả tự do
rồi đó.
Một giọng khác cãi lại:
- Trả tự do sao được? Chưa
chịu chào cờ, chưa học tập làm sao có thể về được.
Chuyến nầy bị chuyển đi nhà tù khác rồi.
- Nhưng hai đứa kia học xong rồi
mà.
- Biết đâu về lại Catinat. Có
thể có người mới bị bắt khai ra nên người ta gọi
mấy đứa nầy về đối chất hay điều tra lại.
- Phải rồi, rất nhiều trường
hợp xảy ra như thế. Mấy người bị bắt sau luôn luôn
khai cho những người bị bắt trước để bảo tồn cơ
sở bên ngoài. Xui xẻo cho người bị khai lại, chịu đòn
lần thứ hai.
Câu giải thích nầy làm cho những
người đứng chung quanh ái ngại nhìn Tân với cặp mắt
thương hại. Cậu đứng dậy, cố giữ vẻ bình tĩnh và
can đảm bắt tay từ giã từng người. Từ ngoài cửa,
anh Minh vụt chạy vào, siết chặt hai vai của cậu:
- Thôi từ biệt em. Cố gắng
lên, đừng bi quan. Đi đâu thì cũng nên vui vẻ mà chịu
đựng. Biết đâu chuyến đi nầy là điều may mắn cho
em.
Một giọng khác phụ họa theo,
cốt để an ủi:
- Biết đâu chuyến nầy được
trả tự do. Nó còn quá trẻ nên có thể được miễn học
chính trị. Mấy cái đầu chai sạn như mình thì mới cần
gọt giũa lại.
Nhiều tiếng cười ồ vui vẻ
làm cho bầu không khí bớt nặng nề. Cậu mỉm cười để
chào mọi người một lần nữa rồi bước ra khỏi phòng,
dừng lại một chút, ngoái cổ nhìn quang cảnh chung quanh
lần cuối cùng.
Cái vườn rau xanh um, nơi cậu đã
làm việc trong những tháng đầu tiên đến trại nầy.
Kia kìa, những luống rau ở sát hàng rào mà cậu được
phân công tưới hàng này, sau khi anh Quý vượt ngục bằng
lối thoát ngầm đào xuyên qua hàng rào kẽm gai. Kia kìa,
khu nhà bếp và nhà ăn với mấy dãy nhà tôn. Đây là sân
vận động có con mương dài chạy dọc theo biên. Cậu đã
nằm trong con muơng đó, khi những loạt đạn nổ vang
trong cái ngày vượt ngục tập thể gần một năm trước
đây.
Một người vỗ vào vai cậu:
- Thôi lên đường đi. Xe đang
đợi trước văn phòng kìa. Nhìn hoài vậy, vẫn còn luyến
tiếc cái nơi khốn nạn nầy hay sao?
Cậu bước vào văn phòng. Hai
người bạn tù đã đến từ trước đang ngồi xổm ở
một góc phòng. Một ông giám thị hí hoáy viết vào một
xấp giấy đặt trên bàn. Một người mặc quân phục
ngồi trên chiếc ghế đặt trước bàn, chăm chú nhìn cây
viết trên tay viên giám thị. Tân thầm đoán đó là người
đi lãnh tù đang chờ đợi biên bản bàn giao.
Quả thực, anh ta là người lính
đi giải tù. Anh nhận tờ giấy nơi ông giám thị, cẩn
thận xấp lại cho vào túi áo nhà binh, chậm chạp đứng
dậy, quay lại nhìn ba người tù rồi thủng thẳng cho tay
vào túi quần. Có tiếng leng keng nho nhỏ do kim loại chạm
vào nhau. Ba người tù trố mắt nhìn. Anh lính rút ra khỏi
túi hai chiếc còng sáng bóng. Anh bước về phía góc
phòng, nét mặt lạnh tanh. Anh bảo:
- Đứng dậy, đưa tay ra. Hai anh
nầy còng chung, chú bé nhận riêng một cái. Chú bé, máng
cái bị lên vai rồi đưa cả hai tay ra.
Thôi thế là xong. Cậu cúi xuống,
buồn bã nhìn chiếc còng số tám treo lủng lẳng trên hai
cổ tay. Chiếc còng dập tắt mọi hi vọng mong manh.
Từ hơn một tháng nay, nhiều lần
xe đến đây chở tù về Sài gòn để trả tự do. Tất
cả đều leo lên xe một cách thong thả, đưa cả hai tay
lên vẫy chào khi xe chuyển bánh dần dần ra khỏi cổng.
Lần nầy, cậu lên xe với cái còng trên tay, điều đó
có nghĩa là số phận tù đày chưa chịu buông tha cậu.
Cậu đang bị đưa đi nơi khác để tiếp tục sống những
ngày có lẽ đen tối hơn cả những ngày mà cậu đã sống
ở nhà tù nầy.
Người lính đi trước, ba người
lầm lũi theo sau, hướng về một chiếc xe nhà binh đang
đậu im lìm ở góc sân. Ba người leo lên xe một cách khó
khăn. Người lính leo lên sau cùng, ngồi trên băng ghế,
cây súng gác trên hai đùi.
Chiếc xe nổ máy, chầm chậm lăn
bánh ra đường. Tân ngồi nghiêng mình nhìn về phía sau.
Hai cánh cửa cổng bằng sắt nặng nề đóng lại. Cậu
nhỏm dậy, cố giương mắt nhìn vào những dãy phòng
giam, chỉ thấy được những mái tôn xám xịt, phần dưới
bị che khuất sau hàng rào kẽm gai với những dây leo dày
đặc. Xe bon bon trên đường nhựa xuyên qua thành phố
Biên hòa. Cuộc sống sung sướng hiện ra với nhưng con
người tự do tấp nập trên đường. Cậu cúi xuống nhìn
chiếc còng trên tay mình và suýt bật khóc vì thương
thân.
Xe ra khỏi thành phố và lướt
nhanh trên con đường quen thuộc dẫn về Gia định. Chợ
Bà chiểu đây rồi. Cảnh vật vẫn như xưa. Chính trên
con phố nầy, cậu đã trông thấy Bạch Mai lần cuối
cùng. Bỗng dưng những kỷ niệm xa xưa vụt trở lại với
hình dáng mảnh mai của cô bạn gái thân yêu ngày nào.
Trong những năm tháng dài bị giam cầm, cậu vẫn ấp ủ
trong lòng mình cái hình bóng yêu kiều đó. Nụ cười
thật tươi, đôi mắt đen lay láy trên khuôn mặt mỹ
miều, tất cả vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức cậu.
Chiếc xe dừng lại một chút rồi
quẹo vào một cổng sắt vừa mở ra. Phía bên kia là tòa
nhà nguy nga của cơ quan đầu não tỉnh Gia định. Phía
bên nầy, sau những bức tường cao bên trên có miễng
chai lởm chởm, chính là khu vực của khám đường Gia
định.
Sau khi xuống xe, ba người được
tháo còng và đi theo người lính. Tân ngạc nhiên thấy
mình được dẫn vào nơi không có những phòng giam chật
đầy người mà cậu đã từng sống hơn hai năm trước
đây. Ba người vào trong một gian nhà nho nhỏ nằm trong
một sân lộ thiên, tuy có tường cao bao bọc chung quanh
nhưng không có vẻ gì là một chốn dùng để giam cầm.
Tân ngồi xuống nền, quan sát
gian nhà một cách thoải mái. Phía trước, nhà trống
trơn, chẳng có cửa nẻo gì; phía sau, nhà tựa vào một
bức tường cao. Tân nghĩ rằng phía bên kia bức tường
cao đó mới là những phòng giam chính thức. Thế thì
người ta đưa ba người về đây để làm gì?
Mặc kệ, cậu không muốn suy
nghĩ nhiều hơn nữa. Kể từ khi người lính khóa hai tay
cậu vào chiếc còng, cậu tự nhắn nhủ mình phải im
lặng nhận chịu tất cả những cay đắng trên con đường
mà cậu sẽ phải trải qua. Đây là đâu và người ta sắp
sửa đày đọa cậu thế nào đi nữa cậu cũng chẳng cần
quan tâm.
Buổi trưa, một người đàn bà
mang cơm đến rồi bỏ đi ngay không nói một lời. Cơm
vừa xong thì một nhân viên mặc thường phục bước vào
với giấy và bút trên tay. Ông ta gọi to:
- Các anh lại đây.
Ba người vội vàng chạy đến.
Ông ta nói tiếp:
- Ba anh được đưa về đây để
lập thủ tục trả tự do. Bây giờ mỗi người lần lượt
cho tôi biết hai người thân trong gia đình đến bảo lãnh
cho các anh về. Các anh nói rõ tên họ và địa chỉ cho
chính xác. Người bảo lãnh phải đủ hai mươi tuổi trở
lên và phải có giấy căn cước. Các anh cũng phải cho
biết rõ địa chỉ trở về. Trước hết, Phạm bá Tân.
Ông lật quyển sổ và rút cây
viết ra cầm tay, sẵn sàng:
- Nói đi, tên người bảo lãnh
thứ nhất?
Sau một phút chờ đợi, không
nghe trả lời, ông ngẩng lên, thoáng ngạc nhiên:
- Phạm bá Tân. Không có Phạm bá
Tân ở đây à?
- Dạ có. Tôi là Phạm bá Tân,
nhưng tôi không có ai là thân nhân ở đây cả.
- Thế thì quê của chú ở tỉnh
phải không? Cũng được. Nói đi. Chúng tôi sẽ đánh điện
mời lên.
Tân ấp úng:
- Ở quê cũng chẳng có ai cả.
Người nhân viên tỏ vẻ tức
giận:
- Không lẽ chú mày ở dưới đất
chui lên. Cha mẹ ở đâu?
- Chết cả rồi.
- Anh chị em?
- Không có ai cả.
- Cô dì, chú bác, cậu mợ?
- Không có ai cả!
- Trời đất ơi. Đúng là hôm
nay gặp Tề thiên Đại thánh trong cục đá chui ra rồi.
Thôi để tao đi gọi yêu quái đến bảo lãnh cho Đại
thánh về động.
Ông thôi nói đùa, cố lấy giọng
nghiêm trang:
- Chú mày nhớ xem có còn người
bà con nào hay không. Bà con xa một chút cũng được.
Tân lắc đầu một cách thiểu
não, người nhân viên nói với giọng chán nản:
- Chú mày làm mất thì giờ của
tao. Không có ai bảo lãnh thì đừng hòng được về. Ở
lại đây mà ăn cơm tù cho tới già đầu. Còn hai người
kia, Phan văn Thi và Nguyễn đình Thứ, có thân nhân không?
- Dạ có.
- Khai đi.
Hai người đến cạnh bàn, nhanh
nhẹn đọc tên và địa chỉ người thân. Người nhân
viên tỏ vẻ hài lòng. Ông đứng dậy thu dọn giấy bút
và ra ngoài. Tân đến một góc phòng, gục đầu xuống
giữa hai gối trong khi hai người bạn tù kia phấn khởi
bàn bạc những việc mà họ sẽ làm khi trở về nhà.
Một ngày lặng lẽ trôi qua trong
nỗi chờ đợi khắc khoải của ba người. Thi và Tứ chờ
đợi ra về với người thân sắp đến ký tên bảo lãnh.
Tân chờ đợi người ta đến quyết định số phận của
mình. Những ngày sắp tới, cậu sẽ đi đâu? Đi về
những phòng giam mà cậu đã ở cách nay hơn hai năm tại
khám Gia định nầy hay trở lại khám Biên hòa để tham
gia lớp học? Nhưng tham gia lớp học để làm gì? Cái cửa
ải mà cậu phải vượt qua để trở về đời sống tự
do không phải là lớp học và những buổi chào cờ nữa.
Cái cửa ải bây giờ chính là sự bảo lãnh của người
thân. Còn ai là người thân của cậu nữa đâu. Cha mẹ
đã từ lâu rời bỏ anh em cậu để vĩnh viễn ra đi. Anh
Vinh, người thân duy nhất của cậu trên cõi đời nầy
thì đang ở mãi tận miền Bắc xa xôi. Biết có ngày nào
anh trở lại miền Nam. Biết có ngày nào em lại được
gặp anh, được ngồi bên anh trong những bữa cơm gia
đình, được đi bên anh trên những đường phố đông
vui và đêm đêm được nằm bên anh nghe hơi thở nhè nhẹ
của anh trong thanh vắng. Phải chi đừng có sự hận thù
giữa hai miền Nam Bắc. Phải chi đừng có cuộc chống
đối dai dẳng. Phải chi đừng có cuộc cách mạng Mùa
Thu, gia đình của cậu đã tiếp tục cuộc sống bình yên
trong ngôi làng bé nhỏ hiền hòa, đêm đêm có tiếng còi
tàu rúc lên xa xa. Ôi, tiếng còi tàu xa xưa, tiếng còi
tàu của những ngày thanh bình trong quảng đời thơ ấu
của cậu!
Ba ngày nữa lại trôi qua, ba ngày
chờ đợi dài dằng dặc. Khoảng mười giờ sáng, cánh
cửa bật mở, một người mặc quân phục bước vào, nói
to:
- Phan văn Thi, Nguyễn đình Thứ,
Phạm bá Tân. Ba người đi ra, mang theo tất cả đồ dùng
cá nhân. Nhanh lên.
Anh ta quay lui bước ra ngoài, ba
người theo sau. Tất cả leo lên chiếc xe đang nổ máy chờ
đợi. Xe thoát ra cổng và lăn bánh trên đường phố đông
vui. Người lính dẫn đi đã lên ngồi phía trước với
tài xế, phía sau xe chỉ có ba người bạn tù. Họ ngồi
với nhau một cách thoải mái, lần đầu tiên kể từ
ngày bị bắt, tay không bị còng khi ngồi trên xe.
Xe tiến vào một con đường rợp
bóng mát, giữa hai hàng cây cao vút và dừng lại trong sân
của một tòa nhà bề thế. Tân biết rõ đây là con đường
Tự đức quen thuộc. Ở đầu đường, có trường trung
học tư thục tên là Đông Tây Học đường. Ba năm trước
đây khi còn công tác trong thành đoàn, cậu vẫn thường
đến trường nầy liên hệ công tác; ở đây có một cơ
sở đoàn khá mạnh. Những chuyện đó bây giờ đối với
cậu đã thuộc về quá khứ thực xa xăm.
Xe vừa dừng bánh, người ta ra
lệnh cho ba người tù xuống xe và đi qua một hành lang
hẹp. Vừa bước vào căn phòng cuối cùng của hành lang,
Tân dừng sững lại. Trên chiếc băng dài đặt sát tường,
nhiều người đang ngồi bật đứng dậy. Hai anh Thi và Tứ
vội bước tới ôm chầm lấy người thân. Còn cậu thì
vẫn đứng yên, trố mắt nhìn một cách vô cùng ngạc
nhiên. Trước mắt cậu, ông y sĩ Thái của nhà tù Tân
hiệp đang nhìn cậu và mỉm cười một cách hiền lành.
Tại sao ông Thái lại có mặt
nơi đây? Có phải ông đến để đưa cậu trở lại trại
giam Biên hòa hay không? Nhưng đó đâu phải là nhiệm vụ
của người y sĩ. Tân suýt phì cười vì ý nghĩ lẩm cẩm
đó của mình. Thế thì ông đến đây để làm gì? Có
phải ông là trong số thân nhân của hai người bạn tù
cùng đi chung với cậu hay không?
Ông Thái đứng dậy tiến về
phía cậu, nhẹ nhàng nắm lấy tay cậu, nói một cách
thân mật:
- Cháu ngạc nhiên lắm phải
không? Tôi và vợ tôi đến đây bảo lãnh cho cháu được
trả tự do. Vợ tôi đây nầy.
Bây giờ Tân mới để ý một
người đàn bà lớn tuổi, mặc áo dài màu nâu, nét mặt
phúc hậu. Tân ấp úng:
- Con biết ơn ông bà vô cùng.
Tại sao ông bà biết con không có người thân mà đến
bảo lãnh cho con?
Ông Thái mỉm cười:
- Chuyện đó còn dài dòng, tôi
sẽ nói cho cháu nghe sau. Bây giờ, cháu phải làm cho xong
thủ tục để ra về.
Ông đẩy nhẹ cậu về một
chiếc bàn ở giữa phòng. Người ta đưa cho cậu một tờ
cam kết không hoạt động cho Việt cộng, bắt cậu đọc
kỹ và ký tên vào. Thế là xong thủ tục. Cậu nhận lại
những đồ dùng trước đây đã gởi ở Catinat khi mới
bị bắt vào rồi bước ra ngoài cùng ông bà y sĩ. Cậu
bước ra cổng sắt mở rộng và ra đường.
Cậu hít mạnh không khí vào đầy
trong lồng ngực và bước đi với một cảm giác bồng
bềnh khó tả. Đây là sự thực hay giấc mơ? Đây là ánh
sáng ban ngày hay khung cảnh huyền ảo của chiêm bao trong
giấc ngủ về đêm?
Tự do đến với cậu quá bất
ngờ làm cho trí óc cậu không theo kịp với thực tại.
Mới cách đây vài ngày, cậu đang ở khám Tân hiệp và
mong đợt học tập thứ nhì khai giảng. Mới cách đây
vài giờ, cậu đang ở khám Gia định và đang chờ đợi
người ta đưa cậu đến một nơi nào đó để tiếp tục
cuộc sống cá chậu chim lồng. Thế mà bây giờ, cậu
đang đi trên con đường của thành phố nầy. Ôi thành
phố thân yêu! Gần ba năm qua, cậu nhớ nó biết bao. Nhớ
những dãy phố, nhớ những dòng người lũ lượt, nhớ
bầu không khí se lạnh buổi sớm mai, nhớ hàng cây in
bóng những buổi trưa hè, nhớ những trận mưa đêm làm
đường phố sũng nước, loang loáng phản chiếu ánh đèn
đường.
- Thôi đi cháu. Sao cứ đứng
ngẩn ngơ như thế?
Tân giật mình vì câu nói của
ông Thái. Bà Thái đăm đăm nhìn cậu:
- Bây giờ cậu về đâu?
Tân lắc đầu:
- Con không biết về đâu. Con
không có nhà cửa gì cả.
- Tội nghiệp chưa. Thế trước
khi bị bắt, cháu ở đâu?
- Cháu ở trọ cùng phòng với
những học sinh khác. Họ là những người ở các tỉnh
đến đây để học. Gần ba năm rồi, không biết chỗ đó
còn cho học sinh trọ nữa hay không?
Cậu nhìn xuống đất, nói tiếp
với giọng buồn rầu:
- Mà nếu còn thì họ sẽ không
cho cháu ở trọ nữa. Cháu đâu còn có thể đóng tiền
trọ cho người ta.
Ông Thái ngắt lời:
- Thôi trưa rồi. Mình đi kiếm
một quán ăn. Vừa ăn vừa bàn bạc thì hay hơn đứng
ngoài đường như thế nầy.
Một chiếc taxi trờ tới. Ba
người bước lên. Họ đi về hướng Tân định, xuống
xe và vào trong một tiệm ăn khá sang trọng.
Tân ngại ngùng ngồi lên chiếc
ghế nệm êm ái trước chiếc bàn trải khăn trắng phau.
Ông Thái gọi vài món thức ăn. Trong khi đợi bồi bàn
mang lên, ông vui vẻ quay sang hỏi Tân:
- Cháu có biết hôm nay được
trả tự do không?
Tân lắc đầu:
- Cho đến sáng nay, con cũng không
ngờ được trả tự do. Ba hôm trước, được gọi về
Sài gòn, con cứ nghĩ rằng mình bị đem đi đâu đó.
Người ta còng tay, làm cho con càng đinh ninh về một tương
lai vô cùng đen tối của mình. Con chưa qua khóa học nên
không thể mơ ước được trả tự do. Bây giờ thì đã
là chuyện thực. Có phải bác đã lo cho con hay không?
Ông Thái gật đầu:
- Thực ra không phải bác lo cho
cháu mà nhờ một người bạn làm trong bộ nội vụ. Anh
ta đã đưa tên cháu vào danh sách được trả tự do mà
không cần biết đã học chính trị hay chưa. Buổi sáng
hôm đó, bác vừa đến Trung tâm cải huấn thì nghe nói
cháu vừa mới được chở về Sài gòn. Hôm sau, bác xin
nghỉ việc về đây hỏi thăm thì mới biết người ta
đưa cháu về đây để trả tự do nhưng không hoàn tất
được thủ tục vì cháu không có người bảo lãnh và
không khai được địa chỉ trở về để an ninh tiếp tục
theo dõi một thời gian. Bác vội vàng ghi tên hai bác làm
người bảo lãnh cho cháu và nhận cháu về địa chỉ nhà
bác tại Biên hòa.
Tân thắc mắc:
- Nhưng con đã lỡ khai không có
bất cứ người bà con thân thích nào cả mà.
Ông Thái phì cười:
- Người ta cần gì điều đó.
Quyết định trả tự do cho cháu là từ trên đưa xuống,
dưới nầy chỉ mong chóng hoàn tất những thủ tục đã
được quy định để đưa cháu ra khỏi nhà giam. Người
ta đang bực mình vì cháu không có người bảo lãnh nên
gặp bác xin là họ cho ngay. Họ cũng nhận bác là người
quen biết nên miễn luôn cho cháu việc trình diện hàng
tháng sau khi được trả tự do về nhà.
- Công ơn của hai bác quá lớn
không biết bao giờ con mới trả được.
- Cháu không cần phải khách sáo
như thế.
- Nhưng con vẫn thắc mắc trong
lòng là tại sao bác có lòng lo cho con đến thế. Trong
khám Tân hiệp, bác tiếp xúc với biết bao nhiêu tù nhân
chứ đâu phải riêng con. Vả lại, bác cũng biết bảo
lãnh cho một tù nhân chính trị có thể đưa đến phiền
phức, có khi nguy hiểm cho đời sống và công việc làm
ăn của mình. Bác không sợ sau khi được trả tự do, con
sẽ tiếp tục hoạt động cho Việt Cộng hay sao?
Ông Thái mỉm cười:
- Cháu đúng là một thanh niên
ngay thẳng và thành thực. Bác có nghĩ đến điều cháu
vừa nói nhưng bác vẫn tin rằng những câu chuyện giữa
hai bác cháu mình trong những tháng vừa qua ở Trung tâm
cải huấn tạm đủ để cháu nhận ra đâu là lẽ phải.
Nhưng nếu không được như thế thì cũng đành chịu
thôi. Hai bác già rồi còn sống bao lâu nữa mà lo. Cánh
cửa nhà Chúa đã thấp thoáng xa xa, cuối cùng rồi cũng
đến đó mà thôi.
Câu chuyện tạm dừng khi thức
ăn được bưng đến đặt trên bàn. Thức ăn nóng sốt,
thơm phưng phức, Tân không ngờ còn có ngày cậu được
thưởng thức những món ăn ngon lành nầy. Đang ăn, bà
Thái dừng đũa hỏi Tân:
- Ở đất Sài gòn nầy, cháu có
quen thân với gia đình nào không?
- Quen thì có vài nhà nhưng thân
thì chẳng có ai cả.
- Cháu có định về một nhà
quen nào đó hay không?
Tân trả lời một cách dứt
khoát:
- Không, con không có ý định gặp
bất cứ một người quen nào.
- Tại sao vậy?
- Vì tất cả những người quen
biết đều ít nhiều có liên quan đến công tác bí mật
của con khi chưa ở tù. Gặp lại họ, con sợ khó từ bỏ
được con đường mà trước đây con đã đi.
Tân nhớ lại lời anh Minh lúc
khuyên cậu đi chào cờ và học chính trị để được
trả tự do. Anh đã nói, làm như vậy không phải là đầu
hàng một cách hèn nhát mà chính là ẩn mình trong số
đông quần chúng để lọt qua sự sàng lọc của kẻ thù.
Anh cũng bảo rằng anh đã báo cáo điều nầy với cơ sở
bên ngoài và khi cậu ra rồi thì có người sẽ tìm đến
liên lạc ngay. Cậu nhấn mạnh ý định của mình với
ông bà Thái:
- Con nhất định từ bỏ con
đường hoạt động cho Việt cộng. Kể từ khi vào tù,
con đã có ý định đó rồi. Bây giờ, vì công ơn của
hai bác, con càng phải xác quyết sự từ bỏ nầy để
tránh liên lụy đến đời sống của hai bác. Vì vậy,
con không còn muốn gặp lại những người quen biết, nói
chi về sống với họ.
Sau câu nói đó của Tân, sự hài
lòng hiện rõ trên khuôn mặt của ông Thái. Ông quay sang
vỗ nhẹ vào cánh tay Tân:
- Bác rất vui lòng. Bác vẫn luôn
luôn tin cháu là một đứa trẻ thông minh, nhận ra đâu
là lẽ phải để đừng phí phạm cuộc đời của mình.
Bà Thái nhìn Tân với vẻ hơi
bồn chồn. Hình như bà muốn nói với cậu điều gì đó
nhưng ngại nên chưa thốt ra. Ông Thái đoán được như
vậy nên quay sang bà:
- Hình như bà muốn nói với cậu
Tân điều gì phải không?
Bà gật đầu rồi nói nhanh:
- Phải. Nếu cháu Tân không có
nơi nào ở đây để về thì đến ở tạm nhà hai bác ở
Biên hòa. Nhà hai bác trên cù lao Phố, cảnh nhà quê không
được đông đúc vui vẻ như ở Sài gòn nhưng được cái
là rất mát mẻ nhờ gió trên sông Đồng nai thổi lồng
lộng vào suốt ngày đêm. Cháu có đồng ý không?
Tân đáp lại với giọng thực
cảm động:
- Con đã mang ơn hai bác quá
nhiều, bây giờ lại trở thành gánh nặng cho hai bác nữa
sao?
Bà Thái cao hứng, khoát tay, miệng
bô bô:
- Không sao, không sao, cháu đừng
ngại.
Vì có vài người ở bàn kế bên
quay sang nhìn nên bà hạ thấp giọng:
- Bây giờ, bác gặp cháu nhưng
bác đã biết cháu từ lâu rồi. Cháu có nhớ con Hường
không?
Tân ngạc nhiên:
- Con Hường nào, con không biết.
Bà cười xoà:
- À quên. Nói tên con Hường thì
làm sao cháu biết được. Nó là vợ Đại úy Thiện,
trước là giám đốc Trung tâm cải huấn Tân hiệp của
cháu đó. Nó là bạn của bác dù nó nhỏ hơn bác đến
mười tuổi. Hai bác quen với nó trên chuyến tàu di cư
vào Nam. Chồng nó lúc đó là trung úy đã theo quân đội
rút vào Nam trước rồi. Tội nghiệp, một tay nó bế con
nhỏ mới sinh, một tay dắt thằng con trai mới sáu bảy
tuổi, lê thê lếch thếch, lìa bỏ quê hương vào Nam để
tìm chồng.
Ông Thái ngắt lời:
- Và để tìm tự do, xa lánh ngục
tù cộng sản nữa chứ.
Bà lườm ông:
- Lúc nào ông cũng muốn chen
chính trị vào bất cứ chuyện gì.
Bà quay sang Tân tiếp tục câu
chuyện:
- Bác thấy tội nghiệp nên đã
theo đỡ đần mẹ con nó cho đến khi vợ chồng được
sum họp. Từ đó, hai nhà tuy không ở gần nhau nhưng rất
thân nhau. Bác với con Hường rất hợp ý nhau. Thấy ai
khổ thì thương không cầm lòng được. Cách nay mấy năm,
chồng nó lên đại úy và được bổ về làm giám đốc
Trung tâm cải huấn nên rủ bác trai xin chuyển từ nhà
thương Biên hòa vô làm y sĩ trong Trung tâm.
Ông Thái lại ngắt lời:
- Bà dài dòng quá. Nói vắn tắt
lại. Phải kết thúc bữa ăn để nhà hàng dọn dẹp cho
khách đến sau nữa chứ.
Bà lại lườm ông:
- Gì mà hối dữ vậy. Ông nhìn
xem. Khách khứa đâu, bàn trống trơn kìa. Ngoài đường
nắng đổ lửa, ngồi đây mát nói chuyện một chốc
không được sao?
Bà tiếp tục câu chuyện với
Tân:
- Sáng chúa nhật nào vợ chồng
nó cũng đến nhà bác, có khi ăn cơm trưa rồi ở lại
chơi tới chiều. Bác trai có sắm một chiếc ghe, vợ
chồng con cái tụi nó rất thích chèo trên sông, quanh cù
lao. Con Hường nói cho hai bác nghe về cháu vì lúc đó
cháu đang kèm cho thằng con trai nó học. Nó nói cháu rất
dễ thương, hiền lành, lễ phép, dạy con nó một cách
tận tâm. Nó nói cháu rất đáng thương, mồ côi cả cha
lẫn mẹ, không có anh em gì cả, ở Sài gòn mà tự lo lấy
cái sống rồi bị cộng sản dụ dỗ mà phải vào tù. Nó
bàn với bác làm sao cứu giúp cho cháu ra khỏi trại giam.
Bác đồng ý nhưng đàn bà thì làm gì được vì có đi
đến đâu. Còn đàn ông như bác trai và Đại úy Thiện,
chồng con Hường thì ngại bị liên lụy. Họ bảo rằng
Đệ nhất Cộng hòa vừa mới được thành lập, đang
trong thời kỳ củng cố, cộng sản đang ra sức phá hoại,
liên can đến người của cộng sản thì tàn đời. Chồng
con Hường bảo đợi thủng thẳng có dịp tốt còn bác
trai thì bảo rằng phải có dịp gần gũi nói chuyện giải
thích cho cháu hiểu lẽ phải trước đã thì mới tính
chuyện cứu cháu ra được. Chuyện chưa đi đến đâu thì
chồng con Hường được bổ về làm tỉnh trưởng một
tỉnh mới được thành lập ở miền Tây. Ông đại úy
đi khỏi Trung tâm, bác trai buồn cũng muốn xin trở lại
nhà thương Biên hòa. Bác phải năn nỉ ông ở lại để
tìm dịp cứu cháu. Trước khi đi, con Hường cũng nhắn
nhủ điều nầy với bác. Bây giờ cháu được ra rồi
thì nay mai bác trai cũng từ giã Trung tâm thôi.
Thấy bác ngừng nói, Tân lên
tiếng:
- Bây giờ cháu mới biết việc
cháu ra khỏi tù là nhờ công sức lâu dài của bà đại
úy và hai bác. Cháu không biết có ngày nào gặp lại bà
đại úy để ít nhất nói một lời cám ơn. Cháu cũng
mong gặp lại thằng Dũng và bé Loan. Cháu phải cám ơn
hai đứa đó vì chúng đã thương yêu cháu dù cháu chỉ
gần gũi được vài tháng mà thôi. Gia đình của đại úy
giám đốc để lại rất nhiều kỷ niệm trong lòng cháu.
Cháu đã mất gia đình từ khi còn quá nhỏ nên tình
thương của người khác đối với cháu thực vô cùng quý
giá.
Ông Thái lên tiếng để cắt đứt
câu chuyện:
- Thôi, hãy ngưng chuyện tình cảm
lại. Trước hết phải giải quyết vấn đề chính yếu
là chỗ ở hiện tại của cháu Tân. Bác đề nghị, bây
giờ cháu ra xe về nhà hai bác ở Biên hòa. Nhà chỉ có
hai bác thôi. Mỗi ngày bác đi làm việc từ sáng đến
chiều mới về. Chỉ một mình bác gái ở nhà coi sóc nhà
cửa, nuôi gà, nuôi heo. Cháu hãy về đó, tạm một thời
gian. Về sau cháu muốn tiếp tục ở nhà bác hay đi nơi
khác cũng được. Cháu đồng ý chứ.
Tân gật đầu và nói cám ơn
thêm một lần nữa. Ba người ra khỏi nhà hàng. Một
chiếc taxi chở họ về bến xe Biên hòa.